Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam : Luận văn ThS Kinh tế: 60.31.01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ
----------***----------

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành
Mã số

: Kinh tế chính trị
: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
TS. VŨ ĐỨC THANH

HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY XUYÊN
QUỐC GIA VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC THU HÚT VÀ
SỬ DỤNG CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ........................................... 5
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ..................... 5
1.1.1 KHÁI NIỆM ............................................................................................5
1.1.2 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC


GIA ....................................................................................................................9
1.1.3 ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ......... 16
1.1.4 CÁC LOẠI HÌNH CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA...................... 19
1.2 VAI TRÒ CỦA CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ĐỐI VỚI CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN .......................................................................24
1.2.1 THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ............................................. 24
1.2.2 NGHIÊN CỨU, PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG
NGHỆ ............................................................................................................. 27
1.2.3 THÚC ĐẨY THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ......................................... 29
1.2.4 PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VÀ TẠO VIỆC LÀM ........ 31
1.3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC QUỐC GIA CHÂU Á TRONG
VIỆC THU HÚT, SỬ DỤNG CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ......33
1.3.1 VỀ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NHẰM THU HÚT VÀ
SỬ DỤNG TNCS........................................................................................... 33
1.3.2 VỀ XÂY DỰNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ ................ 37
1.3.3 VỀ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG ................................................. 39
1.3.4 XÂY DỰNG KHUNG PHÁP LÝ ...................................................... 40
1.3.5 VỀ CÔNG TÁC XÚC TIẾN ĐẦU TƯ ............................................. 41

138


1.3.6 BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TNCS .................................... 42
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM ................................................................45
2.1 ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TNCS HOẠT ĐỘNG Ở VIỆT NAM.............45
2.1.1 CÁC TNCS CHỦ YẾU ĐẦU TƯ TỪ CHÂU Á .............................. 45
2.1.2 CÁC TNCS CHỦ YẾU CÓ QUY MÔ VỪA VÀ NHỎ ................. 47
2.1.3 CÁC TNCS ĐANG CÓ SỰ CHUYỂN ĐỔI RÕ RỆT VỀ HÌNH

THỨC ĐẦU TƯ ............................................................................................ 48
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TNCS Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA ..........................................................................49
2.2.1 TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP - XÂY DỰNG ................... 53
2.2.2 TRONG LĨNH VỰC NÔNG-LÂM-NGƯ NGHIỆP....................... 58
2.2.3 TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ ........................................................ 61
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TNCS Ở VIỆT NAM
..........................................................................................................................65
2.3.1 CÁC TNCS VỚI CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ .................. 65
2.3.1.1 CÁC TNCS THAM GIA TÍCH CỰC VÀO TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ ...................................................................................................65
2.3.1.2 CÁC TNCS ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC TRONG CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ ...................................................................................68
2.3.1.3 TNCS GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM, PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC VÀ TRÌNH ĐỘ CÔNG NGHỆ ...........................71
2.3.2 NHỮNG MẶT HẠN CHẾ TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TNCS ............................................................. 76
2.3.3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THU HÚT,
SỬ DỤNG TNCS Ở VIỆT NAM ................................................................ 81

139


2.3.3.1 ĐIỀU KIỆN THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TNCS CHƯA THỰC SỰ
HẤP DẪN ĐƯỢC CÁC TNCS.................................................................81
2.3.3.2 NHÀ NƯỚC CHƯA LÀM TỐT VAI TRÒ QUẢN LÝ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TNCS ....................................86
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT SỬ
DỤNG CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM ......................88
3.1 BỐI CẢNH CHUNG CỦA THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY .88

3.1.1 BỐI CẢNH QUỐC TẾ ....................................................................... 88
3.1.2 BỐI CẢNH TRONG NƯỚC .............................................................. 95
3.2 CÁC QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT CÁC TNCS ...........105
3.2.1 CHỦ ĐỘNG THU HÚT CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 106
3.2.2 XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC LỰA CHỌN LĨNH VỰC VÀ ĐỊA
BÀN ĐẦU TƯ.............................................................................................. 107
3.2.3 THÚC ĐẨY HỢP TÁC VỚI CÁC TNCS TRÊN NGUYÊN TẮC
GIỮ VỮNG ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, CÙNG CÓ LỢI .............................. 108
3.2.4 SỬ DỤNG TỐI ĐA SỨC MẠNH NGOẠI LỰC ĐỂ HIỆN ĐẠI
HOÁ NỘI LỰC ........................................................................................... 109
3.2.5 TIẾP TỤC DUY TRÌ SỰ ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI ..... 110
3.3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VÀ SỬ DỤNG TNCS TRONG
THỜI GIAN TỚI .........................................................................................112
3.3.1 TẠO LẬP CÁC ĐIỀU KIỆN THU HÚT TNCS ........................... 113
3.3.1.1 HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ .................................113
3.3.1.2 TẠO DỰNG NHỮNG ĐỐI TÁC VIỆT NAM CÓ TIỀM LỰC
MẠNH .....................................................................................................120
3.3.2 XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC, QUY HOẠCH VÀ KẾ HOẠCH
THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÁC TNCS. ................................................... 124
3.3.3 ĐẨY MẠNH VẬN ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ.......................... 125

140


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, vừa thúc đẩy vừa
hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh
tế. Trong tiến trình đó, các Hiệp định song phương, đa phương về thương mại và
đầu tư giữa các quốc gia không ngừng và ngày càng trở nên phổ biến và chính

các TNCs là lực lượng chủ yếu đưa các Hiệp định đó vào thực tế. Hơn nữa, để né
tránh các rào cản thương mại do nước khác lập ra nhằm bảo vệ các ngành trong
nước họ, các công ty xuyên quốc gia đã tìm cách thay đổi chiến lược, chuyển từ
xuất khẩu hàng hoá sang đầu tư trực tiếp, lập ra các công ty con ở các nước khác,
hình thành mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đến nay, sự hiện diện của các TNCs
chẳng khác gì những “con sóng thần” vừa bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế thế
giới vừa tạo ra những tia nước nhỏ-là các chi nhánh - xuyên thủng những rào cản
thương mại chiếm lĩnh mọi thứ mà chúng vấp phải. Theo báo cáo của UNCTAD,
các hoạt động kinh tế quốc tế đương đại về cơ bản là do các TNCs tiến hành.
Mậu dịch bên trong công ty xuyên quốc gia và mậu dịch giữa chúng với nhau
chiếm khoảng 2/3 mậu dịch thế giới, mậu dịch lao động trên thế giới gần như
hoàn toàn do TNCs khống chế; trên 4/5 đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
là do các TNCs tiến hành; trên 9/10 thành quả nghiên cứu triển khai kỹ thuật và
chuyển nhượng kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay các TNCs.
Với sức mạnh như vậy, các TNCs có thể khiến cho một quốc gia đang phát
triển biến mất trên bản đồ kinh tế thế giới, hoặc cũng có thể giúp cho quốc gia đó
thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu để trở thành một nước phát triển. Rõ ràng trong xu
thế đó, các nước đang phát triển đang trở thành đối tượng thâm nhập của các TNCs
và điều này đẩy các nước đang phát triển vào hai tình huống, một là tìm cách cản
trở làn sóng cắm nhánh từ TNCs (rộng hơn là làn sóng toàn cầu hoá vốn không thể
lẩn tránh được), hai là quay trở lại chấp nhận rủi ro lợi dụng làn sóng đó vào mục
đích có lợi nhất cho quốc gia mình. Thực tế hầu hết các nước đều chọn cho mình
phương án thứ hai và lúc này chính các TNCs lại trở thành đối tượng thu hút của
các nước đang phát triển. Ngày nay, cuộc cạnh tranh giữa các nước phát triển và
đang phát triển nhằm thu hút đầu tư của các TNCs đang diễn ra vô cùng khốc liệt và

1


nó trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các chương trình nghị sự.

