Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Kỳ vọng lạm phát và các yếu tố ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát tại việt nam , luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
--------------

LÊ THỊ THÚY HẰNG

KỲ VỌNG LẠM PHÁT VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN KỲ VỌNG LẠM PHÁT
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính - Ngân Hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Tp.Hồ Chí Minh - Năm 2013


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC PHỤ LỤC
TÓM TẮT
1.

GIỚI THIỆU ................................................................................................... 1


1.1

Bối cảnh lạm phát tại Việt Nam ................................................................... 1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 5

2.

LÝ THUYẾT VỀ KỲ VỌNG LẠM PHÁT VÀ TỔNG QUAN
CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ............................................................ 7

2.1

Lý thuyết về kỳ vọng lạm phát ..................................................................... 7

2.2

Các phương pháp đo lường kỳ vọng lạm phát .......................................... 15

2.2.1

Đo lường trên cơ sở khảo sát ........................................................................ 15

2.2.2

Đo lường trên cở sở thị trường tài chính ....................................................... 16

2.2.3


Đo lường trên cơ sở mô hình định lượng ...................................................... 17

2.3

Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây về kỳ vọng lạm phát........ 17

3.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. .............................................................. 23

3.1

Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 23

3.1.1

Đo lường kỳ vọng lạm phát bằng mô hình ARIMA ...................................... 24

3.1.2

Kiểm định các nhân tố tác động đến kỳ vọng lạm phát bằng mô hình
hồi quy theo phương pháp LSE và mô hình VAR ........................................ 27

3.1.2.1

Phương pháp xây dựng mô hình từ tổng quát đến đơn giản theo trường
phái LSE ......................................................................................................... 28

3.1.2.2


Mô hình tự hồi quy véc tơ -VAR…………………………………........ ....... 29


3.2

Dữ liệu nghiên cứu ....................................................................................... 32

4.

NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................. 34

4.1

Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu ...................................................... 34

4.2

Kết quả dự báo kỳ vọng lạm phát theo mô hình ARIMA có tính
mùa ................................................................................................................ 35

4.3

Kiểm định các yếu tố tác động đến kỳ vọng lạm phát qua mô hình
hồi quy xây dựng theo phương pháp từ tổng quát đến đơn giản và
mô hình VAR ................................................................................................ 37

4.4

Kiểm định tính dừng của phần dư cho mô hình ...................................... 41


5.

KẾT LUẬN ................................................................................................... 42

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHTW

Ngân hàng Trung ương

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TCTK

Tổng cục thống kê

IMF

International monetary Fund – Quỹ tiền tệ thế giới

ADB

Asian development bank – Ngân hàng phát triển Châu Á Thái Bình Dương


IFS

International foundation for science –Tổ chức khoa học quốc tế

REER

Real effective exchange rate – Tỷ giá thực hiệu lực

CPI

Consumer price index – Chỉ số giá tiêu dùng

GDP

Gross domestic product –Tổng sản lượng quốc nội

NAIRU

Non- Accelerating Inflation Rate of Unemployment – Tỷ lệ thất nghiệp
không gia tăng lạm phát (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên)

LSE

London School Economics – Học viện Kinh tế Luân Đôn

VAR

Vector autoregression – Mô hình tự hồi quy véc-tơ

ARIMA


Autoregressive Integrated Moving Average–Mô hình tự hồi qui tích hợp
trung bình trượt

ADF

Kiểm định Augmented Dickey – Fuller

AIC

Akaike information Criterion – Kiểm định Akaike

SC

Schwarz Information Criterion – Kiểm định Schwarz

ACF

Auto correlation Function - Hàm tự tương quan

PACF Partial autocorrelation function - Hàm tự tương quan riêng từng phần


DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1. Kiểm định tính dừng của các biến nghiên cứu
Bảng 4.2. Kết quả lược đồ tự tương quan và tương quan riêng phần
Bảng 4.3. Kết quả các mô hình ARIMA
Bảng 4.4. Kết quả hồi quy mô hình ARIMA (1,0,12)(1,0,12)4
Bảng 4.5. Kết quả kiểm định biến thừa cho mô hình
Bảng 4.6. Kiểm định tính dừng cho phần dư của mô hình các yếu tố tác động kỳ vọng

lạm phát
Bảng 4.7. Kiểm định tính dừng cho phần dư của mô hình VAR

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam và các quốc gia khác giai đoạn 2000 – 2009
Hình 2.1. Đường cong Philips ngắn hạn và dài hạn
Hình 2.2. Sự hình thành kỳ vọng lạm phát theo Ranyard và đồng sự (2008)
Hình 2.3. Đóng góp của mỗi nhân tố trong việc neo kỳ vọng lạm phát tại Brazil
Hình 4.1. Lạm phát thực và kỳ vọng lạm phát được mô phỏng từ mô hình ARMA
Hình 4.2. Phản ứng của kỳ vọng lạm phát trước cú sốc của các biến


DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kiểm định tính dừng (nghiệm đơn vị) của các biến
Phụ lục 2: Kết quả hồi quy mô hình ARIMA từ chuỗi lạm phát quá khứ
Phụ lục 3: Các chỉ số thống kê mô tả của mô hình ARIMA (1,0,12)(1,0,12)4
Phụ lục 4: Kết quả kiểm định phần dư từ mô hình ARIMA
Phụ lục 5: Kiểm định độ trễ tối ưu cho mô hình các yếu tố tác động kỳ vọng lạm phát
Phụ lục 6: Kết quả mô hình hồi quy tổng quát các yếu tố tác động đến kỳ vọng lạm
phát
Phụ lục 7: Kết quả kiểm định mô hình hồi quy đã loại bỏ biến trong mô hình tổng
quát
Phụ lục 8: Kết quả kiểm định từ mô hình VAR
Phụ lục 9: Kết quả kiểm định thừa biến – Wald Test


TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này tập trung vào việc đo lường, dự báo kỳ vọng lạm phát tại Việt
Nam và các yếu tố tác động đến nó. Với các kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn này
góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề như: Có thể ứng dụng mô hình ARIMA để dự

báo kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam như thế nào? Những yếu tố nào tác động đến kỳ
vọng lạm phát tại Việt Nam? Mức độ tác động của các yếu tố này đến kỳ vọng lạm
phát như thế nào? Kỳ vọng lạm phát đóng vai trò như thế nào trong việc hoạch định
các chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và lạm phát nói riêng.
Bài luận văn này đã dùng mô hình trung bình trượt tự hồi quy (ARIMA) để đo lường
kỳ vọng lạm phát từ chuỗi lạm phát quá khứ. Để kiểm định 7 yếu tố tác động đến kỳ
vọng lạm phát tại Việt Nam: lạm phát quá khứ, lỗ hổng sản lượng, chi tiêu của chính
phủ, tỷ giá thực hiệu lực, lãi suất thực, giá dầu và giá gạo, luận văn đã sử dụng mô
hình hồi quy được xây dựng theo phương pháp từ tổng quát đến đơn giản và mô hình
VAR.
Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố tác động mạnh nhất đến kỳ vọng lạm phát chính là
độ trễ của lạm phát, kế đến là lãi suất thực và mức độ tăng trong chi tiêu của Chính
phủ là hai yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến kỳ vọng lạm phát. Các yếu tố còn lại là:
thay đổi trong giá dầu, giá gạo, tỷ giá thực hiệu lực, lỗ hổng sản lượng cũng tác động
đến kỳ vọng lạm phát nhưng không thực sự rõ nét.
Qua kết quả này càng góp phần khẳng định rằng xu hướng back-looking trong việc kỳ
vọng lạm phát tại Việt Nam là rất rõ ràng, điều này thể hiện qua mức độ và sự tác
động dai dẳng của lạm phát quá khứ đến kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam trong thời
gian qua. Từ đó, một lần nữa cho thấy tầm quan trọng của việc dự báo kỳ vọng lạm
phát trong việc kiểm soát lạm phát của nước ta bên cạnh việc thực thi những chính
sách tiền tệ và tài khóa.


-1-

1.

GIỚI THIỆU

1.1 Bối cảnh lạm phát tại Việt Nam

Có thể nói, lạm phát luôn là nỗi “ám ảnh” đối với nền kinh tế và người dân nước ta.
Nhìn vào hình 1.1 dưới đây, ta có thể thấy ngoại trừ giai đoạn 2000-2003 khi lạm phát
thấp và ổn định ở mức 5% trở xuống, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam thường xuyên cao
hơn, lạm phát kéo dài lâu hơn và dao động mạnh hơn so với lạm phát ở các nước láng
giềng.

Hình 1.1: Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam và các quốc gia khác giai đoạn 2000 – 2009
Nguồn : Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2011)
Việt Nam đã từng trải qua giai đoạn siêu lạm phát trong nửa cuối những năm 1980 với
tỷ lệ lạm phát trên 300%/năm và trên 50%/năm đầu những năm 1990. Những nguyên
nhân cơ bản của tình trạng này là điều kiện thời tiết bất lợi, thiếu hụt lương thực, tốc
độ tăng trưởng chậm trong cả lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp và hệ thống tài
chính yếu kém trong suốt những năm 1980. Những cuộc khủng hoảng này được tiếp
nối bởi sự tự do hóa hàng loạt các loại giá cả và một loạt các cải cách cơ cấu kinh tế
khiến lạm phát tăng cao và trở thành khủng hoảng.


-2-

Đối mặt với những cuộc khủng hoảng này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phải tích
cực thắt chặt chính sách tiền tệ với lãi suất tháng tăng lên đến 12% và tỷ giá được giữ
cố định hoàn toàn so với USD. Kết quả của những chính sách này là lạm phát bắt đầu
giảm mạnh xuống dưới 20% năm 1992 và gần 10% năm 1995. Chính phủ tiếp tục các
chính sách vĩ mô thận trọng cùng với những cải cách sâu rộng nhằm tự do hóa giá cả
trong nước và mở cửa nền kinh tế Việt Nam cho thương mại và đầu tư quốc tế trong
những năm 1990. Giai đoạn sau năm 1995 chứng kiến cuộc khủng hoảng Châu Á và
hệ quả của nó, giá cả thế giới và tổng cầu (cầu về hàng hóa trong nước và cầu hàng
Việt Nam từ quốc tế) giảm mạnh. Giai đoạn này được đánh dấu bởi tỷ lệ lạm phát
thấp, thậm chí có thời kỳ giảm phát nhẹ đầu tiên vào năm 2000 với tỷ lệ lạm phát được
tính là -0,5% mặc dù tiền tệ và tín dụng tăng rất nhanh (30-40%/năm) và đồng Việt

Nam phá giá mạnh (khoảng 36%) trong giai đoạn 1997-2003. Lãi suất cũng dần được
tự do hóa từ giữa những năm 1990 với lãi suất cơ bản được áp dụng thay cho trần lãi
suất cho vay. Và từ năm 2002, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam được phép đặt
lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm theo các điều kiện thị trường.
Từ những năm 1996-2003, tỷ lệ lạm phát bình quân được duy trì trong khoảng từ 3%5% mỗi năm và khá ngang bằng với tỷ lệ lạm phát của các nước trong khu vực. Tuy
nhiên, sau giai đoạn ổn định này thì lạm phát có xu hướng gia tăng trở lại và ngày một
phức tạp hơn. Khởi đầu là năm 2004 với tỷ lệ lạm phát 9.5%, cao hơn rất nhiều so với
mục tiêu 6% mà Chính phủ đặt ra. Khi tiền tệ, tín dụng tăng thì lạm phát cũng tăng
theo. Khi các tác động tiêu cực đối với tăng trưởng của khủng hoảng Châu Á giảm đi,
cầu bắt đầu tăng lên. Cầu tăng lên cùng với sự tăng lên của tiền lương danh nghĩa ở cả
khu vực nhà nước và khu vực FDI trong năm 2003 đã khiến giá cả tăng lên. Đóng góp
thêm vào sự tăng giá này là các cú sốc cung do dịch cúm gà và thời tiết xấu gây ra.
Chính phủ nghiêng về quan điểm coi các cú sốc cung này là các nguyên nhân gây lạm
phát. Những cú sốc cung này chủ yếu ảnh hưởng đến giá lương thực thực phẩm với giá
lương thực thực phẩm tăng 15,5% so với tỷ lệ lạm phát chung là 9,5% và lạm phát phi
lương thực thực phẩm là 5,2% trong năm 2004.


-3-

Năm 2005 tỷ lệ lạm phát là 8,4% so với mục tiêu đề ra là dưới 6.5%. Và kể từ giai
đoạn này lạm phát tại Việt Nam luôn ở mức cao và khá xa so với tỷ lệ lạm phát của
các nước trong khu vực.
Trước tình hình này, NHNN vẫn tiếp tục sử dụng biện pháp thắt chặt tiền tệ và giữ cho
tỷ giá gần như cố định. Nhưng thành công đã không lặp lại vì tỷ lệ lạm phát sau khi
giảm nhẹ vào năm 2006 còn 6,6% đã tăng mạnh tới 12,57% năm 2007 và lên tới gần
20% năm 2008. Có nhiều lý do đã được đưa ra nhằm giải thích cho sự tăng mạnh trở
lại của lạm phát trong những năm 2007-2008. Những lý do này bao gồm sự tăng mạnh
của mức lương tối thiểu, sự gia tăng của giá cả hàng hóa quốc tế, chính sách tiền tệ
lỏng lẻo và không linh hoạt, chính sách quản lý tỷ giá cứng nhắc và thiếu linh hoạt, sự

