Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Hình tƣợng con ngƣời trong nghệ thuật gốm việt nam thời lê sơ (1428 1527)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.48 MB, 208 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHAN THANH SƠN

HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT
GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT
GỐM VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ MỸ HỌC
Ngành: Mỹ học
Mã số: 92 29 007

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

1. GS. TS. Tạ Ngọc Tấn

2. PGS. TS. Vũ Thị Phƣơng Hậu

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu và các kết luận trong luận án này là trung thực và không sao chép
từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các
nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo
đúng quy định.
Nghiên cứu sinh

Phan Thanh Sơn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
A

Ảnh



Bản đồ

CTST

Chủ thể sáng tạo

ĐK

Đường kính

H

Chiều cao


HTCN

Hình tượng con người

HTNT

Hình tượng nghệ thuật

NCS

Nghiên cứu sinh

NNƯT

Nghệ nhân ưu tú

NXB

Nhà xuất bản

PGS. TS

Phó giáo sư. Tiến sĩ

PL

Phụ lục

QHTM


Quan hệ thẩm mỹ

TNPT

Tín ngưỡng phồn thực

TNTG

Tín ngưỡng tôn giáo

Tr

Trang

VHXH

Văn hóa xã hội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2. Cơ sở lý luận
1.3. Một số khái niệm sử dụng trong luận án
Tiểu kết Chương 1
Chƣơng 2: KHÁI LƢỢC VỀ THỜI LÊ SƠ VÀ NGHỀ GỐM
VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ

2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam thời Lê sơ (1428 - 1527)
2.2. Nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ
Tiểu kết Chương 2
Chƣơng 3: NỘI DUNG VÀ NGÔN NGỮ THỂ HIỆN HÌNH TƢỢNG
CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM THỜI LÊ SƠ
3.1. Nội dung thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật gốm
Việt Nam thời Lê sơ
3.2. Ngôn ngữ thể hiện hình tượng con người trong nghệ thuật
gốm Việt Nam thời Lê sơ
Tiểu kết Chương 3
Chƣơng 4: CÁC GIÁ TRỊ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ THẨM MỸ
CỦA HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI TRONG NGHỆ THUẬT GỐM
VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ VỚI NGHỆ THUẬT GỐM VIỆT NAM
ĐƢƠNG ĐẠI
4.1. Giá trị thẩm mỹ của hình tượng con người trong nghệ thuật
gốm Việt Nam thời Lê sơ
4.2. Phát huy giá trị hình tượng con người trong nghệ thuật gốm
Việt Nam thời Lê sơ với nghệ thuật gốm đương đại
Tiểu kết Chương 4
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
1
9
9
21

26
38
39
39
45
62
64
64

90
110

112
112
132
152
153
155
156
161


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuyên suốt diễn trình phát triển của lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam,
nghệ thuật gốm từ buổi đầu xuất hiện đến nay vẫn là một bộ phận cấu thành quan
trọng, không thể tách rời, đặc biệt là ở phương diện tạo hình, từ hình khối cùng các thủ
pháp tạo hình, màu sắc đặc trưng cho đến trang trí thông qua hệ thống hình tượng nghệ

thuật (HTNT) biểu hiện thành những mảng đề tài, tất cả đều mang tính thống nhất
trong sự phản ánh các mối quan hệ của con người trong đời sống tự nhiên và xã hội.
Xuất hiện từ sơ kỳ đá mới, nghệ thuật gốm thể hiện tính hình tượng bằng hệ
thống biểu tượng về thế giới tự nhiên mang tính kỹ thuật nhiều hơn là mỹ thuật.
Đến thời đại kim khí, hình tượng con người (HTCN) đã xuất hiện trong trang trí đồ
đồng. Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lịch sử dân tộc có thể bị gián đoạn,
nhưng văn hóa vẫn tiếp biến tự nhiên. Trong những giai đoạn lịch sử này, HTCN
trong mỹ thuật truyền thống của người Việt vẫn chủ yếu xuất hiện trong trang trí đồ
đồng và một số chất liệu khác như gỗ, đá, chưa thấy trên chất liệu gốm.
Bước sang thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, hơi thở tự do đã đem lại sinh
khí mới cho nền mỹ thuật dân gian truyền thống Việt Nam, cùng đó là tinh thần
“giải Hoa” bộc lộ rõ nét trong từng dấu ấn văn hóa nghệ thuật. HTCN xuất hiện
trong mọi loại hình nghệ thuật. Với nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống, thời
Lý, HTCN trong nghệ thuật gốm biểu hiện sự tiếp biến với các yếu tố văn hóa Ấn
Độ thông qua sự du nhập nghệ thuật tạo hình Chăm pa. Thời Trần, hào khí Đông A
tạo nên HTCN gắn liền với công cuộc giữ nước, đánh đuổi ngoại xâm, phong cách
hồn nhiên, tối giản của mỹ thuật dân gian là chủ đạo.
Đến thời Lê sơ, cương vực Đại Việt đã mở rộng về phía Nam đến Quảng
Nam, nhưng về cơ bản mọi hoạt động kinh tế, chính trị cũng như đặc trưng văn hóa
vẫn biểu hiện rõ hơn cả ở khu vực Bắc bộ, hình thái xã hội phong kiến dân tộc độc
tôn tư tưởng Nho giáo làm nền tảng dần trở nên hoàn thiện, ảnh hưởng của Phật
giáo, Lão giáo bị hạn chế, nghệ thuật dân gian ở các thời kỳ trước, đặc biệt là mỹ
thuật không được chú trọng phát triển. Tuy vậy, thời kỳ này nghệ thuật gốm đã phát
triển mạnh với dòng gốm hoa lam chủ đạo trên mọi phương diện tạo hình của nghệ
thuật gốm Việt Nam. Trong hệ thống hình tượng của nghệ thuật trang trí trên gốm


