Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG TỰ DO HÓA LÃI SUẤT TÁC ĐỘNG TỚI HUY ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.83 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG TỰ DO HÓA LÃI SUẤT TÁC ĐỘNG TỚI HUY
ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ HIỆN NAY
I. LỘ TRÌNH TỰ DO HÓA LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
1. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức
quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1998)
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất
bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế
giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ
thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao
và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
2 . Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước (từ năm 1988 đến nay)
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta
thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của
nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát
như sau:
a. Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989 – 5/1992)
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo
nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp
dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được
điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp
dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong
một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác
dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực
dương.
b. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992 – 1995)
Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi
suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay
đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ


khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho
mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi
suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh
doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi
suất ở Việt Nam.
c. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996 – 7/2000)
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước
đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực
hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và
linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần
duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND
trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ
năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.
d. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000 – 5/2002)
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng
Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ
chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng,
trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế
lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách
lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị
trường khu vực và thế giới.
e. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 – 5/2008)
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi
từng bước bắt đầu từ tháng 5/2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ,
tiếp theo 5/2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng
trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi
suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định.

f. Cơ chế điều hành lãi suất được thực hiện theo các quy định của luật
pháp(5/2008 – nay)
Từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam
áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản:
- Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn
định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong
từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của
NHTM; đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị
trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng
biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân
tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.
- Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ
chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) "Trần" là lãi suất tái
cấp vốn, "sàn" là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% - 5%/năm); lãi suất cơ
bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này;
(ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc
"bơm" tiền ra hoặc "hút" tiền về, từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị
trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.
II. THỰC TRẠNG TỰ DO HÓA LÃI SUẤT TÁC ĐỘNG TỚI HUY
ĐỘNG VỐN CHO ĐẦU TƯ HIỆN NAY
1. Thực trạng tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong nhiều năm qua đã chứng kiến sự thay đổi đáng kể về quy
mô vốn đầu tư. Một trong những nguyên nhân chính tác động đến sự thay đổi
này của quy mô vốn đầu tư chính là lãi suất.
Như ta đã biết, lãi suất và qui mô vốn đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau
được thể hiện qua công thức:
Khi lãi suất càng thấp thì cầu vốn đầu tư càng cao, dẫn đến làm tăng qui mô
vốn đầu tư và ngược lại.
Trong giai đoạn 2000 – 2007, mối quan hệ giữa lãi suất thực ngắn hạn (tiền

gửi huy động 3 tháng) với lãi suất thực dài hạn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau,
biến động cùng xu hướng, sự tăng lên trong lãi suất ngắn hạn có tác động làm
tăng lãi suất dài hạn. Điều đó cũng cho thấy yếu tố kỳ vọng về lạm phát cùng xu
hướng với sự biến động của lãi suất ngắn hạn (xem đồ thị dưới).
I=Io-b.r
Lãi suất thực kỳ hạn 3 tháng giai đoạn từ năm 1995 – 2006 ở Việt Nam
Đồ thị sau đây phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất thực trung, dài hạn với
mức độ đầu tư của toàn xã hội từ năm 2000 - 2006 (thông qua chỉ tiêu vốn đầu
tư thực hiện theo giá so sánh). Qua đồ thị cho thấy, lãi suất thực có tác động
tương đối rõ đến mức độ đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân hơn là các doanh
nghiệp nhà nước với một độ trễ nhất định.
Xu hướng giảm của lãi suất tiết kiệm thực VND trong hơn mười năm từ
1995-2006 đã có tác động tới quy mô vốn đầu tư theo hướng gia tăng lượng vốn
đầu tư. Trong mối quan hệ giữa quy mô vốn đầu tư và lãi suất, khu vực tư nhân
có sự nhạy cảm hơn so với khu vực doanh nghiệp của nhà nước. Điều này là do,
các doanh nghiệp của Nhà nước được tiếp cận nhiều nguồn vốn ngoài ngân
hàng hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và được hưởng nhiều nguồn
vốn ưu đãi với mức lãi suất thấp hơn so với khu vực tư nhân. Mặt khác, trong
giai đoạn này, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn giai đoạn trước (số
doanh nghiệp khu vực tư nhân tăng từ 35.004 DN năm 2000 lên 84.003 DN
năm 2004 và 123.392 năm 2006, số doanh nghiệp Nhà nước giảm từ mức 5.759
DN năm 2000 xuống còn 4.596 DN năm 2004 và 3.720 năm 2006). Việc tiếp
cận nguồn vốn vay ngân hàng của khu vực tư nhân ngày càng thuận lợi hơn.
Theo số liệu thống kê của NHNN, dư nợ cho vay doanh nghiệp tư nhân tăng từ
mức 55,3% tổng dư nợ năm 2000 lên 68,7% tổng dư nợ năm 2007. Vì vậy sự
thay đổi trong lãi suất càng ngày càng có ảnh hưởng lớn đến quy mô vốn đầu tư
của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói
chung.
Sang đến đầu năm 2008, với quyết tâm kiềm chế lạm phát, các ngân hàng
đều thực hiện chiến dịch lãi suất và có thời gian cực kỳ khó khăn với tính thanh