Nhận thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách
thông thoáng nhằm thu hút đầu tư của các TNCs phục vụ cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực tế, rất nhiều công ty nước ngoài đã
chọn Việt Nam để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặc
dù vậy, việc thu hút và sử dụng các TNCs ở Việt Nam được các chuyên gia
kinh tế đánh giá là chưa thực sự hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng
phát triển của đất nước.
Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu “Hoạt động của các công ty xuyên quốc
gia ở Việt Nam” là nhu cầu cấp thiết. Qua đó, chúng ta có thể định vị Việt Nam
một cách rõ nét hơn trong việc thu hút và sử dụng các TNCs. Từ đây, chúng ta sẽ
có câu trả lời cho việc phải thu hút và sử dụng các TNCs như thế nào để hiệu
quả, tránh để tuột mất cơ hội nhằm sớm đưa đất nước trở thành nước công
nghiệp, nhất là trong bối cảnh nước ta đã trở thành thành viên chính thức của
WTO.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu các TNCs không còn là vấn đề mới mẻ, nhưng chính
những biểu hiện mới có tính chất phức tạp của chúng trong nền kinh tế thế giới
khiến cho các nhà nghiên cứu vẫn phải mất nhiều công sức tìm hiểu về chúng.
Ngày nay khi mà xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, chính các công ty
xuyên quốc gia trở thành hiện tượng mang tính phổ biến và có ý nghĩa quyết
định cho sự vận động của nền kinh tế thế giới. Chúng đang ngày càng thâm nhập
sâu vào đời sống kinh tế của tất cả các quốc gia dân tộc, thậm chí ảnh hưởng trực
tiếp đến từng cá nhân trong xã hội. Chính vì lẽ đó việc nghiên cứu về các TNCs
luôn là đề tài mang tính thời sự.
Các nhà nghiên cứu luôn dõi theo tiến trình phát triển của các TNCs để
giúp Chính phủ các nước có những chiến lược đối phó và hợp tác có lợi nhất cho
quốc gia mình. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về các TNCs, có thể kể
đến một số tác giả như: Axele Giroud với “Transnational Corporations,
Technology and Economic Development”; Robert B.Stauffer với “Transnational
corporations and host nations: Attitude, idealogies and behaviours”,

“Transnational corporationss and the political economy of development the

2


continuing Philippine debate”; Jonh Cantwell, G.D.Satangelo với “M&A and the
global strategies of TNCs”.v.v.. Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu của thập
kỷ 90, đã có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm về vấn đề này. Đặc biệt từ năm
2000 trở lại đây, thuật ngữ “công ty xuyên quốc gia” đã xuất hiện rất nhiều trên
các diễn đàn, hội thảo và sách báo. Mặc dù vậy, số đầu sách và những đề tài
mang tầm cỡ thì không nhiều:
- Đỗ Đức Bình, (2005) “Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia tại Việt
Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
- Hoàng Thị Bích Loan, (2001) “Các công ty xuyên quốc gia của một số
nước kinh tế công nghiệp mới châu Á”, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Sang, Trần Quang Lâm (1996) “Các công ty xuyên quốc gia
trước ngưỡng cửa của htế kỷ XXI”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Thiết Sơn (2003) “Các công ty xuyên quốc gia – Khái niệm, đặc
trưng và những biểu hiện mới”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Khắc Thân, (1995) “Các công ty xuyên quốc gia hiện đại”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí của những tác giả khác.
Trong những sách báo trên thì một số tác phẩm được dịch từ sách của nước ngoài,
số còn lại chủ yếu phân tích nội dung bên trong cũng như bản chất của các TNCs,
từ đó có những liên hệ nhất định đến Việt Nam, chứ chưa có sự phân tích một cách
hệ thống với những số liệu đầy đủ về hoạt động của các TNCs ở Việt Nam hiện
nay. Thường thì các tác giả vẫn bám theo số liệu từ FDI và một số TNCs có tiếng
trên thế giới đang hoạt động ở Việt Nam để đưa ra những phân tích, đánh giá.
Từ những công trình trong và ngoài nước nói trên, tác giả kế thừa có chọn

lọc về một số luận điểm, đánh giá và số liệu thống kê có liên quan trực tiếp đến
chủ đề thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của các
TNCs ở Việt Nam hiện nay. Qua đó đề xuất một số giải pháp thu hút và sử dụng
các TNCs một cách hiệu quả góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước.

3


* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên tác giả đề ra 3 nhiệm vụ sau:
- Trên cơ sở thực tiễn của một số nước châu Á phải rút ra được bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút và sử dụng các TNCs.
- Phân tích được tình hình hoạt động của các TNCs ở Việt Nam, đánh giá
những tác động từ hoạt động đó đến kinh tế Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng các TNCs.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quá trình hoạt động của các TNCs ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Số liệu sử dụng để phân tích trong bài viết được tập hợp từ năm
1988 đến nay – thời điểm Việt Nam ban hành Luật đầu tư nước ngoài và bắt đầu
tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Về không gian và nội dung: Một là, xuyên suốt luận văn, tác giả bám theo 2
yếu tố cốt lõi là điều kiện và vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thu hút và
sử dụng các TNCs. Hai là, luận văn giới hạn trong việc khảo sát hoạt động đầu
tư trực tiếp của các TNCs ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này, tác giả đã vận dụng nguyên lý của kinh tế
chính trị, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Đồng thời tác
giả cũng sử dụng phương pháp lôgích kết hợp lịch sử, trừu tượng hoá khoa học,
phân tích, so sánh, bảng biểu, tổng hợp số liệu, tư liệu nhằm làm rõ những luận
điểm được nêu ra trong luận văn.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu và rút ra một số bài học kinh nghiệm từ các nước châu Á trong việc
thu hút và sử dụng các công ty xuyên quốc gia.
- Phân tích thực trạng hoạt động của các TNCs ở Việt Nam.
- Đề xuất, luận giải một số giải pháp thu hút và sử dụng các công ty xuyên quốc gia.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận văn
gồm 3 chương:

4


- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về công ty xuyên quốc gia và kinh
nghiệm quốc tế trong việc thu hút và sử dụng công ty xuyên quốc gia.
- Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam.