2

thời Lê sơ, HTCN xuất hiện trong mọi loại hình: từ sản phẩm ứng dụng đến tượng

điêu khắc gốm với sự phản ánh phong phú từ biểu hiện cho thế giới tự nhiên, các
tích thần thoại trong nước và ngoài nước, đến các nội dung phản ánh hiện thực của
đời sống xã hội...
Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, nghệ thuật gốm cũng như HTCN trên đồ gốm
đã được đề cập trong rất nhiều nghiên cứu chuyên sâu ở các lĩnh vực lịch sử, khảo cổ,
văn hóa, mỹ thuật học, nhưng hầu hết chỉ tập trung vào từng lĩnh vực nghiên cứu
chuyên biệt, cũng như chưa có nghiên cứu nào được soi xét và mang tính tổng hợp để
có thể đưa ra được những kết quả có giá trị khoa học một cách đầy đủ, đặc biệt là với
hình tượng con người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ. Chính bởi lẽ đó, cho đến
nay tuy đã có một số minh chứng cụ thể khẳng định tính đặc trưng riêng biệt của
nghệ thuật gốm Việt Nam nói chung, giá trị nghệ thuật cũng như giá trị văn hóa thông
qua hệ thống biểu tượng, HTNT..., nhưng các vấn đề nghiên cứu như hình tượng con
người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, cùng các giá trị thẩm mỹ của nó vẫn chưa
được đặt trong các quan hệ thẩm mỹ (QHTM) để đánh giá khách quan, cũng như vẫn
chưa có sự thống nhất bởi vẫn còn tồn tại những tư duy chủ quan về nghiên cứu nghệ
thuật gốm trong các mối quan hệ quốc tế và khu vực.
Với tư cách là một khoa học nghiên cứu sự vận động của các quan hệ thẩm
mỹ trong hiện thực, trong tâm hồn và trong nghệ thuật, mỹ học và cụ thể là Mỹ học
Mác - Lê nin lấy QHTM giữa con người và hiện thực làm nền tảng, cái đẹp là trung
tâm, hình tượng là đặc trưng cơ bản, nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất [22,tr40].
Khái niệm trên cho thấy, khoa học mỹ học mang tính biện chứng tuân theo các quy
luật khách quan nghiên cứu dựa trên cơ sở các mối quan hệ xã hội, quan hệ của con
người với hiện thực, tự nhiên, trên cơ sở kết quả nghiên cứu khu biệt trong từng lĩnh
vực khoa học liên quan, trên nền tảng các QHTM thông qua biểu hiện của ngôn ngữ
nghệ thuật, của HTNT, để làm nổi bật giá trị của cái đẹp trong các mối quan hệ
phức tạp trong đời sống xã hội của con người, cùng những tác động tích cực cũng
như tiêu cực trong quá trình vận động của lịch sử phát triển xã hội loài người. Bởi
vậy mỹ học cũng được ví như là triết học của cái đẹp.
Mặt khác, sự ra đời của các hình thái xã hội cùng các mối quan hệ trên mọi
phương diện đều là sản phẩm của con người và được phản ánh bởi con người. Nói cách

khác, con người là đầu mối, là nguồn gốc và cũng là nguyên nhân trong mọi biến đổi


3

của đời sống xã hội, HTCN trong nghệ thuật cũng vừa là chủ thể, vừa là khách thể
trong các QHTM và trong hệ thống các hình tượng nghệ thuật, HTCN cũng chính là
biểu hiện tập trung nhất cho các giá trị thẩm mỹ cũng như giá trị nhân văn gắn liền với
sự phản ánh khát vọng vươn tới cái đẹp của con người trong đời sống thẩm mỹ dân
tộc cũng như cho văn hóa dân tộc.
Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh (NCS) mạnh dạn chọn đề tài
“Hình tƣợng con ngƣời trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ (1428 1527)” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Mỹ học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các tài liệu lịch sử, hiện vật và tư liệu điền dã,
luận án nghiên cứu làm sáng tỏ đặc trưng nghệ thuật, sự vận động và giá trị thẩm
mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ, từ đó bàn luận nhằm
phát huy giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam từ truyền
thống đến đương đại, góp phần xây dựng một đời sống thẩm mỹ hiện đại, nhưng
vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của
việc nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ;
- Đánh giá khái quát về bối cảnh lịch sử, các điều kiện kinh tế - chính trị - xã
hội và tình hình phát triển nghề gốm thời Lê sơ;
- Làm sáng tỏ nội dung và hình thức thể hiện HTCN trong nghệ thuật gốm
Việt Nam thời Lê sơ trong các QHTM;
- Đưa ra các ý kiến bàn luận về giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật

gốm Việt Nam thời Lê sơ và các khuyến nghị về phát huy giá trị trong sự phát triển
của nghệ thuật gốm ngày nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Hình tượng con người trong nghệ
thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ qua sự biểu hiện trên các hiện vật, qua các tài liệu
nghiên cứu khảo cổ, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật.


4

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Khảo sát tiến trình phát triển của Hình tượng con người
trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ trong sự phát triển chung của mỹ thuật
truyền thống từ năm 1428 đến năm 1527. Khảo sát sự thể hiện HTCN trong nghệ
thuật gốm Việt Nam đương đại (từ những năm 2000 đến nay), nhằm phát huy giá trị
thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam ngày nay.
- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu Hình tượng con người trong nghệ
thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ tập trung vào trung tâm văn hóa cơ bản của tộc
người chủ thể là người Việt vùng Châu thổ Bắc bộ, và đó cũng chính là giới hạn
không gian của vấn đề cần nghiên cứu của đề tài đặt ra từ góc độ khoa học biện
chứng của mỹ học Mác - Lênin.
- Phạm vi địa bàn khảo sát, điền dã: Thực hiện khảo sát, điền dã chủ yếu trên
địa bàn Hà Nội, Hải Dương, tập trung vào các trung tâm gốm có truyền thống lâu
đời như Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu, Cậy (Hải Dương) và một số hiện vật lịch sử,
các bộ sưu tập tại các bảo tàng...

4.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

Luận án sử dụng mỹ học Mác - Lê nin làm nền tảng cơ sở lý luận, trong đó
vận dụng hai lý thuyết:

- Lý thuyết giá trị thẩm mỹ lấy chuẩn mực đánh giá giá trị thẩm mỹ có ba tiêu
chí: tiêu chí về tính sáng tạo, tiêu chí về tính nhân văn, tiêu chí về sự hài hoà và hoàn
thiện thẩm mỹ.

- Lý thuyết phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết
quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động.
Đồng thời, quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin

4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã
Phương pháp điền dã là phương pháp dựa vào các chuyến đi thực tế tại địa
bàn để tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập thông tin cần tìm hiểu. Phương
pháp này có vai trò quan trọng trong tiếp cận đối tượng nghiên cứu.


5

Trong quá trình nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ,
NCS đã vận dụng phương pháp điền dã để thực hiện những chuyến đi thực tế đến
các cơ sở sản xuất gốm sứ có truyền thống từ thời Lê sơ như Bát Tràng (Hà Nội),
Chu Đậu (Hải Dương), các bảo tàng..., tìm kiếm thêm những hiện vật, thông tin
phục vụ đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là phương pháp phỏng vấn nhằm giúp người nghiên cứu hiểu
sâu, hiểu kỹ về vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu, được thực hiện trong quá trình điền dã.
Phỏng vấn sâu là phương tiện tốt cho nghiên cứu nhằm chỉ ra bản chất, mô hình cấu

trúc của hiện tượng. Thông qua các câu hỏi mở có chủ định theo chủ đề, theo khách
thể để người được phỏng vấn hoàn toàn khách quan trong trả lời.
Phương pháp này dùng để phỏng vấn các cá nhân nhà nghiên cứu, họa sỹ,
nghệ nhân..., có trình độ hiểu biết về nghệ thuật gốm thời Lê sơ để lý giải về các
biểu hiện phản ánh trong HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Trong
quá trình nghiên cứu, NCS đã thực hiện phỏng vấn, nói chuyện với một số nghệ
nhân ở Bát Tràng: Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Văn Hoạt, Vũ Thị Hải Lý…; Với một
số nghệ nhân, họa sỹ ở Chu Đậu: Nghệ nhân ưu tú (NNƯT) Hạ Bá Định, Hạ Quang
Long (Hải Dương); các họa sỹ gốm như Đặng Toàn Hưng, Hoàng Tiến Thanh, kỹ
sư silicat Nguyễn Phương Loan (chuyên ngành Gốm - Trường Đại học Mỹ thuật
công nghiệp), nhà điêu khắc Nguyễn Xuân Thủy (Giám đốc Nhà triển lãm 16 Ngô
Quyền); một số nhà nghiên cứu như Vũ Đình Nhâm (Ban Mỹ thuật ứng dụng - Viện
Mỹ thuật, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam), họa sỹ Nguyễn Hải Ninh (Cục Di
sản văn hóa - Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch)…

- Phương pháp tổng hợp, hệ thống
Tập hợp các nguồn tư liệu gồm: Các nguồn sử liệu được ghi chép chính
thống; các nguồn phi chính thống như truyền thuyết dân gian; các công trình nghiên
cứu đã được công bố; các ghi chép, phỏng vấn trong qua trình điền dã; các loại hình
nghệ thuật có liên quan; thông tin internet. Qua khai thác tư liệu tổng hợp từ các
nguồn nhằm hệ thống lôgíc về tiến trình phát triển, sự phản ánh các QHTM của
HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ trong các quan hệ của đời sống
xã hội, làm cơ sở thực hiện phương pháp phân tích để tìm ra cách tiếp cận mới cũng
như những luận điểm khoa học trong nghiên cứu của mình.