mở cửa của Việt Nam với thế giới từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006
khiến cho luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam, đẩy giá chứng
khoán và giá tài sản lên rất cao. Để giữ ổn định tỷ giá, NHNN đã phải bơm một lượng
tiền đồng lớn vào nền kinh tế góp phần làm trầm trọng hơn tình trạng lạm phát. Chính
sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát thường dẫn đến lạm phát thực tế ở giai
đoạn tiếp theo của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá chỉ có tác động cộng hưởng cho
các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế chứ không có tác động mạnh mẽ
trực tiếp đến lạm phát. Sự gia tăng của cung tiền và tín dụng trong nền kinh tế trong cả
thập kỷ qua đã rất mạnh, đặc biệt là vào năm 2007 khi tiền tệ tăng với tốc độ 47%/năm
và tín dụng tăng 54% /năm.
Cuối năm 2008 đầu năm 2009, khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra và những hậu quả
của nó đã kéo theo tỷ lệ lạm phát Việt Nam xuống còn 6,88% trong năm 2009. Giá
quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp Việt Nam đảo ngược xu thế gia tăng
đáng ngại của lạm phát trong năm 2008. Khi các gói kích cầu của Chính phủ bắt đầu
gia tăng từ quý II năm 2009, cung tiền cũng bắt đầu tăng mạnh và tín dụng cũng có
dấu hiệu tương tự. Các ngân hàng thương mại trở nên thiếu hụt tiền mặt và đều cố
gắng tăng lãi suất nhằm thu hút tiền gửi. Vì vậy, cuộc cạnh tranh lãi suất đã bắt đầu
khiến cho lãi suất cho vay bị đẩy lên cao (vượt trần lãi suất do các khoản phí cho vay).


-4-

Tuy nhiên, lãi suất thực vẫn là âm. Việc này không khuyến khích tiết kiệm và không
khuyến khích người dân gửi tiền, làm cho lạm phát đã cao, càng cao hơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ này không giữ được lâu, năm 2010 lạm phát lại tăng mạnh trở lại ở
mức 11,75% so với mục tiêu đề ra là 7-8% và tỷ lệ lạm phát năm 2011 lên đến hơn
18% so với mục tiêu đề ra là 15% bất chấp hàng loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát
mà Chính phủ đã đưa ra. Chỉ đến năm 2012, khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, rơi
vào giai đoạn thiểu phát sâu thì tỷ lệ lạm phát mới được kéo xuống mức một con số
(khoảng 6.8%). Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho sự gia tăng mạnh mẽ của lạm

phát trong giai đoạn này như: việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010,
biến động của thị trường vàng trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, có một nguyên nhân
rất quan trọng, đó là “lòng tin” của người dân vào các chính sách của Chính phủ đang
giảm dần hay nói cách khác là “kỳ vọng lạm phát” của người dân vẫn tăng cao bất
chấp mọi nỗ lực kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Chính vì điều này mà các biện
pháp can thiệp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này đã không
phát huy tác dụng như mong đợi.
Nhìn chung khi lạm phát tăng cao tại Việt Nam thì các giải pháp đưa ra hầu hết tập
trung vào việc thắt chặt tiền tệ và bỏ qua (hoặc xem xét chưa thích đáng) các nhân tố
quan trọng khác. Như chúng ta đã biết, chính sách tiền tệ thắt chặt là một giải pháp
trong ngắn hạn đồng thời chi phí cơ hội lớn (do phải đánh đổi bằng tăng trưởng), đặc
biệt trong điều kiện nền kinh tế vừa “chập chững” thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Vì vậy, trong giai đoạn này chính sách tiền tệ thắt chặt đã góp phần
kiềm chế được sự gia tăng của lạm phát trong ngắn hạn nhưng về dài hạn thì vẫn chưa
giải quyết được triệt để đã làm cho lạm phát ngày càng nghiêm trọng hơn tại Việt
Nam.
Trước bối cảnh đó, việc xác định chính xác các nguyên nhân gây ra lạm phát từ đó đưa
ra các giải pháp phù hợp là một vấn đề rất quan trọng tại Việt Nam. Thời gian qua có
rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về nội dung này như: Camen (2006),
Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010),... Tuy nhiên hầu hết các tác giả


-5-

đã bỏ qua hoặc chưa xem xét thích đáng tác động của yếu tố kỳ vọng lạm phát
(Expectation inflation) hoặc chưa đưa ra các đánh giá mang tính định lượng liên quan
đến kỳ vọng lạm phát. Trong khi đó, các nghiên cứu thực nghiệm từ các nền kinh tế
phát triển Anh, Mỹ, Đức....đến các quốc gia mới nổi như Brazil, Ấn Độ,... đều cho
thấy tầm quan trọng của kỳ vọng lạm phát. Đây làm một nhân tố cực kỳ quan trọng
trong việc dự báo và kiểm soát lạm phát tại các quốc gia. Bên cạnh đó, việc đánh giá

thích đáng vai trò của kỳ vọng lạm phát sẽ giúp ích rất nhiều trong việc thực thi các
chính sách vĩ mô của Chính phủ.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thời gian qua, vấn đề lạm phát lại nổi lên và trở thành tâm điểm tại các quốc gia, đặc
biệt là các thị trường mới nổi nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc giữ lạm phát ổn
định, vừa phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đồng thời ổn định kinh tế vĩ mô
luôn là mục tiêu hàng đầu. Tại mỗi quốc gia khác nhau thì các nhân tố gây ra lạm phát
cũng như cách thức hình thành lạm phát đều có những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên,
trong các nghiên cứu thực nghiệm từ các nền kinh tế phát triển Anh, Mỹ, Đức....đến
các quốc gia mới nổi như Brazil, Ấn Độ ...đều cho thấy tầm quan trọng của nhân tố
“kỳ vọng lạm phát”, đây làm một yếu tố cực kỳ quan trọng việc dự báo và kiểm soát
lạm phát tại các quốc gia. Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề trên, vì vậy mục
tiêu đề tài là tập trung vào việc đo lường kỳ vọng lạm phát và phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2012, từ đó đưa ra
một số kiến nghị trong việc kiểm soát lạm phát tại Việt Nam. Giải quyết mục tiêu
nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ các câu hỏi sau đây:
(1)

Có thể dự báo kỳ vọng lạm phát bằng phương trình định lượng ARIMA từ
chuỗi lạm phát trong quá khứ như thế nào?

(2)

Những yếu tố nào ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam?

(3)

Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam như
thế nào?



