Nghệ thuật Việt Nam thời Lê sơ
Nghệ thuật Đại Việt thời Lê Sơ phản ánh các các loại hình nghệ thuật của nước
Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527, chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và
âm nhạc.
Mục lục
1 Kiến trúc và điêu khắc
2 Âm nhạc
o 2.1 Âm nhạc cung đình
o 2.2 Âm nhạc dân gian
3 Xem thêm
4 Tham khảo
5 Chú thích
Kiến trúc và điêu khắc
Đĩa gốm
Bình gốm
Những công trình tiêu biểu thời Lê sơ là điện Kính Thiên, điện Cần Chánh, điện
Vạn Thọ tại Đông Đô (Hà Nội) và Lam Kinh tại Tây Đô (Thanh Hóa).
Điện Kính Thiên là nơi thiết triều trong cung cấm, xây dựng từ thời Lê Thái Tổ;
sang thời Lê Thánh Tông được sửa sang thêm vào năm 1465. Ngày nay phần lớn
công trình này bị phá hủy và vùi sâu, chỉ còn 4 bậc cửa bằng đá với dấu tích điêu
khắc đương thời
[1]
.
Công trình Lam Kinh được xây dựng từ năm 1433 sau khi Lê Thái Tổ qua đời,
bao gồm khu quần thể kiến trúc các cung điện (điện Quang Đức, điện Sùng Hiếu,
điện Diễn Khánh…) và miếu, lăng mộ các vua Lê. Ngày nay khu vực này bị phá
huỷ gần hết, chỉ còn lại một ít phế tích tượng ngựa đá, voi đá, nghê đá, hổ đá và
bia Vĩnh Lăng, bia Hựu Lăng, bia Chiêu Lăng.
Ngoài các cung điện, các công trình khác gồm có Quốc Tử Giám, nhà Thái học
được mở rộng đáng kể. Văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu cũng là di tích về điêu khắc
thời kỳ này còn để lại đến ngày nay.
Việc xây cất các chùa, quán mới bị hạn chế nhưng việc tu bổ các chùa, quán sẵn
có được coi trọng
[1]
. Từ thời Lê Thái Tông đến Lê Chiêu Tông, nhà Lê cho trùng
tu nhiều chùa như chùa Minh Độ ở Thanh Hà (Hải Dương), chùa Thiên Phúc
(chùa Thày) ở Quốc Oai (Hà Nội), chùa Kim Liên (Hà Nội), chùa Thuý Lai
(Thạch Thất, Hà Nội), chùa Đại Bi (huyện Gia Lương, Bắc Ninh). Tháp chùa Hoa
Yên xây thời Trần Nhân Tông bị đổ cũng được sửa chữa đầu thời Lê.
Âm nhạc
Âm nhạc cung đình
Âm nhạc cung đình chỉ chính thức xuất hiện từ thời Lê Thái Tông. Giữa ý kiến
của Nguyễn Trãi và Lương Đăng, vua Thái Tông chấp nhận ý kiến của Lương
Đăng. Lương Đăng được lệnh thiết kế dàn nhạc khí để sử dụng trong những dịp lễ.
Bộ nhạc khí cung đình được Lương Đăng thiết kế mô phỏng theo cách của nhà
Minh, gồm có
[2]
:
Trống cái
Bộ khánh có 16 chiếc khánh
Bộ chuông có 16 chiếc chuông
Đàn cầm
Đàn sắt
Sinh tiêu
Quản
Thược: Sáo ngắn, có 3 lỗ
Chúc: Đồ để gõ
Ngữ: Gõ bằng dùi
Huân: đồ nặn bằng đất, có lỗ để thổi
Trì: thổi hoà phối với huân
Phương hưởng: bộ 15 tấm kim loại, gõ bằng dùi đồng
Không hầu: loại đàn cổ
Đàn tì bà
Quản địch: sáo cổ, dài hơn 1 thước
Nổi tiếng nhất trong các bản nhạc cung đình thời Lê sơ là bản vũ “Bình Ngô phá
trận”.
Âm nhạc dân gian
Từ đầu thời Hậu Lê đến trước năm 1437, hát chèo vẫn được biểu diễn trong sinh
hoạt cung đình. Từ năm 1437, khi âm nhạc cung đình của Lương Đăng chính thức
được áp dụng thì Lê Thái Tông ra lệnh bãi bỏ trò hát chèo và thôi không tấu các
loại nhạc thông tục dân gian - những loại nhạc này bị triều đình gọi là “dâm
nhạc”
[3]
.
Tuy ra khỏi cung đình, hát chèo vẫn là thể loại âm nhạc phổ cập nhất trong đời
sống văn hoá tinh thần của nhân dân thời Lê sơ. Nhà Lê đã có những chính sách
quy định khắc nghiệt với người chuyên làm nghề ca xướng như
[3]
:
Không cho con nhà ca xướng đi thi;
Con gái nhà ca xướng không được lấy con nhà quan;
Nếu quan chức lấy con nhà ca xướng thì sẽ bị đánh gậy và giáng chức;
Con cháu nhà quan lại lấy con nhà ca xướng sẽ bị đánh và bị buộc phải ly
hôn