- Chƣơng 3: Quan điểm định hướng và giải pháp thu hút, sử dụng các công ty
xuyên quốc gia ở Việt Nam.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC
GIA VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC THU HÚT VÀ SỬ
DỤNG CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
1.1 Lý luận chung về công ty xuyên quốc gia
1.1.1 Khái niệm
Khi một công ty thực hiện việc sản xuất kinh doanh ở ngoài quốc gia của

mình thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nhiều nước khác nhau thì công ty
đó được gọi là công ty xuyên quốc gia (viết tắt là TNCs).
Để có thể hiểu hơn về các TNCs, trước hết chúng ta cần nghiên cứu
những quan niệm và một số định nghĩa xung quanh thuật ngữ công ty xuyên
quốc gia.
Sự phát triển liên tục của TNCs về quy mô, cơ cấu tổ chức, phương thức
sở hữu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay đã làm nảy sinh rất nhiều
quan niệm và định nghĩa khác nhau về TNCs. Mặc dù đều thừa nhận rằng, các
TNCs phải là những công ty độc quyền lớn, hoạt động trên phạm vi quốc tế và
có thể gọi là công ty đa quốc gia hay công ty xuyên quốc gia, tuỳ theo tiến trình
phát triển nhận thức chung về loại hình công ty này, nhưng chúng ta có thể nhận
thấy về cơ bản có hai loại quan niệm chính như sau:
Thứ nhất: Quan niệm về công ty quốc tế (International Corporation), trong
đó bao gồm cả công ty toàn cầu, công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia,
công ty siêu quốc gia. Những người theo quan niệm này không quan tâm đến
nguồn gốc tư bản sở hữu, cũng như tính quốc tịch của công ty, không chú ý đến
bản chất quan hệ sản xuất của quốc gia có công ty đó hay các chi nhánh của nó.
Nói chung, họ chỉ quan tâm đến mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương

5


mại-đầu tư quốc tế của các TNCs. Nghĩa là họ chỉ chú ý đến mặt quốc tế hoá
hoạt động kinh doanh của các công ty mà thôi.
Thứ hai: Quan niệm về công ty xuyên quốc gia (Transnational
Corporations), là công ty tư bản độc quyền, có tư bản thuộc về chủ tư bản của
một nước nhất định nào đó. Ở đây, người ta chú ý đến tính chất sở hữu và tính
quốc tịch của tư bản: vốn đầu tư kinh doanh là của ai, ở đâu. Chủ tư bản ở một
nước cụ thể nào đó có công ty mẹ đóng tại nước đó và thực hiện kinh doanh
trong và ngoài nước, bằng cách lập các công ty con ở nước ngoài là hình thức

điển hình của loại hình này. Ví dụ, công ty Sony của Nhật Bản, công ty Ford của
Mỹ trong quá trình sản xuất, kinh doanh đã dần dần trở thành những công ty
khổng lồ của thế giới (tài sản tương ứng của 2 công ty này là: Sony 85 tỷ USD
và Ford 304 tỷ USD, chúng đã thiết lập các chi nhánh ở nhiều nơi trên thế giới,
kể cả ở Việt Nam và đều là những công ty xuyên quốc gia theo loại hình này
(Xem phụ lục 1).
Từ điển Bách khoa viết về công ty xuyên quốc gia: Thuật ngữ “công ty
xuyên quốc gia” được sử dụng để chỉ “Một tổ chức kinh doanh gồm nhiều thực
thể nằm ở hai hay nhiều nước, không xét đến hình thức pháp lý và lĩnh vực hoạt
động, miễn là các thực thể này vận động theo một hệ thống ra quyết định, một
chế độ chính sách và một chiến lược chung. Qua đó, các thực thể này là những
mắt xích của một chế độ sở hữu, chúng ảnh hưởng đến hoạt động của nhau. Đặc
biệt chúng có chung một nguồn tri thức, nguồn vốn và trách nhiệm trong việc
thực hiện mục tiêu cuối cùng”. Điều gây tranh cãi nhiều nhất trong định nghĩa
này là cụm từ “không xét đến hình thức pháp lý và lĩnh vực hoạt động”. Ở đây
Liên Hiệp Quốc muốn áp dụng định nghĩa này cho các tổ chức kinh doanh Nhà
nước thuộc các nước XHCN trước đây, cũng như các doanh nghiệp nhà nước
của các nước TBCN tham gia vào nền thương mại quốc tế. (Định nghĩa này được
đưa ra trong những năm 80).[31]
Một số học giả hiểu rằng: các công ty xuyên quốc gia là các công ty liên
kết chặt chẽ hoặc không chặt chẽ, bao gồm các công ty mẹ và các công ty con ở
nước ngoài. Một công ty mẹ là một công ty quản lý tài sản được sử dụng để sản
xuất tại nước ngoài. Một công ty con (công ty có sở hữu phần lớn hoặc nhỏ) là
một doanh nghiệp liên kết chặt chẽ hoặc không chặt chẽ tại một nước (tiếp nhận

6


đầu tư), trong đó một doanh nghiệp đặt tại nước khác (nước đi đầu tư) có cổ
phần cho phép quản lý doanh nghiệp đó.

Gần đây nhất, năm 1998, trong Báo cáo Đầu tư thế giới, các chuyên gia
của Liên Hiệp Quốc đã nêu định nghĩa về công ty xuyên quốc gia cụ thể hơn như
sau: Các công ty xuyên quốc gia là những công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô
hạn bao gồm các công ty mẹ và các chi nhánh nước ngoài của chúng. Các công
ty mẹ được định nghĩa như là các công ty mà việc kiểm soát tài sản của các thực
thể kinh tế khác ở nước ngoài, thường được thực hiện thông qua việc góp vốn tư
bản cổ phần của chúng. Mức góp vốn cổ phần với 10% hoặc cao hơn, các loại cổ
phiếu thường hoặc cổ phiếu có quyền biểu quyết đối với loại công ty TNHH,
hoặc tương đương với công ty trách nhiệm vô hạn, thường được xem như là
ngưỡng đối với quyền kiểm soát tài sản của các công ty khác.
Các chi nhánh nước ngoài (cũng được gọi là công ty con) là các công ty
TNHH hoặc vô hạn, trong đó chủ đầu tư là người sống ở nước khác, có mức góp
vốn cho phép có được lợi ích lâu dài trong việc quản lý công ty đó (mức góp vốn
cổ phần 10% đối với công ty TNHH hoặc tương đương đối với công ty trách
nhệm vô hạn). Trong “Báo cáo Đầu tư Thế giới” của Liên Hiệp Quốc, công ty
con (Subsidiary Enterprise), công ty liên kết (Associate Enterprise), công ty
nhánh (Branches) đều được gọi chung là chi nhánh nước ngoài (Foreign
Affiliates), hay các chi nhánh (Afiliates).
Mặc dù được gọi chung như nhau, đều là chi nhánh nước ngoài, nhưng
mỗi loại trên đây được “Báo cáo Đầu tư Thế giới” định nghĩa cụ thể như sau:
- Công ty con (Subsidiary Enterprise) là công ty TNHH ở nước chủ nhà
(Host Country), (là nước có công ty con của TNCs hoạt động), trong đó các thực
thể kinh tế khác trực tiếp có quyền sở hữu trên một nửa quyền biểu quyết của các
cổ đông và có quyền đình chỉ hay bãi miễn phần lớn thành viên của ban giám
đốc, ban quản lý hay thanh tra.
- Các công ty liên kết (Associate Enterprise) là công ty TNHH ở nước chủ
nhà, trong đó nhà đầu tư có sở hữu ít nhất là 10%, nhưng không lớn hơn một nửa
quyền biểu quyết của các cổ đông.
- Công ty nhánh (Branch Enterprise) là công ty trách nhiệm vô hạn có
toàn bộ vốn hoặc góp vốn ở nước chủ nhà với một trong những hình thức sau:


7


+ Được thành lập một cách lâu dài, hoặc là văn phòng của nhà đầu tư
nước ngoài. Công ty trách nhiệm vô hạn hay công ty liên doanh giữa nhà đầu tư
trực tiếp nước ngoài với một hoặc nhiều thành viên.
+ Đất, các kết cấu kiến trúc (trừ các kết cấu kiến trúc thuộc sở hữu của các
thực thể kinh tế của Nhà nước), hoặc thiết bị bất động sản và các đối tượng sở
hữu trực tiếp của nước ngoài.
+ Thiết bị có động cơ (như: tàu biển, máy bay, thiết bị khoan dầu khí)
được vận hành với nước khác nước chủ đầu tư nước ngoài ít nhất là một năm.
Trong số các khái niệm về công ty, còn có một khái niệm cần chú ý, đó là
“Holding Company”. Thường đó là công ty mẹ của một nhóm (tập đoàn) các
công ty, có quyền sở hữu trực tiếp, hoặc gián tiếp các công ty trong nhóm. Trong
cơ cấu nhóm như vậy, các công ty con trong đó có thể trở thành Holding
Company đối với các công ty con khác. Holding Company trong tập đoàn có thể
tự thực hiện các hoạt động, hoặc thông thường hơn, nó chỉ hoạt động như là
phương tiện sở hữu cổ phần trong tập đoàn các công ty, trong đó tập đoàn cũng
như toàn bộ hoạt động đều có tính “quốc tịch” (Nationali) vì nhiều mục đích
khác nhau (như kiểm tra giám sát của Chính phủ) và để đánh thuế theo những
hoạt động mà chúng chịu trách nhiệm.
Những định nghĩa trên cho thấy, công ty xuyên quốc gia – Công ty mẹ,
phải là công ty cư trú ở một nước nhất định, với các chủ sở hữu của một quốc gia
nhất định được gọi là Parent Company. Công ty đó tiến hành đầu tư, hoạt động
thương mại ở nước ngoài, có thể là trực tiếp hoặc thông qua hệ thống chi nhánh
được gọi là Foreign Affiliate. Các chi nhánh – Công ty con có thể là công ty
100% vốn của công ty mẹ chuyển đến hoặc có tỷ lệ vốn do công ty mẹ góp vào ít
hơn nếu là liên doanh với các đối tác của nước sở tại. Nếu thực hiện liên doanh,
khả năng bành trướng, khả năng chi phối thị trường của công ty mẹ sẽ rất lớn

hơn. Giữa công ty mẹ và công ty con có rất nhiều mối quan hệ, trước tiên là về
tài chính, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhãn hiệu,…
Theo nhiều chuyên gia thì dùng thuật ngữ TNCs để chỉ tất cả các công ty
hoạt động trên phạm vi quốc tế là hợp lý vì nó không chỉ nêu được đặc trưng
kinh tế nổi bật của công ty trong thời đại quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ hiện nay, và phản ánh đúng tính chất hoạt động của công ty trong

8


thực tế, mà còn thể hiện rõ bản chất cốt lõi của nền sản xuất xã hội. Đó là quyền
sở hữu thuộc về ai và ai là người quyết định, chi phối toàn bộ giá trị tư bản được
sở hữu đó, được tập trung lại đó (cũng như số lợi nhuận được sinh ra từ nguồn tư
bản đó). Chỉ có công ty mẹ có “quốc tịch” rõ ràng chi phối tổng số tư bản khổng
lồ được tập trung trong công ty, còn các công ty con, các cổ đông đông đảo ở
khắp nơi trên thế giới chỉ là những người góp vốn kinh doanh kiếm lời, không có
tiếng nói quyết định về phương hướng hoạt động chiến lược của công ty. Tính
xuyên suốt của việc chi phối quyền sở hữu công ty, thể hiện hợp lý bản chất nội
dung phạm trù xuyên quốc gia trong định nghĩa về công ty xuyên quốc gia. Tuy
nhiên, để nêu được một khái niệm bao quát cả về nguồn gốc và bản chất của
TNCs, phải xuất phát từ sự vận động lịch sử của hình thái tế bào của quan hệ sản
xuất TBCN trong giai đoạn hiện nay được thể hiện ở TNCs. Do đó, công ty
xuyên quốc gia được hiểu là một cơ cấu tổ chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ
sở kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh
quốc tế, với quá trình phân phối và khai thác thị trường quốc tế đạt hiệu quả tối
ưu nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao.
1.1.2 Nguồn gốc hình thành các công ty xuyên quốc gia
Có người coi lịch sử của TNCs cũng lâu đời như lịch sử quốc tế hoá sản
xuất, nhưng TNCs hiện nay chỉ được phát triển nhanh chóng cùng với quá trình
toàn cầu hoá kinh tế sau thế chiến II. Cuối những năm 50, các công ty lớn của

Mỹ đi đầu trong việc vượt ra ngoài biên giới quốc gia, thực hiện kinh doanh
xuyên quốc gia, trở thành công ty xuyên quốc gia. Sau đó các công ty lớn của
Tây Âu cũng bắt đầu trở thành công ty xuyên quốc gia. Cuối những năm 70, các
“thương xã tổng hợp” của Nhật Bản cũng “đi” ra thế giới. Những năm 80 một số
công ty lớn của các nước và khu vực mới công nghiệp hoá và một số nước đang
phát triển có công nghiệp tương đối phát triển như Ấn Độ, Brazin,... cũng bắt
đầu chen vào hàng ngũ các công ty xuyên quốc gia. Vậy thực chất sự hình thành
TNCs diễn ra như thế nào? Chúng ta sẽ xem xét dưới đây.
Các công ty xuyên quốc gia là hình thức phát triển cao của chế độ xí
nghiệp tư bản chủ nghĩa, và là kết quả trực tiếp của quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản từ hợp tác giản đơn,
công trường thủ công, xí nghiệp đại công nghiệp cơ khí đến xí nghiệp công