khoản. Chỉ trong có vài ngày, có NHTM tăng lãi suất tiền gửi từ 15% lên đến
19%/năm. Hệ thống ngân hàng lúc này hoạt động cực kì sôi động nhưng các
nhà đầu tư lại đứng trước khó khăn mới khi lãi suất quá cao khiến khả năng tiếp
cận vốn trở nên khó khăn. Theo khảo sát của VCCI, việc tiếp cận vốn của DN
được phân bổ như sau: ngân hàng (74%), các quỹ đầu tư (14,89%), TTCK
(4,26%). Dù là kênh tiếp cận vốn chủ yếu song tiếp cận ngân hàng là một khó
khăn lớn của DN khi mà lãi suất cho vay đã tăng cao đến 21%/năm nhưng số
DN thỏa mãn được nhu cầu vay vốn cũng rất ít (10,5%). theo thống kê của hiệp
hội doanh nghiệp vừa và nhỏ thì có tới 60% doanh nghiệp gặp khó khăn do lãi
suất tăng. Trong bối cảnh lạm phát, lãi suất tăng cao, nhiều DN đã phải tìm
kiếm các giải pháp "thắt lưng buộc bụng”.
Theo số liệu về tình hình đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam
trong giai đoạn 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng quy mô vốn đầu tư khu vực tư
nhân giai đoạn 2006-2008 chỉ đạt mức 118-119% so với tốc độ xấp xỉ 130% của
các năm trước đó. Tốc độ tăng trưởng qui mô vốn đầu tư giảm đi trong giai
đoạn 2006-2008 chịu một phần lớn tác động từ việc tăng lãi suất cho vay.
Theo báo cáo nhanh về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam
tháng 3/2010, vốn đầu tư thực hiện đạt 2,5 tỷ USD bằng 113,6% so với cùng kỳ
năm trước.
Vốn đăng ký là 2,139 tỷ USD bằng 29% so với 3 tháng của năm 2009; trong
đó vốn cấp mới là 1,924 tỷ USD và vốn tăng thêm là 215 triệu USD.
Về số dự án, trong 3 tháng của năm 2010 đã có 139 dự án được cấp mới
bằng 59,1% so với cùng kỳ năm trước (235 dự án) và có 41 dự án tăng vốn bằng
51,3% so với 3 tháng đầu năm của 2009.
Hoa Kỳ tiếp tục là quốc gia có số vốn đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam với
979,8 triệu USD bao gồm cả cấp mới và đăng ký thêm, tiếp đến là Hàn Quốc
với 584,8 triệu USD, Singapore là 146,7 triệu USD...
Qua phân tích trên, có thể thấy tác động của lãi suất trên thị trường tiền tệ
đã có tác động tương đối rõ nét đến hành vi tiết kiệm, tiêu dùng của cá nhân và
đầu tư của doanh nghiệp và phù hợp với lý thuyết, qua đó sẽ có tác động đến

tổng cầu của nền kinh tế, đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Vì vậy, việc điều
tiết lãi suất của NHNN để tác động đến tăng trưởng và lạm phát trong giai đoạn
hội nhập này là rất cần thiết.
2. Sự tác động tới huy động vốn ở Việt Nam
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động
làm thay đổi hành vi sản suất và tiêu dùng của xã hội. Lãi suất là công cụ điều
tiết cho vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả. Thông qua việc thay đổi mức và
cơ cấu lãi suẩt trong từng thời kỳ nhất định mà chính phủ có thể tác động đến
quy mô và tỉ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình
điều chỉnh cơ cấu; đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỉ lệ thất nghiệp và tình
trạng lạm phát trong nước.Trong những năm qua, thị trường tiền tệ Việt Nam đã
có khá nhiều biến động và vì thế lãi suất cũng được điều chỉnh liên tục. Nhắc
đến lãi suất, đầu tiên chúng ta phải xét đến là lãi suất cơ bản mà NHTW quy
định. Trên lý thuyết, lãi suất cơ bản sẽ là định hướng chung cho lãi suất trong
nước.
Tháng 8/2000 thay cơ chế điều hành lãi trần lãi suất cho vay bằng cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng tiền Việt Nam, và cơ chế
lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Đây là những nhân
tố tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng tín dụng VND trong năm 2000.
Từ tháng 1/2003 đến nay, lãi suất có xu hướng tiếp tục gia tăng, đặc biệt là
lãi suất tiền gửi, do hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ nói chung và chính
sách lãi suất nói riêng của NHNN. Lãi suất trên thị trường mở dao động tương
đối mạnh trong năm, lãi suất thấp nhất ở mức 1,58%/năm, cao nhất là 5% và có
xu hướng giảm dần.

×