6

- Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu là sử dụng kết quả nghiên cứu được hệ thống

từ các phương pháp điền dã, phỏng vấn, tổng hợp các nguồn tư liệu… để rút ra
những thông tin cần thiết, đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Khi nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ, NCS đã
sưu tầm nhiều tài liệu thuộc nhiều chuyên ngành lịch sử, khảo cổ, lịch sử mỹ thuật,
văn hóa… Tuy nhiên, trong sự hạn chế của các tài liệu chuyên khảo về HTCN trong
nghệ thuật gốm thời Lê sơ, giữa các tài liệu ở các chuyên ngành khác nhau vẫn có
sự chưa thống nhất, nhìn chung là chỉ khái lược chung chung. Do đó, việc xử lý
thông tin cần người nghiên cứu phải cẩn trọng, tỷ mỷ và công phu.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Vận dụng, sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học như: văn hóa học, mỹ
thuật, dân tộc học, xã hội học, sử học... trong các quan hệ với mỹ học để làm rõ các
vấn đề về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Sử dụng các thuật ngữ, khái niệm, các khái quát lý luận của các khoa học
khác trong nghiên cứu về mỹ thuật, văn hóa để tiến hành nghiên cứu về HTCN
trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng trong nhiều ngành khoa học. Vận dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu sẽ giải quyết được một số vấn đề phát sinh trong
quá trình nghiên cứu về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Với phương pháp này, NCS sẽ thực hiện việc so sánh đối chiếu giữa kết quả
tổng hợp tài liệu với kết quả thu thập từ nghiên cứu điền dã, quan sát tham dự và
phỏng vấn sâu để phân tích tìm ra được sự tương đồng và khác biệt về thể hiện
HTCN trong nghệ thuật gốm qua các giai đoạn lịch sử, trong QHTM với các chất
liệu khác của mỹ thuật dân gian Việt Nam, cũng như trong QHTM với các quốc gia
khác, điển hình là Trung Quốc các thời Tống, Nguyên, đặc biệt là thời Minh để
nhận biết những điểm tương đồng, khác biệt, phổ biến, đa dạng, kế thừa, tiếp biến,
giao lưu văn hóa cũng như những giá trị đặc trưng mang tinh thần độc lập dân tộc.


- Phương pháp hệ thống - cấu trúc
Phương pháp này nhằm tiếp cận hệ thống đi từ chỉnh thể đến các thành tố
hợp thành của HTCN và mối quan hệ nội tại của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt


7

Nam thời Lê sơ; đi từ các bộ phận, các thành tố biểu hiện của đời sống kinh tế,
chính trị, văn hóa xã hội thời Lê sơ để nhận diện về HTCN trong nghệ thuật gốm
Việt Nam thời Lê sơ.
Phân tích cấu trúc HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ về đặc
điểm nhân dạng, các yếu tố biểu tượng theo quy luật trong chỉnh thể thống nhất.

5. Giả thuyết nghiên cứu
- Vẫn có một mạch nguồn mỹ học dân tộc chảy từ quá khứ đến hiện tại trong
nghệ thuật gốm Việt Nam. Đặc biệt là dòng gốm hoa lam thời Lê sơ, các biểu hiện
đặc trưng nghệ thuật cũng như giá trị thẩm mỹ của nó vẫn đang giữ một vị trí quan
trọng trong sự đa dạng của nghệ thuật gốm Việt Nam đương đại.
- Hình tượng nghệ thuật là biểu hiện mang tính người cao nhất và HTCN trong
nghệ thuật gốm Việt Nam truyền thống là biểu hiện tập trung nhất của mỹ học dân gian
truyền thống.
- Đời sống thẩm mỹ ở mọi thời đại, giữa truyền thống và hiện đại luôn tồn tại
mối quan hệ có tính tương tác, nó là những nhân tố quan trọng tác động tới cả chủ
thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ, tạo nên giá trị thẩm mỹ cho HTCN trong nghệ
thuật nói chung, nghệ thuật gốm nói riêng.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên phương diện ý nghĩa khoa học, nghiên cứu Hình tượng con người trong
nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ nhằm đóng góp một cách có hệ thống về các
QHTM, thực chất là quan hệ của con người với hiện thực trong bối cảnh đời sống, xã

hội, của từng giai đoạn phát triển lịch sử văn hóa học, lịch sử học, dân tộc học, xã hội
học, triết học dân tộc trong sự bất phân của văn - sử - triết... bằng đặc trưng của HTNT.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài nghiên cứu sẽ đóng góp về mặt lý luận và thực
tiễn, xác định rõ nền tảng phát triển của đời sống thẩm mỹ, quy luật vận động. Đồng
thời làm rõ diễn biến những tác động từ đời sống văn hóa xã hội cũng như áp lực
chính trị vào các QHTM thông qua Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm
Việt Nam thời Lê sơ.
Vận dụng sức mạnh của HTNT để tạo nên một môi trường văn hóa thẩm mỹ
nhằm phát huy triệt để các chức năng xã hội của nghệ thuật, tạo ra những tác động
mang tính giáo dục tích cực tới nhận thức về văn hóa dân tộc và thẩm mỹ dân tộc


8

trong xã hội Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, để từ đó tạo được nền tảng vững chắc
cho sự phát triển nghệ thuật gốm hiện đại mang đậm tính thời đại bằng màu sắc văn
hóa nghệ thuật bản địa.
Trên cơ sở những nhận định rút ra từ quá trình nghiên cứu, đề tài đưa ra một
số đề xuất cụ thể nhằm có được phương thức chuyển tải những yếu tố bản sắc văn
hóa trong nghệ thuật gốm, đặc trưng thẩm mỹ của người Việt kết hợp với HTCN
thông qua ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại để tạo ra một cấu trúc mở, sẵn sàng tiếp
nhận những cái mới, cái hiện đại, đặc biệt là phát huy năng lực bản địa hóa các yếu
tố ngoại lai trong tiến trình hội nhập, nhưng vẫn giàu bản sắc truyền thống của
người Việt. Các họa sỹ, nghệ nhân có thể lấy đó làm gợi ý, tiền đề về mặt lý luận để
chủ động vận dụng, đưa yếu tố văn hóa, bản sắc dân tộc vào nghệ thuật gốm một
cách hài hòa, hợp lý, phù hợp, không gượng ép, dung hòa với các tiêu chí khác của
đời sống nghệ thuật; giữa phong cách, tính thẩm mỹ dân tộc với yêu cầu thực tiễn
trong các QHTM và đời sống xã hội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,

luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của luận án
Chương 2: Khái lược về thời Lê sơ và nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Chương 3: Nội dung và ngôn ngữ thể hiện hình tượng con người trong nghệ
thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Chương 4: Các giá trị và phát huy giá trị thẩm mỹ của hình tượng con người
trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ với nghệ thuật gốm Việt Nam đương đại.