9


thương hiện đại, dưới tác động của các quy luật thị trường; là sự vận động mở
rộng của quan hệ sản xuất TBCN thông qua các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh từ hình thức giản đơn đến kết cấu tổ chức sản xuất kinh doanh quốc tế,
một kiểu quan hệ kinh tế quốc tế mới.
Tây Âu - nơi sớm ra đời phương thức sản xuất TBCN và cũng là nơi mà
CNTB đã phát triển sớm với đầy đủ bản chất của nó. Ở đó, chế độ xí nghiệp
TBCN đã chứa đựng hình thức phôi thai của các công ty xuyên quốc gia hiện
nay, một mầm mống vật chất của một kiểu quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại.
Các TNCs ra đời và phát triển đã đem lại cho CNTB một hình thức tổ
chức sản xuất mới, nhưng về bản chất nó chỉ là sự thích ứng giữa trình độ phát
triển cao của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất TBCN ở tầm vĩ mô trong
điều kiện tính chất xã hội hoá của sản xuất mở rộng trên quy mô quốc tế. Chúng
là kết qủa của quá trình cạnh tranh và tập trung tư bản và sản xuất không ngừng
trong suốt quá trình tồn tại của CNTB.

Tích tụ và tập trung sản xuất tất yếu đưa đến sự hình thành các TNCs. Xét
cả về lôgíc và lịch sử, sự ra đời của TNCs trên thế giới gắn liền với sự ra đời và
phát triển của sản xuất lớn TBCN. Về thực chất, chúng là sự phát triển cao của
chế độ xí nghiệp TBCN, là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ
kinh tế vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất
kinh doanh quốc tế ngày càng được phát triển. Khi nghiên cứu về CNTB tự do
cạnh tranh Các Mác và Ph.Angghen đã dự đoán rằng, tích tụ và tập trung tư bản
tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của các xí nghiệp TBCN có quy mô lớn. Sự cạnh
tranh và tín dụng là 2 đòn bẩy mạnh nhất của tập trung tư bản.
Sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến 2 xu hướng: Một là,
các nhà tư bản có lực lượng kinh tế mạnh, trình độ kỹ thuật quản lý cao sẽ giành
phần thắng, ngược lại, các nhà tư bản nhỏ bị thua lỗ phá sản, bị “thôn tính” vào
các xí nghiệp lớn làm cho quy mô sản xuất và quy mô tư bản ngày càng mở rộng
nhanh chóng; Hai là, trong cuộc cạnh tranh gay gắt, khó phân thắng bại, sẽ nảy
sinh xu hướng các đối thủ cạnh tranh phải bắt tay, liên hiệp với nhau, góp vốn để
sản xuất kinh doanh chung. Các nhà tư bản liên kết với nhau thông qua việc ký
kết hợp đồng để hình thành các xí nghiệp liên hiệp-hình thức đầu tiên của công
ty cổ phần, làm cho quy mô sản xuất và quy mô tư bản ngày càng mở rộng.

10


Sự phát triển của hệ thống tín dụng và nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất
đã tạo ra cơ sở cho sự chuyển hoá dần dần những xí nghiệp TBCN thành những
công ty cổ phần TBCN, một hình thức tập trung tư bản dưới CNTB. Tín dụng trở
thành công cụ tích tụ, tập trung vốn của nhà tư bản thông qua phát hành cổ phiếu
để thực hiện đổi mới tài sản cố định, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến. Như vậy, chế độ tín dụng đẩy nhanh tốc độ phát triển các lực
lượng sản xuất vật chất và sự hình thành thị trường thế giới. Kế thừa và phát
triển học thuyết của Các Mác và Ph.Ăngghen, Lênin cho rằng, việc CNTB mới –

chủ nghĩa đế quốc, trong đó độc quyền giữ vị trí thống trị thay thế CNTB cũ, chế
độ tự do cạnh tranh thống trị, là đặc trưng cơ bản nhất của giai đoạn phát triển
hiện đại của CNTB. Nó nói lên bản chất kinh tế của CNTB trong giai đoạn phát
triển mới, trong đó quan hệ sản xuất TBCN vận động dưới hình thức mới, trong
cái vỏ vật chất của nó là tổ chức độc quyền.
Một đặc trưng nổi bật trong giai đoạn độc quyền là sự cùng tồn tại đan
xen nhau giữa độc quyền quốc gia và độc quyền quốc tế. Về mặt lịch sử, các tổ
chức độc quyền quốc tế đã tồn tại ngay trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh
thống trị, tức là trước chủ nghĩa đế quốc, có thể nói cách đây trên 200 năm và
xuất phát từ các nước châu Âu, trong đó Anh, Hà Lan, Pháp là chủ yếu. Các tổ
chức độc quyền này ra đời là do sự phát triển của quan hệ buôn bán thế giới. Các
nước tư bản phát triển như Anh, Hà Lan, Pháp, … đã có những công ty hàng hải
và buôn bán quốc tế. Ví dụ, công ty Đông Ấn từng có mặt ở một số nước châu Á
như: Indonesia, Malaysia, Philipin, Ấn Độ vào những năm đầu của thế kỷ XIX.
Việc mở rộng quan hệ buôn bán, chiếm lĩnh thị trường quốc tế là yêu cầu tất yếu
và khách quan của chính phương thức sản xuất TBCN. Đặc biệt trong thời đại
sản xuất bằng máy móc hiện đại chiếm ưu thế thì xu thế quốc tế hoá đời sống
kinh tế, trước hết là quốc tế hoá việc trao đổi hàng hoá trở thành một xu thế
không thể cưỡng nổi. Cùng với phát triển quan hệ buôn bán quốc tế làm cho
cạnh tranh tư bản liên minh với nhau sản xuất và phân phối hàng hoá trên thị
trường thế giới, hình thành nên các công ty độc quyền quốc tế. Ph.Ăngghen đã
từng nhận xét: trong các nước, những nhà đại công nghiệp trong một ngành nhất
định nào đó đã họp lại để thành lập những Cartel nhằm mục đích điều tiết việc
sản xuất. Một Uỷ ban được đặt ra để ấn định cho mỗi xí nghiệp số lượng hàng