-6-

Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu trên luận văn được tiến hành qua các nội dung
quan trọng như sau:
Phần đầu, giới thiệu tổng quan về tình hình lạm phát tại Việt Nam và về đề tài.
Phần hai, trình bày tóm tắt các khung lý thuyết quan trọng liên quan đến kỳ vọng lạm
phát như: đường cong Philips, đường cong Philips hiệu chỉnh, lý thuyết kỳ vọng hợp
lý, nội dung trường phái Keynes mới, các phương pháp đo lường kỳ vọng lạm phát.
Trong phần này, luận văn cũng sẽ tổng kết các kết quả nghiên cứu có liên quan đến kỳ
vọng lạm phát như: mô hình, cách thức hình thành kỳ vọng lạm phát, độ trễ kỳ vọng
lạm phát và tập trung vào các nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát
dựa theo Patra và Partha Ray (2010).
Phần ba, dựa vào các kết quả đạt được từ các nghiên cứu trước đây, luận văn chọn
phương pháp đo lường kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam thông qua mô hình ARIMA
(trung bình trượt tự hồi quy) có tính mùa vụ dựa trên số liệu lạm phát quá khứ. Bên
cạnh đó, đề tài nghiên cứu cũng xác định được phương trình hồi quy gồm 7 yếu tố tác
động đến kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam. Phần này tập trung trình bày các bước xây
dựng mô hình ARMA, mô hình hồi quy theo phương pháp từ tổng quát đến đơn giản
(còn gọi là phương pháp LSE) và mô hình VAR.
Phần bốn, xử lý dữ liệu và phân tích các kết quả thu được từ mô hình ARIMA có tính
mùa vụ và mô hình hồi quy theo phương pháp từ tổng quát đến đơn giản, hàm phản
ứng đẩy từ mô hình VAR (Vec-tơ tự hồi quy) để kiểm định mức độ tác động của các
yếu tố đến kỳ vọng lạm phát tại Việt Nam.
Phần năm, luận văn tổng kết lại các kết quả đạt được và kiến nghị một số vấn đề trong
quản lý lạm phát tại Việt Nam. Đồng thời đưa ra các hạn chế trong khuôn khổ của
nghiên cứu này nhằm đề xuất các hướng mở cho các nghiên cứu sau.



-7-

2.

LÝ THUYẾT VỀ KỲ VỌNG LẠM PHÁT VÀ TỔNG
QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

2.1

Lý thuyết về kỳ vọng lạm phát

Năm 1958, từ những bằng chứng thực nghiệm, William Philips, một nhà kinh tế người
Newzealand, trong một bài nghiên cứu với tựa đề: “The Relation between
Unemployment and the Rate of Change of Money Wage Rates in the United Kingdom,
1861-1957” đăng trên tạp chí Economica, đã mô tả mối quan hệ ngược chiều giữa sự
thay đổi tiền lương và thất nghiệp trong nền kinh tế Anh giai đoạn 1861 – 1957.
Không lâu sau đó, mối quan hệ tương tự cũng được tìm thấy ở các quốc gia khác và
năm 1960, Paul Samuelson và Robert Solow, hai nhà kinh tế người Anh, đã trình bày
“Đường cong Philips” của nước Mỹ từ 1935 tới 1959 trong một bài báo đăng trên
American Economic Review. Ngoài việc sử dụng dữ liệu nước Mỹ thay vì dữ liệu
nước Anh, họ còn đo lường tỷ lệ lạm phát giá cả (thay vì tỷ lệ lạm phát tiền lương như
của Philips) và họ tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và tỷ lệ thất
nghiệp.
Mối quan hệ ngược chiều này kết hợp cùng với lý thuyết về tiền lương, tiêu dùng, lãi
suất và thất nghiệp của Keynes (1936) đã dẫn tới nhiều gợi ý chính sách quan trọng
vào thời điểm đó. Keynes cho rằng chi tiêu của hộ gia đình tùy thuộc vào thu nhập khả
dụng kỳ vọng, và chi tiêu hay đầu tư của doanh nghiệp thì phụ thuộc vào kỳ vọng của
chủ doanh nghiệp về tình hình kinh tế trong tương lai. Ngoài ra, Keynes cùng nhiều
nhà kinh tế thuộc trường phái Keynes khi đó còn trình bày những cách thức mà các
chính sách của Chính phủ có thể tác động tới tổng cầu và từ đó tác động lên tổng sản

lượng và mức nhân dụng trong điều kiện không vượt quá giới hạn sản xuất với niềm
tin về một mối quan hệ ngược chiều bền vững giữa tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp như
đường cong Philips nêu ra. Họ cho rằng chính sách của Chính phủ sẽ thể hiện một sự
đánh đổi giữa tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát. Chính phủ có thể dùng chính sách tài khóa
hoặc tiền tệ hoặc cả hai để kích thích kinh tế đạt tới một mức tổng cầu nhất định, dẫn


-8-

tới tăng GDP và giảm tỷ lệ thất nghiệp, chấp nhận một mức lạm phát cao hơn và xem
đó như một chi phí để có được tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp thấp.
Tuy nhiên, trong những năm 1970s và đầu những năm 1980s, các nhà kinh tế bắt đầu
nghi ngờ những kết luận từ đường cong Philips khi chứng kiến tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ
thất nghiệp đều cao trong giai đoạn này. Friedman (1968) và Phelps (1967) đã tấn
công ý tưởng của đường cong Philips. Friedman cho rằng có tới 2 đường cong Philips:
đường cong Philips trong ngắn hạn (SRPC – Short-Run Philips Curve) và đường cong
Philips trong dài hạn (LRPC – Long Run Philips Curve). Theo đó đường cong Philips
ngắn hạn sẽ có dạng dốc xuống, đường cong Phillips dài hạn có dạng là một đường
thẳng đứng song song với trục tung (tỷ lệ lạm phát). Giải thích cho vấn đề này
Friedman đưa ra khái niệm “thất nghiệp tự nhiên” theo đó khi thị trường lao động cân
bằng thì vẫn có thất nghiệp, đây là dạng thất nghiệp tự nguyện. Vì vậy khi nền kinh tế
cân bằng thì lạm phát bằng “0”, nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn là con số dương (thất
nghiệp tự nhiên). Trong ngắn hạn khi Chính phủ dùng các biện pháp để kéo tỷ lệ thất
nghiệp xuống (bằng cách tác động vào tổng cung) dẫn đến lạm phát gia tăng. Trong
khi lạm phát tăng, tiền lương danh nghĩa không đổi dẫn đến tiền lương thực giảm vì
vậy giảm nguồn cung lao động (hay tự nguyện thất nghiệp) vì vậy kéo tỷ lệ thất nghiệp
tăng trở lại. Tập hợp các điểm tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và các mức tỷ
lệ lạm phát liên tục bị đẩy lên cao tạo thành một đường thẳng đứng. Đường này được
gọi là đường Phillips dài hạn hay còn gọi là đường NAIRU (Non- Accelerating
Inflation Rate of Unemployment).