9

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Hình tượng con người là một đề tài hằng xuyên trong diễn trình lịch sử mỹ
thuật Việt Nam nói chung, trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ cũng không phải là
ngoại lệ. Trong sự vận động của các QHTM giữa con người và hiện thực, bằng
ngôn ngữ nghệ thuật đặc trưng của chất liệu gốm, HTCN trong nghệ thuật gốm
Việt Nam thời Lê sơ biểu hiện sự vận động của cái đẹp trong các hình thức tồn
tại khác nhau nghệ thuật tạo hình. Mặt khác, thông qua HTCN trong nghệ thuật
gốm thời Lê sơ, đời sống thẩm mỹ của một giai đoạn lịch sử được tái hiện tương
đối đầy đủ trong sự phức hợp của các QHTM với hiện thực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Nó là biểu hiện của một lĩnh vực tinh tế và nhạy cảm của đời sống
tinh thần con người, một bộ phận hữu cơ cấu thành văn hóa nhân loại, biểu hiện
trình độ phát triển cao của các quan hệ văn hóa, xã hội. Trong những năm qua,
đã có nhiều công trình nghiên cứu (cả trong nước và nước ngoài) ở rất nhiều góc
độ khác nhau (triết học, văn hóa học, nghệ thuật học...), với những mức độ khác
nhau (liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp) bàn về chủ đề nghệ thuật gốm, HTCN

trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ.
Theo đó, NCS tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận
án “Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ” với các
chủ đề sau:
- Nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam và nghề gốm Việt Nam thời Lê sơ;
- Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa, xã hội với lịch sử hình thành và
phát triển nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam thời Lê sơ;
- Nghiên cứu về HTNT và HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.

1.1.1. Nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Việt Nam và nghề gốm Việt
Nam thời Lê sơ
Trước hết, phải kể đến công trình Lược sử mỹ thuật và mỹ thuật học của
nhóm tác giả Chu Quang Trứ, Phạm Thị Chính, Nguyễn Thái Lai. Trong cuốn sách
này, phần hai “Lịch sử mỹ thuật Việt Nam”, chương VI: Mỹ thuật thời Lê sơ


10

[46,tr194] có đề cập đến sự phát triển của mỹ thuật thời Lê sơ là một tổng thể của
ba loại hình nghệ thuật kiến trúc (kiến trúc cung đình và kiến trúc tôn giáo), điêu
khắc và hội họa. Tuy không đề cập đến chất liệu gốm cũng như nghệ thuật gốm
nhưng cuốn sách này đã khái lược những nét cơ bản về mỹ thuật thời Lê sơ, cùng
những khái niệm cơ bản về mỹ thuật nói chung có thể áp dụng cho các chất liệu
được sử dụng trong sáng tác mỹ thuật.
Cuốn sách Mỹ thuật của người Việt của Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng
nghiên cứu tổng quan lịch sử phát triển của mỹ thuật Việt Nam truyền thống từ thời
kỳ đồ đá đến đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu về nghệ thuật gốm thời Lê sơ, các tác giả
đã nêu được đặc trưng chất liệu là gốm men trắng ngà, vẽ màu lam bằng bút mềm tự
do [32,tr138], phong cách nghệ thuật mang tính mô tả giản lược, cùng một số nhận
xét tương đối rõ nét về diện mạo mỹ thuật thời Lê sơ như sự kết hợp không nhuần

nhuyễn, sự tiếp thu chưa chọn lọc..., nên còn thấy rõ dấu hiệu của sự gắn ghép các
yếu tố nghệ thuật Trung Hoa với truyền thống trong nước. Đây là một đặc điểm
quan trọng nói lên tính chất giao thời của nghệ thuật Lê sơ [32,tr138]. Các tác giả
cho rằng về sự áp dụng Khổng giáo, thời Lê sơ đã tỏ ra bất lực trước nhiệm vụ, vai
trò mà vương quyền giao cho, để rồi “nghệ thuật tạo hình thời Lê sơ là một thử
nghiệm không thành công của nghệ thuật cung đình - tập quyền và Khổng giáo
khủng hoảng” [32,tr118]. Trong bối cảnh đó, “bia đá và đồ gốm chính là thành tựu
lớn đã tạo ra trường phái và phong cách duy nhất của thế kỷ này với một nhân tố
mới là “sự thanh thoát và mộc mạc có học, vừa hiện thực vừa tinh thần hóa cao”
Cuốn Mỹ thuật thời Lê sơ, Nguyễn Đức Nùng cũng đề cập đến 4 thể loại mỹ
thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội họa trang trí và đồ gốm như hai công trình nghiên
cứu trình bày ở trên [29,tr66-71].
Cuốn sách Một con đường tiếp cận lịch sử của tác giả Trần Lâm Biền là một tập
hợp các nghiên cứu về mỹ thuật và kiến trúc dưới góc độ tâm linh của người Việt cổ
[5]. Dựa vào đặc trưng kết cấu xã hội của người Việt, tác giả từng bước nghiên cứu bản
chất của xã hội đó đến sự hình thành nhận thức thẩm mỹ cũng như quan niệm về cái
đẹp của người Việt, đặc biệt là sự giải mã các hình tượng, biểu tượng, cũng như giá trị
nhân văn của nó trong đời sống xã hội, có liên quan đến giá trị thẩm mỹ của HTCN
trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Cuốn Nghệ thuật gốm Việt Nam của Trần Khánh Chương [9], với 158 trang
nội dung là kết cấu của những bài viết giới thiệu khái lược tổng quan nghệ thuật


11

gốm Việt Nam trên hai phương diện, chất liệu kỹ thuật và nghệ thuật ở một số dòng
gốm truyền thống chủ đạo như gốm hoa nâu, gốm men ngọc, gốm hoa lam.
Năm 2001, trong cuốn Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ, tác giả Trần
Khánh Chương đã tập hợp 30 bài viết về gốm Việt Nam của mình. Trong các bài:
Nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam, tr. 130, Tượng gốm Việt Nam, tr. 229, và Gốm từ truyền thống đến hiện đại, tr. 274, với khái niệm “Gốm hoa lam là thuật ngữ để