11


được sản xuất, và để phân phối với quyền tối hậu quyết định những đơn đặt hàng
đã nhận được. Trong một vài trường hợp có khi, thậm chí còn có cả những Cartel

quốc tế như Cartel Anh - Đức về sản xuất gang thép. Song sự khác nhau căn bản
giữa các tổ chức độc quyền quốc tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là ở việc
đấu tranh để phân chia thế giới về mặt kinh tế. V.I.Lênin đã khẳng định bất cứ
một công ty cổ phần nào có các nhà tư bản nhiều nước khác nhau tham gia cũng
đều là “một liên minh tư bản được tổ chức trên phạm vi quốc tế”. Đặc trưng của
chủ nghĩa đế quốc, mà từ thế kỷ XIX trở về trước chưa từng có, là ở chỗ các
Trust quốc tế phân chia thế giới với nhau về mặt kinh tế, ký hiệp ước với nhau
để phân chia các nước được coi là khu vực tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy khi nghiên
cứu sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế nói chung và các tổ chức độc
quyền quốc tế xuyên quốc gia nói riêng phải xuất phát từ sự tích tụ và tập trung
sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ nhất định làm cho các
nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia, hoạt động trên phạm vi
quốc tế, thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế (thị trường).
Ngày nay quá trình tích tụ và tập trung sản xuất với nhiều biểu hiện mới,
điểm nổi bật là từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay đã xuất hiện quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất cao độ, hình thành các công ty cực lớn thống trị
trong các ngành, đồng thời, xuất hiện quá trình liên hợp hoá và sự hình thành các
concern đa ngành. Cùng với quá trình đó là quá trình chuyên môn hoá với tính
cách là kết quả của sự phát triển phân công lao động xã hội, quá trình này diễn ra
thông qua toàn bộ lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhưng chỉ đến giai
đoạn độc quyền, sự chuyên môn hoá mới có vai trò mới, tạo ra những điều kiện
cho sự phát triển của các công ty độc quyền chủ chốt. Chúng thâu tóm hàng
ngàn, hàng vạn xí nghiệp vừa và nhỏ bao quanh chúng, về hình thức vẫn giữ tính
độc lập về mặt pháp lý nhưng đã trở thành một khâu chức năng trong kinh doanh
của công ty độc quyền. Các đơn vị nhỏ này trước hết phải chịu hậu quả của
những biến động kinh tế và những rủi ro của việc phân công chuyên môn hoá.
Sau nữa, sự tồn tại của chúng cho phép giới độc quyền nhà nước huy động được
toàn bộ lực lượng lao động và mọi tiềm năng của xã hội vào quá trình sản xuất,
tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, kỹ thuật trong nước. Cuối cùng,
sự khác biệt về chế độ tiền lương và bảo hiểm của chúng tạo điều kiện cho các


12


công ty chủ đạo kiếm thêm giá trị thặng dư. Cùng với quá trình tích tụ và hình
thức mới trong xuất khẩu tư bản, có thể cho rằng: tập trung sản xuất có bước
phát triển mới, thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh
tế quan trọng của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của TNCs được hình
thành nên từ các tổ chức độc quyền sau chiến tranh thế giới II.
Một điểm chú ý trong tiến trình phát triển của TNCs là sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế Mỹ từ nửa cuối thế kỷ XIX và ngày càng trở thành một trung
tâm sức mạnh kinh tế thế giới. Các ngành công nghiệp thực phẩm, thuốc lá, luyện
kim, dầu mỏ, chế tạo máy và thiết bị vận tải,… của Mỹ khi đó được sử dụng kỹ
thuật sản xuất hàng loạt. Chúng bắt đầu hướng vào việc kết hợp phân phối sản
phẩm và tổ chức tiêu thụ. Để đảm bảo chắc chắn cho sự cung ứng ổn định nguyên
vật liệu và nguồn vốn bỏ vào, họ đã tiến hành liên kết các khâu tiền sản xuất
nguyên liệu. Sau khi hoàn thành quá trình này, chế độ xí nghiệp thực hiện sự
chuyển biến từ chế độ xí nghiệp truyền thống sang chế độ xí nghiệp hiện đại.
Các xí nghiệp hiện đại được hình thành bởi sự kết hợp giữa quá trình sản
xuất quy mô quốc tế vào trong một công ty đơn nhất, nghĩa là trong xí nghiệp
bao gồm cả các hoạt động sản xuất công nghiệp, lẫn thương mại, dịch vụ, tài
chính,… và chúng được gọi là xí nghiệp công thương hiện đại. Xí nghiệp công
thương hiện đại trưởng thành và phát triển qua sự liên kết theo chiều dọc, thường
là những xí nghiệp sử dụng kỹ thuật sản xuất hàng loạt và cả những xí nghiệp
dịch vụ phân phối, tiêu thụ sản phẩm đặc thù theo ngành dọc của mình. Xí
nghiệp tiến hành theo chiều ngang phần lớn thuộc các ngành khác nhau, trong đó
có cả những xí nghiệp quy mô tương đối nhỏ, của gia tộc hoặc cá nhân. Để
khống chế sản lượng, nâng cao giá cả, các xí nghiệp này tiến hành hợp nhất hoặc
liên kết với nhau. Người ta nhanh chóng phát hiện ra rằng: để xí nghiệp sau khi
hợp nhất vẫn có thể phát triển quy mô, cần phải tiếp tục liên kết theo chiều dọc

cả hướng lên trên và xuống dưới. Do đó, sự liên kết theo chiều dọc mới là con
đường cơ bản hình thành nên xí nghiệp hiện đại. Sự liên kết này không chỉ đơn
thuần là hành vi sách lược cạnh tranh của xí nghiệp, mà còn là một loạt hành vi
sáng tạo ra cái mới về chế độ hoạt động của xí nghiệp. Xí nghiệp công thương
hiện đại có khả năng chuyển một bộ phận phân công xã hội do thị trường tổ

13


chức, thành phân công trong nội bộ xí nghiệp, để khắc phục sự mất hiệu quả thị
trường do dùng kỹ thuật mới, hoặc sản xuất sản phẩm mới gây nên.
Từ đó cuộc cách mạng quản lý trong các xí nghiệp Mỹ đã diễn ra. Do liên
kết theo chiều dọc nên phạm vi phân công trong nội bộ xí nghiệp công thương
hiện đại đã bao gồm cả việc sản xuất và thu mua nguyên liệu, sản xuất gia công
các bộ phận rời, sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh và cả phân phối, tiêu thụ. Để
đảm bảo cho xí nghiệp phát triển lâu dài, chúng còn phải quy hoạch dài hạn và bố
trí nguồn vốn trong nội bộ xí nghiệp, phải đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa
học, công nghệ mới (R&D). Do đó, các xí nghiệp công thương hiện đại cần phải
tiến hành cải cách thể chế và phương pháp quản lý xí nghiệp. Chính điều này đã
dẫn tới việc hình thành, phát triển và chín muồi chế độ quản lý theo cấp bậc.
Chế độ quản lý theo cấp bậc đã phân định rõ việc hoạch định chính sách
và quản lý trong nội bộ xí nghiệp, làm cho xí nghiệp có thể quản lý, điều tiết
nhịp nhàng quá trình phân công, trao đổi theo hướng ngày càng phức tạp, làm
cho quy mô, năng lực và hiệu suất của nội bộ xí nghiệp cao hơn. Do đó, chế độ
quản lý theo cấp bậc đã làm hoàn thiện chế độ xí nghiệp hiện đại và cuối cùng
“bàn tay hữu hình” từng bước được thay thế bởi “bàn tay vô hình” của thị
trường. Cùng với sự phát triển của các xí nghiệp công thương hiện đại, chế độ xí
nghiệp của Mỹ cũng đã được mở rộng sang Tây Âu và Nhật Bản. Cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, trong các xí nghiệp của Tây Âu và Nhật Bản cũng xuất
hiện cao trào hợp nhất, nhưng do quy mô và cơ cấu thị trường, cũng như bối