Trước lập luận trên, Friedman cho rằng luôn luôn có sự đánh đổi trong ngắn hạn giữa
tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp nhưng sẽ không có sự đánh đổi trong dài hạn.Về dài hạn,
người làm công sẽ tính toán đến lạm phát và trong hợp đồng lao động, tiền lương sẽ
tăng ở mức gần bằng kỳ vọng lạm phát (tỷ lệ lạm phát trong tương lai mà thị trường dự
báo, mong đợi) và ngoài ra, ông cho rằng kỳ vọng lạm phát giai đoạn tiếp theo sẽ bằng
tỷ lệ lạm phát của những năm trước đó. Đây là giả định về “kỳ vọng thích nghi” của
Friedman. Kỳ vọng thích nghi là cách thức các chủ thể kinh tế mong đợi về tương lai
chỉ dựa vào các thông tin quá khứ. Nghiên cứu của Friedman không chỉ giới thiệu 2


-9-

dạng đường cong Philips mà còn mở ra một khía cạnh kinh tế vĩ mô “lý thuyết kỳ
vọng”. Đó là kỳ vọng của người dân về các sự kiện kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các kết
quả kinh tế.
Cùng với Friedman, Phelps (1967) đã cải biên đường cong Philip thành đường cong
Philips điều chỉnh với kỳ vọng lạm phát được đưa vào xem xét. Phelps cho rằng khi kỳ
vọng lạm phát tăng, đường cong Philips ngắn hạn sẽ dịch chuyển sang phải và lúc này
sẽ xảy ra tình trạng vừa có lạm phát cao vừa có thất nghiệp cao. Hơn nữa, đường cong
Philips trong dài hạn sẽ thẳng đứng. Hiệu quả chính sách của Chính phủ lúc bấy giờ sẽ
phụ thuộc vào kỳ vọng của người dân. Nếu kỳ vọng lạm phát người dân cao, chính
sách kích thích kinh tế sẽ chỉ mang lại lạm phát cao hơn mà không làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp.
Đường cong Phillips dài hạn
Tỷ lệ
Lạm phát

B

C


A

Đường cong Phillips ngắn hạn mới

Đường cong Phillips ngắn hạn

Tỷ lệ thất nghiệp

Hình 2.1: Đường cong Philips ngắn hạn và dài hạn
Tuy đã có nhiều đóng góp vào việc giải thích kỳ vọng tác động như thế nào đến nền
kinh tế, ý tưởng của Friedman và Phelps vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Các nhà kinh tế
khác tranh luận rằng kỳ vọng của công chúng phức tạp hơn rất nhiều, không chỉ dựa
trên những thông tin trong quá khứ mà còn xét đến cả những xu hướng trong tương lai.


- 10 -

Từ hạn chế đó, “lý thuyết kỳ vọng hợp lý” ra đời và được phát triển bởi Muth (1961).
Lý thuyết được xây dựng trên kỳ vọng hợp lý còn được gọi là lý thuyết cổ điển mới.
Kỳ vọng hợp lý là kỳ vọng mà các chủ thể kinh tế tạo thành dựa trên kinh nghiệm quá
khứ và dự đoán của họ về những tác động ở hiện tại và tương lai của chính sách và các
sự kiện kinh tế. Một khác biệt cơ bản giữa kỳ vọng thích nghi và kỳ vọng hợp lý là tốc
độ mà kỳ vọng lạm phát thay đổi. Kỳ vọng thích nghi dựa trên thông tin quá khứ nên
thay đổi chậm hơn kỳ vọng hợp lý do các chủ thể kinh tế phải chờ thông tin hiện tại trở
thành thông tin quá khứ thì họ mới thay đổi kỳ vọng.
Lý thuyết cổ điển mới đưa ra 2 giả định quan trọng để xem xét trong bối cảnh nếu như
chính sách được dự đoán và khi chính sách không được dự đoán: (i) Kỳ vọng là hợp lý
và (ii) Lương và giá cả thì linh hoạt. Nếu như chính sách không được dự đoán ví dụ
như khi FED bất ngờ mua chứng khoán chính phủ dẫn tới tăng tổng cung tiền và tổng

cầu, các chủ thể kinh tế sẽ mất cảnh giác và mức giá kỳ vọng của người dân không
thay đổi ngay lập tức. Điều này trong ngắn hạn tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp sẽ có sự
đánh đổi và về dài hạn khi người dân đã dự đoán được lạm phát cao, lúc này họ sẽ yêu
cầu một mức tăng lương tương ứng dẫn tới không có sự đánh đổi lạm phát và thất
nghiệp trong dài hạn. Nếu như chính sách được dự đoán, lúc này người lao động sẽ
ngay lập tức dự đoán được giá cả sẽ tăng và do đó họ đòi một tỷ lệ tăng tương ứng của
tiền lương. Kết quả là sẽ không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp cả trong
ngắn hạn và dài hạn. Điều này ngụ ý là trong những điều kiện nhất định cụ thể là chính
sách được dự đoán chính xác, kỳ vọng là hợp lý và giá cả cùng với tiền lương linh
hoạt, cả 2 chính sách tài khóa và tiền tệ dùng để kích thích kinh tế đều không có hiệu
quả trong ngắn hạn (không làm tăng được GDP thực lẫn giảm tỷ lệ thất nghiệp). Tranh
luận này được gọi là “Mệnh đề Chính sách Vô Hiệu - Policy Ineffectiveness
Proposition (PIP)”.
Tuy nhiên những giả định của “lý thuyết kỳ vọng hợp lý” cụ thể như mọi người có kỳ
vọng đồng nhất, hợp lý và có khả năng dự đoán chính sách ....liệu có phù hợp với thực


- 11 -

tại hay không? Chúng ta sẽ xem xét các nghiên cứu thực nghiệm để trả lời cho câu hỏi
này.
Mankiw và đồng sự (2003), đã dùng bộ dữ liệu khảo sát để kiểm tra sự tồn tại của giả
định kỳ vọng hợp lý. Kết quả quan sát trên dữ liệu kỳ vọng trong năm tới cho thấy,
khoảng phân vị của tỷ lệ kỳ vọng lạm phát của người tiêu dùng là từ 0 đến 5% và đuôi
của phân phối khá dài với 5% người tiêu dùng kỳ vọng giảm phát và khoảng 10% cho
rằng lạm phát sẽ ở mức 10%. Trong khi đó, đối với các nhà kinh tế khoảng phân vị
biến động ở mức 1,5% đến 3% và ít hơn 2% người trả lời dự báo về giảm phát. Tỷ lệ
lạm phát cao nhất được các nhà kinh tế dự báo là hơn 3% (khoảng 5% số câu trả lời).
Kết quả này cho thấy một sự khác biệt khá rõ trong kỳ vọng của người tiêu dùng và
các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế – không giống với những gì giả định về kỳ vọng