chỉ các loại sản phẩm gốm được trang trí bằng hoa văn màu lam, mà chất liệu phát
màu chủ yếu là ô xít”[10,tr131]. Theo ông, thời Lê sơ, gốm hoa lam là những sản
phẩm có phẩm chất kỹ thuật cao, nghệ thuật độc đáo, thu hút được người dùng,
khiến nó thay thế dần gốm hoa nâu nổi tiếng của thời Lý - Trần. Về cơ bản luận án
có thể kế thừa và phát triển sâu hơn trong luận giải về hình thức biểu hiện của
HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Trong cuốn Hoàng thành Thăng Long, Viện Khoa học xã hội Việt Nam Viện Khảo cổ học - 2006, NCS quan tâm đến chương IV giới thiệu về đồ gốm sứ
trong hoàng cung Thăng Long, trong đó có gốm thời Lê sơ đã được phân loại và xác
định chủ yếu là loại gốm xương mỏng thấu quang có minh văn là chữ “quan” được
sản xuất ở lò quan Thăng Long với chất lượng tốt nhất và đây chính là những đồ
ngự dụng dành cho vua nhà Lê sơ[21,tr74 ] bên cạnh những trung tâm gốm hoa lam
như Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Nam Sách - Hải Dương).
Trong cuốn Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition (Gốm Việt Nam:
một truyền thống riêng biệt) của John Stevenson & John Guy (eds), NCS tập trung
vào một số bài sau:
John Guy trong bài Vietnamese Ceramics and Cultural Identity (Gốm Việt
Nam và bản sắc văn hóa) đã nghiên cứu nghệ thuật gốm Việt Nam trong mối quan
hệ văn hóa khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc [56,tr10-21]. NCS lấy đó làm cơ
sở so sánh, đối chiếu, tìm ra những đặc điểm chung trong sự tiếp biến văn hóa với
các yếu tố bên ngoài, nhằm khẳng định những giá trị riêng có của nghệ thuật gốm
Việt Nam thông qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
John Stevenson có bài The evolution of Vietnamese Ceramics (Cuộc cách tân
của gốm Việt Nam), nghiên cứu tiến trình phát triển của gốm Việt Nam trên các
phương diện kỹ thuật, nghệ thuật, thẩm mỹ, mối quan hệ của nghệ thuật gốm trong
môi trường chính trị xã hội [58,tr22-45]. Tác giả đã tìm ra cái đặc trưng riêng biệt
của năng lực cảm thụ cái đẹp của thợ gốm Việt Nam: “Thợ gốm Trung Quốc cảm


12


nhận cái đẹp bằng mắt, thợ gốm Việt Nam cảm nhận cái đẹp bằng con tim” (Chinese
pottery is good for the eye, Vietnamese pottery is good for the heart)[58,tr43].
John Guy, Vietnamese Ceramics in International Trade (Gốm Việt Nam
trong thương mại quốc tế), nghiên cứu đồ gốm Việt Nam trong mối quan hệ kinh tế
ngoại thương[57,tr47-60]. Trong nghiên cứu này, tác giả cho thấy, con đường thương
mại cũng chính là môi trường cho sự vận động tiếp biến của văn hóa.
Philippe Truong trong bài viết From Prehistory to Han (Từ thời tiền sử đến
Hán) [59,tr95-108] cho thấy, tác động của Trung Quốc là trực tiếp rõ ràng, nhưng thợ
gốm Việt đón nhận thụ động trên cơ sở áp đặt hay đơn thuần chỉ là sao chép, họ đã
sáng tạo nên các sản phẩm mới với các yếu tố mới trên nền tảng được học hỏi, tạo
nên tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam qua sự biểu hiện của nghệ
thuật gốm Việt Nam.
Regina Krahl trong công trình Vietnamese Blue and White and related wares
(Gốm hoa lam Việt Nam trong mối quan hệ đồ gốm), chủ yếu là trình bày các vấn
đề về mối quan hệ giữa gốm hoa lam Việt Nam với nghệ thuật gốm Trung Quốc các
đời Nguyên, Minh. Trong nghiên cứu này, tác giả có đề cập đến một loại đồ gốm
được gọi là kendi vốn có nguồn gốc từ đồ kim khí phổ biến dưới triều Minh[60,tr
154], được thể hiện bằng ngôn ngữ đặc trưng của gốm hoa lam ở cả hai loại hình
điêu khắc và hội họa.
Bùi Minh Trí, Kerry Nguyễn Long 2001, Vietnamese Blue and White
Ceramics (Gốm hoa lam Việt Nam ). Trên nền tảng khảo cổ học, nghiên cứu này
khái lược tiến trình lịch sử của dòng gốm hoa lam Việt Nam từ khái niệm, nguồn
gốc, các trung tâm sản xuất, đặc trưng nghệ thuật đến bối cảnh xuất khẩu[44,tr8],
liên quan đến các QHTM trong nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam
thời Lê sơ dưới góc nhìn của khoa học mỹ học.

1.1.2. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa, xã hội với lịch sử
hình thành và phát triển nghệ thuật gốm hoa lam Việt Nam thời Lê sơ
Cuốn The Chinese Potter - A practical history of Chinese ceramics (Gốm
Trung Quốc - Một thực tế lịch sử của gốm Trung Quốc) của tác giả Margaret

Medley Margaret Medley nhận định, tiến trình lịch sử gốm Trung Quốc là một tiến
trình công nghiệp hóa nghề gốm thủ công[55,tr265], cơ sở cho sự phát triển của các
dòng gốm nổi tiếng Trung Quốc cũng như sự lan tỏa và ảnh hưởng của nó tới truyền


13

thống gốm của hầu hết các nước vùng Đông Bắc Á và Việt Nam.
Sheh Cheng (1988), Blue and White Porcelain of the Ming and Ch,ing dynasties
(Sứ hoa lam triều Minh và Thanh), là một nghiên cứu chuyên khảo về dòng sứ hoa lam
đời Minh - Thanh (Trung Quốc) trên phương diện kỹ thuật và nghệ thuật trang trí cùng
những tác động từ chính trị - kinh tế - xã hội đến sự phát triển của dòng gốm này ở
Trung Quốc [61].
Nhìn chung, cả hai công trình nêu trên là nguồn cứ liệu quan trọng cho việc
tham chiếu những mối liên hệ có liên quan đến sự hình thành và phát triển của
HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, cùng giá trị đặc trưng riêng biệt của nghệ
thuật gốm Việt Nam truyền thống thời Lê sơ trước cái bóng khổng lồ của nghệ thuật
gốm Trung Quốc.
Tác giả Hoàng Xuân Chinh với công trình Cổ vật gốm sứ Trung Quốc. Với
424 trang cả ảnh, tác giả nghiên cứu lịch sử gốm sứ Trung Quốc dưới góc độ khảo
cổ học [7]. Bằng tính khách quan khoa học, đây là nguồn tư liệu quan trọng cho
việc mở rộng góc nhìn trong sự so sánh, đối chiếu các vấn đề thẩm mỹ của HTCN
trên chất liệu gốm giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong công trình Đại cương lịch sử mỹ học Trung Quốc của tác giả Diệp
Lang, NCS quan tâm đến: thiên thứ nhất, chương II (tr91-123); thiên thứ II,
chương XIII (tr434-456), chương XV (tr475- 527)
Ở vị trí thời hiện đại, trong nghiên cứu này, tác giả dựa trên bốn nguyên tắc:
Sự quán thông tương hỗ của mỹ học cổ điển và mỹ học đương đại; Sự dung hợp lẫn
nhau của mỹ học Trung Quốc và mỹ học phương Tây; Sự thẩm thấu lẫn nhau giữa
khoa học xã hội và khoa học tự nhiên; Sự thúc đẩy lẫn nhau giữa mỹ học cơ sở và mỹ

học ứng dụng [27,tr22].
Các phạm trù là lịch sử mỹ học, tác giả tiến hành nghiên cứu theo sơ đồ sau:
Lịch sử ý thức thẩm mỹ: Dãy hình tượng - Lịch sử nghệ thuật - Lịch sử phê
bình nghệ thuật.
Dãy phạm trù “ý tượng”, “khí vận” - Lịch sử mỹ học.
Từ đó đưa ra công thức: Lịch sử ý thức thẩm mỹ = Lịch sử mỹ học + Lịch sử
các môn nghệ thuật[27,tr33].
Dưới góc độ lý luận mỹ học Mác - Lênin, công trình nghiên cứu Đại cương
lịch sử mỹ học Trung Quốc khi đặt vào bối cảnh lịch sử cụ thể của Đại Việt thời Lê
sơ sẽ cho thấy được những giá trị riêng biệt của mỹ học Đại Việt trong bối cảnh lịch