cảnh chính trị, văn hoá và chế độ xã hội không giống nhau, nên xí nghiệp chưa
diễn ra sự thay đổi về bản chất. Sau chiến tranh thế giới thứ II, dưới sự tác động
của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự thách thức của xí nghiệp
Mỹ, buộc các xí nghiệp của Tây Âu và Nhật Bản phải có những cải thiện mạnh
mẽ để phát triển.
Từ thập kỷ 1960 lại đây, dưới tác động của sự bùng nổ cách mạng khoa
học và công nghệ, TNCs đã phát triển nhanh chóng. Hơn nữa, đầu tư to lớn của
TNCs vào nghiên cứu và phát triển đòi hỏi phải mở rộng sang những ngành nghề
và khu vực lớn hơn. Để tổ chức hệ thống công nghệ mới và điều tiết được lợi ích
trong trao đổi, phân phối những sản phẩm mới giữa những nhà sản xuất độc lập,
phải dùng biện pháp của thị trường. Từ đó buộc các xí nghiệp phải phải chiếm

14


lĩnh các ngành và khu vực kinh tế mới, và điều này dẫn tới sự trưởng thành
nhanh chóng của TNCs ở các nước phát triển. Cùng với sự trưởng thành của
TNCs, sự cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu của chúng khốc liệt hơn. TNCs của
các nước bắt đầu điều chỉnh lại hoạt động kinh doanh quốc tế, kết hợp liên kết
theo chiều ngang và dọc trong nội bộ công ty. Cơ cấu tổ chức toàn cầu của TNCs
tương ứng cũng ra đời. TNCs trở thành hình thức hoàn thiện điển hình của chế
độ xí nghiệp thích ứng với sự phân công và trao đổi quốc tế hiện đại.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra một số nhận xét về nguồn gốc và
quá trình phát triển của các TNCs, đi từ tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành
các công ty cổ phần, các công ty kinh doanh lớn trong ngành công thương, sau
này cả dịch vụ đa ngành như sau:
+ Một là, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá
trình tích tụ quyền lực kinh tế. Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty
mẹ đứng đầu và các công ty con, chúng phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật vào công
ty mẹ. Bên cạnh đó còn có nhiều công ty nhỏ và vừa hoạt động độc lập hoặc phụ

thuộc với các công ty lớn. Thực tế ở các nước TBCN phát triển như Mỹ, Nhật
Bản, Cộng hoà Liên bang Đức, Pháp, Italia, Canađa, số xí nghiệp vừa và nhỏ
chiếm tới 70 – 80% tổng số các xí nghiệp. Sự thâu tóm các xí nghiệp nhỏ và vừa,
thậm chí kể cả những hộ gia đình nằm trong guồng máy sản xuất, thực hiện sự
kiểm soát tài chính, kỹ thuật, và nằm trong hệ thống phân công lao động theo kiểu
công trường thủ công, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản sinh lợi.
Đồng thời, về mặt tổ chức sản xuất, đây cũng là hình thức tỏ ra có tính hiệu quả
cao, vì giảm được chi phí sản xuất, tận dụng được mọi khả năng, nguyên liệu, phát
huy tính năng động sáng tạo, ..., do đó làm tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận.
+ Hai là, quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyền. Độc quyền hiện đại mang nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Trước hết là sự liên hiệp hoá mà V.I.Lênin đã phân
tích đến nay có những biểu hiện sinh động. Sự liên kết theo chiều ngang và dọc
được đẩy mạnh hơn bao giờ hết, dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, trong đó
lĩnh vực dịch vụ, ngân hàng được các tổ chức độc quyền quan tâm và bành
trướng quyền lực. Tình hình đó dẫn đến sự tập trung tư bản, tập trung sản xuất
kinh doanh hết sức to lớn.

15


+ Ba là, quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp ngày càng đẩy mạnh,
dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông–công nghiệp, nông–
thương nghiệp ở Mỹ, những năm 1980, liên hiệp nông–công nghiệp chiếm trên
30% sản lượng nông sản. Ở Nhật Bản, các liên hợp nông–thương nghiệp kiểm
soát 80–95% sản lượng ngũ cốc. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp,
cùng với sự tác động của cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại đã dẫn đến
hiện tượng cấu tạo hữu cơ tăng lên và giảm ý nghĩa của địa tô tuyệt đối, tạo ra
mối liên hệ ngày càng tăng giữa công–nông nghiệp; đẩy mạnh xu hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc

dân (hiện nay chỉ còn khoảng 2–10% ở các nước tư bản phát triển cao). Điều này
cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp đã tác động trở lại, thúc đẩy
nông nghiệp phát triển mạnh trong cạnh tranh, nền nông nghiệp cũng phải có khả
năng cạnh tranh cao.
Tóm lại, tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến hình thành
các TNCs. Bởi đó chính là quá trình tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng,
giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực
hiện việc đầu tư vào các nước dưới nhiều hình thức, thoả mãn được mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận cao.
1.1.3 Đặc trƣng của các công ty xuyên quốc gia
- Về quy mô: Các TNCs có quy mô về tài chính rất lớn. Trong số 500
công ty lớn nhất thế giới, thì Mỹ có 162 công ty, Nhật Bản 126 công ty, các nước
như Đức có 41 công ty, Pháp 42, Anh 34, Hà Lan 8, Thuỵ Sỹ 14, Italia 13, Nga
1. Công ty đứng số 1 thế giới về tài sản ở nước ngoài trong bảng danh sách của
UNCTAD năm 2003 là General Electric (Mỹ) với tổng số tài sản nước ngoài là
258.900 triệu USD, tổng doanh thu là 134.187 triệu USD, số lượng công nhân là
305.000 ngàn người. Công ty đứng thứ 2 là Vodafone Group Plc (Anh), tiếp theo
sau là 3 công ty Ford Motor, General Motors (Mỹ) British Petroleum Company
của Anh. Đứng thứ 7 mới là công ty Royal Dutch – Shell Group (Anh-Hà Lan)
có tổng tài sản nước ngoài là 112.587 triệu USD (tổng tài sản là 168.091 triệu
USD), lợi nhuận 8.887,1 triệu USD, tổng doanh thu 201.728 triệu USD và có số
công nhân là 119.000 người. Các TNCs có phạm vi hoạt động rộng, không chỉ
bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu thông qua