hợp lý đưa ra
Pfajfa và Zakelj (2009), nghiên cứu cách thức thiết lập kỳ vọng lạm phát trên các chủ
thể là cựu sinh viên và sinh viên hiện tại của trường đại học Tilbug – Hà Lan. Nghiên
cứu cho thấy rằng kỳ vọng là không đồng nhất và tồn tại ở năm dạng khác nhau: hợp
lý, thích nghi, tiếp thu mang tính thích nghi, xu hướng ngoại suy và thông tin cứng
nhắc. Kết quả kiểm định trên dữ liệu khảo sát cho thấy có 40% chủ thể có kỳ vọng gần
hợp lý, 35% mang xu hướng ngoại suy, 5% là kỳ vọng thích nghi và 20% còn lại sử
dụng mô hình tiếp thu thích nghi và thông tin cứng nhắc. Hơn nữa, các chủ thể không
sử dụng cùng một mô hình trong các giai đoạn khác nhau. Nghiên cứu ở Anh của
Mitchell và Weale (2007) chỉ ra chỉ có 40% người được khảo sát đưa ra kỳ vọng gần
hợp lý so với 60% người được khảo sát còn lại.
Blanchflower và MacCoille (2009), sử dụng số liệu từ việc khảo sát thực tế của
NHTW Anh nhằm kiểm tra tác động của nhân khẩu học đối với việc thiết lập kỳ vọng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy quá trình thiết lập kỳ vọng phụ thuộc nhiều vào trình độ
học vấn, lứa tuổi, giới tính, thu nhập và vùng địa lý. Trong đó, khả năng dự báo chính
xác cao hơn đối với nam giới, người có sở hữu nhà, người có trình độ văn hóa tốt,
người giàu và những người sống ở phía Đông Nam nước Anh. Không những kỳ vọng


- 12 -

của người dân là không đồng nhất mà đôi khi còn thể hiện sự lệch lạc do tính lạc quan
hoặc bi quan quá mức của họ. Do đó các dự báo sẽ bị lệch theo hướng quá tin tưởng
hoặc ngược lại (dân chúng Anh trở nên quá lạc quan về tương lai khi thu nhập của họ
gia tăng và ngược lại)
Song song với các kết quả thực nghiệm, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những lý do để
giải thích tại sao thuyết kỳ vọng hợp lý lại không phù hợp. Blanchflower và MacCoille
(2009) tóm tắt ba nguyên nhân chính của kỳ vọng không đồng nhất là: (i) các chủ thể
dùng các mô hình khác nhau; (ii) tập hợp thông tin khác nhau; (iii) khả năng xử lý
thông tin khác nhau. Kỳ vọng hợp lý có thể không bị bác bỏ bởi lý do các chủ thể dựa

theo các quy luật bất định một cách mù quáng; mà bởi vì nó không đáng để họ đầu tư
vào các mô hình phức tạp. Kỳ vọng là không thống nhất một cách hợp lý theo sự tối
ưu hóa lợi ích của từng cá nhân.
Sims (2009) đưa ra khái niệm sự thiếu chú ý hợp lý để giải thích lý do mà con người
không sử dụng tất cả thông tin hoàn toàn miễn phí. Khái niệm được sử dụng để bác bỏ
hai giả định của lý thuyết kỳ vọng hợp lý là phân phối xác suất đồng nhất và khả năng
thu thập – xử lý thông tin tối ưu của chủ thể kinh tế. Tác giả cho rằng, ngay cả các
thông tin miễn phí trên mạng cũng được truyền tải một cách hạn chế và phụ thuộc vào
nhiều nhân tố đối với người sử dụng. Do đó, tồn tại một sự hạn chế về mặt sử dụng tối
ưu các thông tin. Bên cạnh đó, các chủ thể hợp lý cũng có một sự chậm chạp, nhiễu và
gián đoạn trong các dự báo của họ. Vì vậy, “lý thuyết thiếu chú ý hợp lý” cho rằng có
một sự khác biệt về quan điểm của các chủ thể, dựa theo cách mà mỗi chủ thể tối đa
hóa lợi ích và phương pháp mà họ xử lý thông tin.
Một lý giải khác là dựa trên mô hình tiếp thu. Mô hình tiếp thu (learning) cho ta thấy
sự không thực tế của giả định kỳ vọng hợp lý, thay vào đó các chủ thể sẽ thực hiện các
suy luận mang tính thống kê các thông số không chắc chắn về sự phát triển của nền
kinh tế. Kết quả thực nghiệm của Orphanides và Williams (2003) cho thấy hiện diện
của sự tiếp thu đã làm gia tăng độ nhạy của kỳ vọng lạm phát và cấu trúc kỳ hạn của
lãi suất trước các cú sốc kinh tế. Kỳ vọng lạm phát ít nhạy cảm hơn khi lạm phát mục


- 13 -

tiêu được áp dụng, điều này thể hiện được lợi ích của việc neo giữ kỳ vọng lạm phát có
liên kết chặt chẽ với thành công của NHTW trong việc truyền đạt các mục tiêu.
Đứng trước việc lý thuyết kỳ vọng đã bộc lộ những khiếm khuyết và không phù hợp
với thực tế, không ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu kinh tế đã tìm cách bổ sung,
hoàn thiện và phát triển những mô hình mới có khả năng diễn giải thực tại chính xác
hơn. Trường phái “Keynes mới - New Keynesian” ra đời vào cuối thập niên 70, trường
phái Keynes mới hệ thống lại và xây dựng nền tảng vi mô cho các lý thuyết về kỳ

vọng trước đây, thay đổi một số biến quan trọng trong đó đáng kể nhất là thay thế biến
số thất nghiệp thành “Lỗ hổng sản lượng - output gap”. Lỗ hổng sản lượng là sự khác
biệt giữa GDP thực và GDP tiềm năng (GDP thực – GDP tiềm năng). Nếu lỗ hổng sản
lượng là một số dương thì được gọi là lỗ hổng lạm phát và chỉ ra tăng trưởng của tổng
cầu vượt quá tổng cung và có thể tạo ra lạm phát, nếu lỗ hổng sản lượng là một số âm
thì được gọi là lỗ hổng suy thoái và có thể gây ra giảm phát.
Nội dung về trường phái Keynes mới được trình bày trong nghiên cứu này chủ yếu
tham khảo từ Kapinos (2009): A New Keynesian Workbook và trong khuôn khổ bài
nghiên cứu nàychỉ nêu ra các kết quả nghiên cứu chính mà không trình bày chi tiết các
mô hình định lượng. Trường phái Keynes mới bắt đầu với mô hình tĩnh (static) mô tả
mối quan hệ giữa 3 nhân tố vĩ mô: lãi suất danh nghĩa, lỗ hổng sản lượng và lạm
phát.Tương ứng với 3 nhân tố là sự thay đổi của 3 đường kinh tế cơ bản: IS - mô tả
hành vi của hộ gia đình, AS (tổng cung) - thể hiện quyết định định giá của các doanh
nghiệp và MR (quy luật tiền tệ) - thể hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Khi có một
cú sốc cung hay cú sốc cầu, các đường kinh tế này thay đổi (dịch chuyển lên trên hoặc
xuống dưới). Để đối phó với các cú sốc, NHTW sẽ sử dụng công cụ lãi suất để đáp
ứng mục tiêu giữ tỷ lệ lạm phát ở mức mong muốn và duy trì lỗ hổng sản lượng không
đổi. Taylor đã đề xuất: NHTW nên gia tăng lãi suất danh nghĩa cao hơn 1% khi lạm
phát gia tăng 1% (Taylor Principal).
Mở rộng mô hình tĩnh ban đầu, yếu tố kỳ vọng được đưa vào phương trình với những
giả định quan trọng. Ban đầu, kỳ vọng được giả định là hướng về quá khứ (backward –