14

sử cụ thể thời Lê sơ.
Trần Quốc Vượng (Chủ biên) với Cơ sở văn hóa Việt Nam, đi từ khái niệm cơ
bản, cấu trúc, các thiết chế và chức năng của văn hóa đến diễn trình lịch sử của văn
hóa. Lấy con người là chủ thể của văn hóa, tác giả khẳng định con người cũng là sản
phẩm của văn hóa [52,tr7]. Ông nghiên cứu con người trong hai thế giới: thực tại và
biểu tượng, cùng năng lực biểu trưng riêng có của tư duy con người [52,tr11]. Ở đó,
con người một mặt sáng tạo ra văn hóa, mặt khác con người cũng là đối tượng của văn
hóa. Đây là nguồn tư liệu bổ sung thêm cơ sở khoa học cho sự phản ánh hiện thực xã
hội thông qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Cuốn Tín ngưỡng phồn thực trong lễ hội dân gian người Việt ở châu thổ Bắc
bộ, tác giả Vũ Anh Tú [40,tr45-51] với những tiêu chí nhận diện tín ngưỡng phồn
thực (TNPT), một trong những thành tố thuộc cơ tầng văn hóa nguyên thủy, trong
mối quan hệ với các tín ngưỡng khác. Đây là cơ sở cho mối liên hệ với hiện thực tín
ngưỡng tôn giáo (TNTG) qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Trên phương diện lịch sử văn hóa, địa lý học lịch sử Việt Nam, các công trình
của học giả Đào Duy Anh đi sâu nghiên cứu các lĩnh vực kinh tế sinh hoạt, xã hội kinh

tế sinh hoạt, tri thức sinh hoạt (Việt Nam văn hóa sử cương) [2]; lịch sử địa lý Việt
Nam qua các thời kỳ (Đất nước Việt Nam qua các đời) [1] là cơ sở khoa học cho việc
xác định cụ thể hơn vấn đề văn hóa vùng, từ đó phát triển và làm rõ hơn các QHTM
trong HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ.
Công trình Làng nghề thủ công mỹ nghệ miền Bắc của tác giả Trương Minh
Hằng [18], hay cuốn Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của tác giả Bùi
Văn Vượng [50], phần lịch sử tuy khái lược, nhưng phần nào cũng có giá trị trong
nghiên cứu về tính truyền thống và kế thừa truyền thống, qua đó luận giải sâu hơn
về tính quy luật trong sự vận động của HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ
Trần Duy, 2002, Cảm luận nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật [11,tr201-209]. Bằng
các phương pháp nghiên cứu liên ngành hiện đại: triết học, sử học, huyền học, địa lý
phong tục học..., được xâu chuỗi thành một hệ thống nghệ thuật học ở cả phương Tây
và phương Đông. Tác giả đã dàn trải nghiên cứu theo các mốc lịch sử, nhưng không
minh chứng được bằng các sự kiện văn hóa nghệ thuật cụ thể. Tuy vậy vẫn có những
nhận định mang tính tương đồng với nhiều nghiên cứu khác về lịch sử nghệ thuật, mỹ
thuật Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc.
Công trình Về tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình của Viện Nghệ thuật -


15

Bộ Văn hóa của nhiều tác giả nghiên cứu về tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình,
chủ yếu là về mỹ thuật hiện đại [20,tr94,95]. Tuy nhiên, bài Một số đặc điểm dân
tộc trong tranh dân gian của cán bộ phê bình mỹ thuật Nguyễn Trân lại có một số
vấn đề liên quan đến đề tài HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ, bởi dù có sự ảnh
hưởng của yếu tố ngoại lai, nhưng HTCN cũng như thiên nhiên đều được hình
thành từ thực tế cuộc sống tự nhiên, xã hội, được người thợ phản ánh lại bằng trí
nhớ, lấy ước lệ tạo hình làm tiêu chuẩn.
Cuốn Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á của tác giả Phạm Đức
Dương, nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á trên cơ sở quan

hệ của con người với ba thế giới: thế giới thực tại, thế giới biểu tượng, thế giới ý
niệm, với đặc trưng nổi trội là sự thống nhất trong đa dạng [12,tr16]. Kết cấu xã hội
lấy mô hình bản, làng khép kín độc lập làm hạt nhân, tạo nên quan hệ con người với
tự nhiên ở ba vấn đề: triết lý âm dương, các hệ lịch, triết lý sống dựa trên quan điểm
“vạn vật hữu linh”. Phân tích cơ tầng Đông Nam Á trong văn hóa Việt Nam, tác giả
nghiên cứu sự khu biệt của văn hóa Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á. Theo
ông, văn hóa như có chất keo dính kết các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội
tạo nên hình hài và bản sắc dân tộc không thể bị trộn lẫn, ngay cả khi hội nhập với
những cộng đồng lớn hơn, bởi văn hóa có khả năng bao quát một cách trực tiếp,
đảm bảo tính bền vững xã hội, tính kế thừa:
Mỗi nền văn hóa dân tộc đều có tính đặc thù riêng biệt, không chỉ điều kiện
môi trường, lịch sử xã hội tạo nên sự khác nhau của các nền văn hóa, tâm lý của con
người ngay cả khi rất gần nhau vẫn luôn tồn tại ý thức khu biệt “ta với người” cũng
là một yếu tố quy định quan trọng trong sự khác nhau của các nền văn hóa [12,tr10].
Đây chính là những vấn đề liên quan đến các QHTM giữa con người với con
người, con người với hiện thực ở mọi khía cạnh đời sống vật chất và tinh thần,
mang giá trị thẩm mỹ trong các quan hệ hội dưới góc độ khoa học mỹ học.
Cuốn Văn hóa gốm của người Việt vùng đồng bằng sông Hồng của tác giả
Trương Minh Hằng cho thấy “khảo về sự khởi nguồn, khởi nghiệp của các làng
nghề gốm cổ đồng bằng sông Hồng, có thể nhận thấy, hiếm có làng nào không hình
thành từ sông và sinh tồn nhờ sông” [17,tr32]. Trong sự liên quan đến HTCN trong
nghệ thuật gốm thời Lê sơ có một số điểm sau:
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu về một số khái niệm về gốm và đồ gốm bổ


16

sung và mở rộng cho đề tài những khái niệm thuộc các chuyên ngành nghiên cứu
khác như văn hóa học, khảo cổ học.
Thứ hai, sự phân bố làng nghề gốm luôn gắn liền với một dòng sông.

Thứ ba, vai trò của các con sông như những dòng chảy của quá trình tiếp
biến văn hóa đan xen cùng các hoạt động thương mại. Đây là cơ sở cho sự hình
thành, phát triển với những đặc điểm khác nhau ở mỗi thời điểm lịch sử của HTCN
trong nghệ thuật gốm nói chung, nghệ thuật gốm thời Lê sơ nói riêng.

1.1.3. Nghiên cứu về hình tƣợng con ngƣời và hình tƣợng con ngƣời
trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ
Công trình Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống
Việt của tác giả Trần Lâm Biền [3] đã hệ thống được sự phát triển của HTCN trong
mỹ thuật từ đầu thời kỳ tự chủ với các ảnh hưởng rõ nét từ Phật giáo và Hin đu giáo
ở dạng “hình tượng bán linh nhân”. Nhận định này này cũng được tác giả đề cập
đến trong Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt [6,tr214-223], phần
II - Giai đoạn tự chủ với bốn chương là: Biểu tượng về lực lượng tự nhiên và triết
học; Linh vật trang trí trên di tích; Hoa văn cây cỏ; Hình tượng con người. Tác giả
cho rằng, người Việt cần phải lột xác để “giải Hoa”, những yếu tố Ấn trong nghệ
thuật tạo hình thời Lý - Trần vừa trực tiếp lại vừa gián tiếp qua những cuộc xung
đột với vương quốc Chăm pa, được xem như là sự tiếp biến văn hóa quay lại với cội
nguồn Đông Nam Á. Sự xuất hiện dạng ấm kendi hoa lam thời Lê sơ có liên hệ nào
gắn với thần tích thờ thần vú Ponaga của người Chăm không? Đây cũng là một
nhiệm vụ đặt ra cho đề tài Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam
thời Lê sơ khi nghiên cứu về HTCN qua một bộ phận của cơ thể con người. Bước
sang thời Lê sơ, thế kỷ XV:
“Chính sách khắt khe của nhà nước quân chủ Nho giáo, luôn đề cao và học
hỏi văn hóa nghệ thuật Trung Hoa, nhà Lê sơ phần nào hạn chế sự phát triển của
văn hóa dân tộc, làm cho nhiều mặt của nghệ thuật truyền thống bị gãy mạch, dần đi
vào mai một. Để tới thế kỷ XVI... đã phát triển theo một chiều hướng mới”
[6,tr222] và phải sang thế kỷ XVI, HTCN mới có điều kiện phát triển nhưng phát
triển chủ yếu trong nghệ thuật chạm khắc đình làng. Trong công trình này, nghệ
thuật trang trí đã được tác giả xây dựng thành một hệ thống biểu tượng tương đối
hoàn chỉnh, theo ông:



17

Biểu tượng ở chừng mực nào đó, đầy chất Người, nó phản ánh tư duy trừu
tượng, để hoa không chỉ là hoa, núi không chỉ là núi, và cuối cùng lại chính là Hoa
và Núi - tất cả vũ trụ, trời đất, muôn loài, sông núi... chỉ có thể được xác nhận bằng
chính trí tuệ của con người..., do đó biểu tượng đã góp một phần hòa mênh mông
vào trong tâm tưởng, và ngược lại, bằng biểu tượng, con người như “nghe” thấy
được “tiếng thì thầm của tạo hóa” [6,tr113] và “Biểu tượng là một trong những loại
hình văn hóa mang tính Người cao nhất” [6,tr114].
Cuốn Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội của
Trần Lâm Biền - Trịnh Sinh, NXB Hà Nội (2011) [4]. Ngay trong lời mở, các tác
giả đã khẳng định, biểu tượng là một trong những loại hình văn hóa bao trùm mang
tính Người cao nhất và biểu tượng là khâu trung gian giữa giai đoạn nhận thức cảm
giác và giai đoạn nhận thức lý tính. Về ý nghĩa và giá trị nhân dạng của tượng, các
tác giả tập trung vào tượng thần linh, nhất là tượng Phật giáo. Kết quả nghiên cứu
về giá trị và ý nghĩa của biểu tượng của công trình này là cái nhìn tổng quan cho mỹ
thuật học ở cả hai thể loại trang trí - hội họa và điêu khắc trong các QHTM.
Nguyễn Đình Chiến, Phạm Quốc Quân, 2008, Gốm sứ trong năm con tàu cổ
ở vùng biển Việt Nam. Trong đó, chỉ có tàu cổ Cù Lao Chàm (Quảng Nam) là có sản
phẩm gốm sứ của Việt Nam thời Lê sơ, có niên đại thế kỷ XV [8,tr15-22]. HTCN xuất
hiện ở cả hai loại hình hội họa trang trí trên sản phẩm và tượng tròn, đề tài đa dạng từ
cuộc sống bình dân, quý tộc, đến các nhân vật truyền thuyết như tiên ông, tiên bà.
Phạm Quốc Quân có bài Về đề tài “làm tình” trên gốm sứ cổ đăng trên Tạp
chí di sản văn hóa số 2 (43) 2013 [30,tr99], sau khi ông tìm thấy:
Trong đống mảnh vỡ của con tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam, tình
cờ, người ta tìm thấy một chiếc đĩa không còn nguyên lành, đường kính 12,5cm, mà
trong lòng đĩa vẽ người đàn bà dạng và giơ chân lên trời, bởi lực đỡ của đôi tay người
đàn ông, đang ngồi xổm hành lạc..., mép đĩa có vẽ một nhân vật khác chứng kiến

cảnh hành lạc như đang đợi chờ.
Phát hiện này của Phạm Quốc Quân cùng những giả thuyết do ông đặt ra
chính là cơ hội cũng như thách thức cho NCS nghiên cứu dưới góc độ của khoa học
mỹ học.
Chu Quang Trứ với cuốn Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân
tộc, Nxb Mỹ thuật [45], đã xây dựng hệ thống tiến trình lịch sử của tượng cổ gắn
liền với môi trường tồn tại, nghệ thuật tạc tượng và phân loại với chất liệu cụ thể là


18

gỗ và đá, không có chất liệu gốm. Tuy nhiên, trong sự phản ánh hiện thực mang tính
thống nhất tương đối của mỹ thuật dân gian, công trình này có thể được sử dụng
làm cơ sở lý luận cho ngôn ngữ thể hiện HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ.
Cuốn Ngàn năm áo mũ của tác giả Trần Quang Đức (2017), Nxb Thế giới,
ngay trong lời tựa 1 của Trịnh Bách đã đánh giá là nghiên cứu sâu và được biên
soạn kỹ nhất ở Việt Nam, nếu không nói là quốc tế” về lịch sử trang phục Việt Nam
giai đoạn 1009-1945. Ở mỗi loại trang phục, tác giả đều có so sánh cụ thể với trang
phục của Trung Quốc để đưa ra những đặc trưng mà tác giả gọi là “dị biến độc
đáo”[14,tr23]. Đây là cơ sở khoa học để nhận diện sự phản ánh hiện thực qua
HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ.
Trần Đình Tuấn, luận án tiến sĩ Viện Văn hóa nghệ thuật, 2013, với đề tài
Hình tượng con người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng vùng châu thổ sông
Hồng [41], nghiên cứu HTCN trong nghệ thuật chạm khắc dân gian từ thời Đông
Sơn tới thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng của biến động về văn hóa xã hội ở từng thời kỳ,
đồng thời khẳng định sự kế thừa, tiếp nối của HTCN qua các giai đoạn lịch sử; làm
rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của sự kế thừa, phát huy những giá trị nghệ
thuật thể hiện HTCN truyền thống trong nghệ thuật tạo hình mỹ thuật hiện đại. Ở
mã ngành Lý luận và lịch sử mỹ thuật, về cơ bản, tác giả đã kế thừa và phát huy
hiệu quả các nghiên cứu về HTCN trong mỹ thuật Việt Nam truyền thống, đặc biệt

đi sâu vào loại hình nghệ thuật chạm khắc đình làng thế kỷ XVII - XVIII.