- 14 -

looking), các đối tượng kinh tế hình thành kỳ vọng khi quan sát trạng thái cân bằng
lạm phát trong quá khứ. Mô hình này không chỉ cho thấy trạng thái cân bằng trong
ngắn hạn khi phản ứng ngay lập tức với các cú sốc mà còn có thể cho thấy động thái
điều chỉnh của nền kinh tế đến một trạng thái cân bằng dài hạn. Ví dụ khi NHTW tăng
lãi suất danh nghĩa để chống lạm phát, tỷ lệ lạm phát trong ngắn hạn sẽ giảm xuống và

khi người dân quan sát tỷ lệ lạm phát giảm họ sẽ kỳ vọng lạm phát sẽ tiếp tục giảm
hay ít nhất là ổn định trong tương lai. Điều này tạo ra một môi trường vĩ mô ổn định
dẫn đến các doanh nghiệp gia tăng sản xuất làm gia tăng tổng cung và kéo theo lạm
phát tiếp tục giảm. Trong một số trường hợp cực đoan, ở một số nước phát triển có thể
gây ra giảm phát.
Không đồng tình với giả định kỳ vọng hướng về quá khứ, Woodford (2003) cùng với
nhiều nhà nghiên cứu khác đã đưa ra giả định kỳ vọng hướng về tương lai - Forward –
looking. Lý thuyết này phát biểu rằng con người có thể dự đoán lạm phát trong tương
lai dựa trên rất nhiều biến số từ những thông tin có sẵn và nhất là mức độ tín nhiệm
của NHTW. Từ giả định của mình, lý thuyết đã xem xét các điều kiện cân bằng trong
ngắn hạn lẫn dài hạn và cho rằng NHTW ngoài những biện pháp truyền thống như
tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc,…thì NHTW có thể kiểm soát kỳ vọng lạm phát để
chống lạm phát. Ví dụ như mặc dù tỷ lệ lạm phát hiện tại là cao nhưng với mức độ tín
nhiệm cao, NHTW có thể đơn giản cam kết rằng sẽ làm mọi cách để chống lạm phát
mà không cần đưa ra hành động cụ thể nào. Việc này sẽ giữ kỳ vọng lạm phát dài hạn
của công chúng ổn định và từ đó doanh nghiệp, người dân vẫn yên tâm gia tăng sản
xuất, tiêu dùng. Kết quả là tác động của lạm phát cao trong hiện tại sẽ được giảm
thiểu.
Trong thời gian gần đây, trường phái Keynes mới đã tìm cách kết hợp cả hai giả định:
kỳ vọng hướng về quá khứ và kỳ vọng hướng về tương lai và đưa ra mô hình đường
cong Philips kết hợp của trường phái Keynes mới (Hybrid New Keynesian Philips
Curve). Clarida và đồng sự (1999) đã phát triển một mô hình cấu trúc sử dụng dữ liệu
theo quý từ quý 1 năm 1960 tới quý 4 năm 1997 cho phép xem xét một tỷ lệ các công
ty dùng hành vi hướng về quá khứ để thiết lập giá cả. Ngoài ra, Clarida cho rằng công


- 15 -

chúng bao gồm những người hướng về tương lai và những người nhìn về quá khứ và
từ các hệ số hồi quy mà các tác giả kiểm định hành vi nào chiếm ưu thế hơn. Kết quả

là hành vi kỳ vọng vào tương lai chiếm ưu thế hơn hành vi kỳ vọng vào quá khứ qua
các bằng chứng thực nghiệm (hành vi thiết lập giá từ góc nhìn quá khứ không có ý
nghĩa thống kê định lượng). Trong bài nghiên cứu, 2 tác giả còn kiểm tra sự tương
quan chéo giữa 3 yếu tố: lạm phát, lỗ hổng sản lượng và thu nhập người lao động (một
đại diện cho chi phí biên). Kết quả ước lượng cho thấy chi phí đơn vị lao động thực
chiếm ưu thế hơn lỗ hổng sản lượng khi ước lượng đường cong Philips mới. Lỗ hổng
sản lượng dẫn tới lạm phát hơn là ngược lại. Bên cạnh đó, các tác giả còn cho thấy chi
phí đơn vị lao động thực tương quan mạnh mẽ với lạm phát.
Sự phát triển trong lý luận về kỳ vọng lạm phát đã làm rõ và chứng minh thuyết phục
vai trò của kỳ vọng lạm phát trong việc phân tích nguyên nhân, diễn biến lạm phát và
đưa ra các gợi ý hết sức quan trọng cho những người hoạch định chính sách. NHTW
giờ đây phải xem việc kiểm soát và neo tốt kỳ vọng lạm phát của công chúng là một
trong những ưu tiên hàng đầu khi thực hiện công việc điều hành chính sách tiền tệ của
mình. Để có thể làm được việc đó là không hề dễ dàng và đỏi hỏi phải biết được kỳ
vọng lạm phát được hình thành như thế nào. Điều này sẽ được giải thích rõ hơn trong
những phần tiếp theo của bài nghiên cứu này.

2.2

Các phương pháp đo lường kỳ vọng lạm phát

2.2.1 Đo lường trên cơ sở khảo sát
Đây là một phương pháp khá phổ biến trong đo lường kỳ vọng lạm phát, có 2 đối
tượng chính thường được dùng để khảo sát kỳ vọng lạm phát đó là: (i) Khảo sát hộ gia
đình và các doanh nghiệp (ii) khảo sát những chuyên gia dự báo. Cả hai phương pháp
đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, tuy nhiên nhìn chung có những hạn chế
sau đây: (1) Chi phí khảo sát tốn kém do cỡ mẫu lớn và thời gian khảo sát dài; (2) Có
sự không đồng nhất trong các mẫu khảo sát vì vậy có thể gây ra nhiều khó khăn cũng
như sai số trong việc đo lường; (3) Khi thời gian khảo sát tương đối dài thì các câu trả
lời trong các cuộc khảo sát có thể bị những sự kiện xung quanh tác động vì vậy xảy ra