1.1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nhìn tổng thể, các công trình trên đã tập trung phân tích luận giải những vấn
đề chung, mang tính khái quát về lịch sử mỹ thuật Việt Nam, trong đó có nghệ thuật
gốm qua các thời kỳ. Về hình tượng con người, các công trình nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào HTCN trong nghệ thuật điêu khắc và chạm khắc với chất liệu chủ yếu
là gỗ, đá. Vấn đề HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam nói chung, HTCN trong
nghệ thuật gốm thời Lê sơ nói riêng chỉ mang tính giới thiệu khái lược, hoặc giới
hạn trong một bài nghiên cứu như bài Về đề tài “làm tình” trên gốm sứ cổ của
Phạm Quốc Quân. Đây là một khó khăn lớn trong thực hiện đề tài của NCS. Tuy
nhiên, bằng việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, đây sẽ là những
tài liệu tham khảo có giá trị ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trong những năm gần đây nghiên cứu về mỹ thuật học, nghệ thuật


19

gốm và HTCN trong mỹ thuật Việt Nam truyền thống đã được các nhà khoa học
đặc biệt quan tâm với nhiều cách tiếp cận khác nhau; nội dung nghiên cứu về mỹ
thuật đã đề cập một cách khá toàn diện như: khái niệm, lịch sử, cấu trúc, đặc điểm,
chức năng và vai trò của mỹ thuật. Tất cả đều là nguồn tư liệu quý giá, là cơ sở lý
luận để nghiên cứu sinh tiếp tục kế thừa, phát triển trong nghiên cứu Hình tượng
con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã cung cấp những cơ sở lý luận và
phương pháp luận ở mọi góc độ dân tộc học, văn hóa học, nghệ thuật học khi đề cập
đến các quan điểm của hệ tư tưởng chi phối xã hội, đến sự biểu hiện hài hòa của các
yếu tố TGTN, các yếu tố ngoại lai, quá trình bản địa hóa…, để tạo nên cái đặc trưng
riêng biệt của Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Thứ ba, những khảo sát thực tiễn hiện vật lịch sử và các kết quả nghiên cứu

về lý luận trên các phương diện lịch sử mỹ thuật, văn hóa, mỹ học…, là những
mảnh ghép của một bức tranh toàn cảnh về đặc trưng thẩm mỹ dân tộc qua HTCN,
phản ánh toàn diện và sâu sắc đến con người và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
Việt Nam trong lịch sử. Đây những tư liệu quý báu để NCS kế thừa và nghiên cứu
sâu hơn về Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Thứ tư, trong điều kiện hạn chế các dữ liệu lịch sử, những đánh giá, nhận xét
và những kết luận được các nhà nghiên cứu đưa ra hết sức đúng đắn, khách quan và
xác thực. Các nhà khoa học đều thừa nhận sự học hỏi từ các yếu tố nghệ thuật ngoại
lai là tất yếu trong sự vận động của lịch sử, của tiếp biến văn hóa để tạo nên cái đặc
trưng của văn hóa Việt Nam là thống nhất trong đa dạng.
Thứ năm, dưới góc độ khoa học mỹ học Mác - Lê nin, các kết quả nghiên
cứu dù ở góc độ chuyên ngành nào cũng đều mang những giá trị nhất định liên quan
đến các phạm trù thuộc QHTM. Đây chính là cơ sở để nghiên cứu sinh hệ thống,
mở rộng phạm vi nghiên cứu Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam
thời Lê sơ.

1.1.5. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, những nghiên cứu về HTCN trong
nghệ thuật gốm là rất hạn chế, đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về HTCN
trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ dưới góc nhìn của khoa học mỹ học.
Như vậy nghiên cứu “Hình tượng con người trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời


20

Lê sơ” là một vấn đề mới, luận án sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu một số vấn đề sau:
Một là, Theo cách tiếp cận mỹ học, HTCN trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ
phản ánh chính con người Việt Nam thời kỳ đó. Con người trong mối QHTM này
vừa là chủ thể lại vừa là đối tượng thẩm mỹ trong tự nhiên và xã hội. Theo đó, luận
án đưa ra cấu trúc thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ

bao gồm: đối tượng thẩm mỹ; chủ thể thẩm mỹ; nghệ thuật trong quan hệ thẩm mỹ.
Hai là, hình tượng con người trong nghệ thuật gốm thời Lê sơ là một bộ phận
của nghệ thuật tạo hình dân gian truyền thống, song cái đẹp trong nó luôn là sự tổng
hòa của hai yếu tố mỹ thuật và kỹ thuật ở cả hai khía cạnh tự thân nội lực (yếu tố
bản địa) và ngoại lực (yếu tố ngoại lai). Vì vậy, cần nghiên cứu sự tác động, ảnh
hưởng của những yếu tố bên ngoài như một động lực để hoàn thiện và phát triển
yếu tố bên trong, tạo nên tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa, một nhân tố
mang sức sống mới cho mỹ thuật dân gian truyền thống Việt Nam nói chung,
HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ nói riêng với những đặc trưng
riêng biệt.
Ba là, luận án đi sâu đánh giá vai trò phản ánh của HTCN trong nghệ thuật
gốm Việt Nam thời Lê sơ đối với hiện thực lịch sử trên các phương diện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội bằng một hiện thực thứ hai được người Việt xưa tái hiện
qua HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ.
Bốn là, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu HTCN trong nghệ
thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ dưới góc độ toàn diện của khoa học mỹ học Mác Lênin. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những luận giải cụ thể nhằm làm rõ hơn các
giá trị thẩm mỹ của HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ, từ đó làm
sáng tỏ tính logic trong nhận thức cũng như ý thức thẩm mỹ dân tộc ở một giai đoạn
lịch sử.
Năm là, trên thực tế, cho đến nay vẫn còn nhiều điểm trắng trong mảng lý
luận cũng như thực tiễn về HTCN trong nghệ thuật gốm Việt Nam thời Lê sơ. Vì
vậy, việc lựa chọn đề tài “Hình tƣợng con ngƣời trong nghệ thuật gốm Việt Nam
thời Lê sơ” không trùng lắp với bất kỳ một công trình khoa học nào đã được công
bố. Việc nghiên cứu bổ sung và phát triển vấn đề này một cách hệ thống sâu sắc,
đầy đủ hơn dưới góc độ mỹ học là một vấn đề lý luận - thực tiễn mới mẻ và cần
thiết. Đồng thời, những luận điểm cơ bản trong tất cả các công trình nghiên cứu trên
sẽ là tiền đề lý luận quan trọng để NCS giải quyết những nhiệm vụ khoa học do



×