- 16 -

các lỗi đo lường trong quá trình khảo sát; (4) Việc khảo sát (đặc biệt là khảo sát các hộ
gia đình) không được thực hiện thường xuyên nên tạo ra bộ dữ liệu với tần số tương
đối thấp.
2.2.2 Đo lường trên cơ sở thị trường tài chính
Một phương pháp khác để đo lường kỳ vọng lạm phát đó là dựa vào “cơ sở của thị
trường tài chính” hay các sản phẩm tài chính phòng ngừa lạm phát (trái phiếu điều
chỉnh theo lạm phát - TIPS, các sản phẩm phái sinh như inflation swap,…). Phương
pháp này đòi hỏi nhiều giả định mới vì vậy làm cho mức độ chính xác của báo cáo
giảm đi đáng kể. Tuy nhiên phương pháp này lại bộc lộ được nhiều ưu điểm so với với
phương pháp khảo sát truyền thống như : (1) Nguồn dữ liệu phong phú trong thị
trường tài chính có thể cung cấp những quan sát kịp thời về kỳ vọng lạm phát. Do thị
trường có khả năng xử lý được một số lượng lớn và thường xuyên các thông tin kinh
tế; (2) Cách đo lường này cho ước lượng chệch lệch gần như rất thấp do những người
tham gia thị trường thường có được thông tin tốt hơn và phân tích một cách chuẩn xác
hơn.
Ở các thị trường tài chính phát triển, việc đo lường kỳ vọng lạm phát ngắn hạn thường
dựa trên những hợp đồng hoán đổi ngắn hạn có phòng ngừa lạm phát (thông qua swap
spread), trong khi đó kỳ vọng lạm phát dài hạn thường được đo bằng các loại trái
phiếu chính phủ hay các sản phẩm phái sinh dài hạn.
Việc đo lường kỳ vọng lạm phát dựa trên sự khác biệt giữa tỷ suất trái phiếu (yield)
phòng ngừa lạm phát với tỷ suất danh nghĩa của trái phiếu thông thường có cùng kỳ
hạn, hay còn gọi là tỷ lệ lạm phát ngang giá. Về cơ bản, tỷ lệ lạm phát ngang giá trong
các sản phẩm tài chính phòng ngừa lạm phát có thể phân tích thành ba thành phần: (1)
kỳ vọng lạm phát trong kỳ hạn còn lại của trái phiếu; (2) phần bù rủi ro lạm phát và (3)
phần bù thanh khoản. Khó khăn lớn nhất là làm thế nào để tính toán được kỳ vọng lạm
phát khi mà nó bị gắn vào tỷ suất sinh lợi của các sản phẩm tài chính này trong khi

phần bù rủi ro lại không ổn định theo thời gian do còn bị tác động bởi các nhân tố khác


- 17 -

và giá cả những sản phẩm tài chính này trong một thời kỳ nhất định có thể bị định giá
sai do cung cầu biến động.
2.2.3

Đo lường trên cơ sở mô hình định lượng

Phương pháp này hiện nay còn khá mới mẻ và chỉ được trình bày trong một số bài
nghiên cứu nhất định. Nhược điểm lớn nhất trong cách tiếp cận này là phải sử dụng
khá nhiều giả định, đòi hỏi nguồn dữ liệu lớn và kết quả thu được phụ thuộc đáng kể
vào mô hình được chọn. Tuy nhiên đối với những nước chưa có một hệ thống khảo sát
đáng tin cậy và thị trường tài chính chưa phát triển như Việt Nam, cách tiếp cận này
cùng với một số giả định hợp lý sẽ rất hữu ích và có thể chấp nhận được. Bài nghiên
cứu sẽ sử dụng phương pháp thiên về tính toán này để tạo ra chuỗi kỳ vọng lạm phát ở
Việt Nam và sẽ được mô tả chi tiết hơn trong phần mô hình của bài nghiên cứu.

2.3

Tổng quan các kết quả các nghiên cứu trước đây về kỳ vọng lạm
phát

Có nhiều nghiên cứu trước đây về kỳ vọng lạm phát, sau đây đề tài xin được trình bày
tóm tắt một số nghiên cứu mà nội dung chính liên quan đến phạm vi bài nghiên cứu
này.
Trong nghiên cứu của Galati và đồng sự (2008), kỳ vọng lạm phát được hình thành
dưới 3 dạng:

Thứ nhất, trong điều kiện các chủ thể kinh tế có đầy đủ kiến thức, thông tin về nền
kinh tế và các mục tiêu được công bố của NHTW, các chủ thể kinh tế sẽ xây dựng
mức kỳ vọng của mình dựa trên những thông tin được cập nhật liên tục, vì vậy kỳ
vọng của họ sẽ rất nhạy cảm với các cú sốc, những thông tin hay sự kiện bất ngờ của
nền kinh tế.
Thứ hai, người dân sẽ dựa vào những quy tắc kinh nghiệm đơn giản để đưa ra mức dự
báo về lạm phát. Có 2 hình thức chủ yếu về quy tắc này: dựa vào dữ liệu lạm phát quá
khứ hoặc xem kỳ vọng của mình bằng với mục tiêu mà NHTW công bố. Các chủ thể


- 18 -

kinh tế sẽ lựa chọn một trong hai hoặc cả hai dựa trên độ tin cậy và sự chính xác của
từng hình thức trong quá khứ nhất là mức tín nhiệm của NHTW.
Thứ ba, công chúng sẽ dựa vào thông tin có sẵn (truyền thông hay truyền miệng) và
thông tin thu được từ các chủ thể khác. Cách thức này rất dễ bị nhiễu và lệch lạc do
tâm lý đám đông, bầy đàn. Tỷ trọng tương đối giữa các thông tin này sẽ tùy thuộc vào
sự sẵn có và độ tin cậy của nguồn dữ liệu.
Với nghiên cứu “Perceptions and expectation of price changes and inflation: A review
and conceptual framework” (2008), Ranyard và đồng sự đã phác thảo một sơ đồ diễn
giải cơ chế và tác nhân dẫn đến sự hình thành về kỳ vọng lạm phát.
Dựa vào sơ đồ trong hình 2.2 cho thấy kỳ vọng lạm phát được hình thành dưới tác
động của nhận thức và thái độ về lạm phát từ những dự đoán kinh tế (economics
forecast) của các chuyên gia, công bố chính sách của Chính phủ, phát ngôn của
NHTW, các khuyếch đại mang tính chất xã hội từ các kênh truyền thông và truyền
miệng. Ngoài ra, nhận thức về lạm phát còn chịu tác động trực tiếp từ tình hình biến
động giá cả và thu nhập. Những yếu tố bên trên không chỉ tác động đến kỳ vọng trong
tương lai mà chính bản thân các yếu tố này cũng bị ảnh hưởng bởi kỳ vọng trong quá
khứ được lưu giữ trong giai đoạn hiện tại.



×