16


việc cắm nhánh ra nước ngoài với số lượng lớn, kinh doanh đa ngành, đa lĩnh
vực, chiến lược sản phẩm và hướng đầu tư luôn thay đổi cho phù hợp với sự phát
triển của tập đoàn và môi trường kinh doanh, nhưng mỗi ngành đều có định

hướng chủ đạo, lĩnh vực đầu tư mũi nhọn với những sản phẩm đặc trưng của các
TNCs như tập trung vào các ngành có hàm lượng khoa học cao (công nghiệp chế
biến, dịch vụ, ...) và các nước tư bản phát triển. Chúng nắm những phương tiện
kỹ thuật hiện đại với những trung tâm nghiên cứu và phát triển đồ sộ, mà khoản
chi ngân sách ngang bằng với ngân sách nghiên cứu và phát triển của một nước
lớn. Ví dụ như công ty Philips Electronic (Hà Lan) là một trong những công ty
điện tử hàng đầu thế giới với 263 chi nhánh đặt ở hơn 70 nước, nếu tính cả nước
mẹ thì có 378 chi nhánh. Công ty Heineken (Hà Lan) là công ty sản xuất bia đã
mua nhà máy bia của Italia, Hungari. Hãng Renaul SA (Pháp) chuyên về lĩnh
vực động cơ máy có 136 (trong số 207) chi nhánh ở nước ngoài như ở Đức, Tây
Ban Nha, Ba Lan, ... Tổ hợp dầu lửa Total (Pháp) với 602 chi nhánh có mặt ở
hơn 80 nước trên thế giới và các trọng điểm dầu khí như Trung Đông, Biển Bắc,
Mỹ – Latinh. Trong đó, có 150 cơ sở sản xuất ở 35 nước, Total có cổ phần trong
17 cơ sở lọc dầu ngoài nước Pháp và Hà Lan, Đức, Mỹ và Châu Phi. Mỗi năm
Total khoan thăm dò hoặc khoan cho sản xuất ở 20 nước trên một diện tích rộng
72 vạn m2. Khí đốt do Total sản xuất chủ yếu được khai thác ở Inđônêxia, Thái
Lan, Mianma, Arhentina và biển Bắc.
- Trong phần này, tác giả sẽ phân tích kỹ hơn về đặc trưng cắm nhánh
ngoại quốc – một đặc trưng cơ bản của các công ty xuyên quốc gia. Đó là việc
những xí nghiệp con, cháu và những liên hợp ở nước ngoài đặt dưới sự kiểm soát
của công ty mẹ. Ngày nay, các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia ít mang
tính cổ truyền, thực chất nó là các công ty xuyên quốc gia mà công ty mẹ thực
hiện phân công chuyên môn hoá đối với các chi nhánh. Để thực hiện cắm nhánh
ở nước ngoài, các TNCs cũng thực hiện một số hình thức cơ bản, như thiết lập
các xí nghiệp 100% vốn của mình và hình thức liên doanh,... Đối với hình thức
100% vốn, là hình thức mà các TNCs sử dụng sớm nhất với việc các xuyên quốc
gia thực hiện mua lại xí nghiệp của nước chủ nhà - thường là các xí nghiệp kinh
doanh kém hiệu quả và có nguy cơ phá sản, hoặc đầu tư trực tiếp xây dựng xí
nghiệp mới. Đây cũng là cách thức khá phổ biến trong thời đại ngày nay, khi mà


17


các nước theo đuổi chính sách mở cửa và tạo ra nhiều ưu đãi về thuế nhằm thu
hút FDI, phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá đất nước. Còn với hình thức liên
doanh, cũng là hình thức phổ biến hiện nay mà các TNCs sử dụng để thực hiện
cắm nhánh và bành trướng quốc tế. Các xí nghiệp liên doanh có thể được hình
thành bằng nhiều con đường khác nhau, như mua cổ phần của một xí nghiệp
mới, xây dựng hoặc lập ra những xí nghiệp chi nhánh mà TNCs nắm giữ cổ
phiếu khống chế theo chế độ tham dự.

QG1
QGn
FDI

FDI

FII

FDI

mẹ

QG5

QG2

FDI

QG3


FII

QG4

Hình 1.1: Biểu diễn đặc trƣng cắm nhánh của các TNCs
- Về cơ cấu tổ chức, quản lý: các TNCs là những hình thức liên kết của
nhiều công ty hoạt động trong cùng một ngành, hay những ngành khác nhau
dưới sự điều tiết chung của một công ty mẹ đối với hệ thống các chi nhánh ở
nhiều nước. Trong thực tế, các TNCs trên thế giới thường áp dụng những mô
hình quản trị điều hành cơ bản sau:
+ Mô hình “kim tự tháp”, về thể chế quản lý tập trung quyền lực theo
chiều dọc, trực tuyến.
+ Mô hình “mạng lưới” (đa trung tâm), về thể chế quản lý phân tán quyền
lực cho các bộ phận chi nhánh.
+ Mô hình “hỗn hợp” (nhị nguyên), về thể chế quản lý phối hợp giữa tập
trung và phân tán quyền lực.

18


Tuy vậy, đối với từng nhóm nước lại áp dụng mô hình mang tính đặc thù
riêng tuỳ theo trình độ phát triển, văn hoá, tập quán, địa lý, ...
+ Đối với nhóm các TNCs Mỹ – Châu Âu: do chịu ảnh hưởng lâu dài của
hệ thống kinh tế thị trường nên các nước này luôn lấy mô hình “tự do cạnh
tranh” làm nội dung cơ bản của chế độ hoạt động của TNCs. Các TNCs Âu-Mỹ
có đặc trưng chủ yếu là quyền sở hữu tách khỏi quyền kinh doanh. Các cổ đông
là người sở hữu không trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh, mà tác động vào
các quyết định của công ty thông qua hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu
ra. Hội đồng quản trị thuê giám đốc chuyên nghiệp điều hành việc kinh doanh

của công ty. Giám đốc công ty là người làm thuê cho công ty, chịu mọi trách
nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty. Quan hệ trong tổ chức nội bộ của
các tập đoàn xí nghiệp nhà nước Âu-Mỹ nói chung là đơn giản. Cầu nối cơ bản
của sự liên kết giữa các xí nghiệp thành viên là quan hệ tư bản (vốn, tài sản) và
đó là cơ sở để tập đoàn có được sự quản lý thống nhất.
+ Đối với Nhật Bản: cơ chế quản lý kinh doanh của TNCs Nhật Bản bắt
nguồn từ nền văn hoá truyền thống, mang màu sắc Nhật Bản, có tiếp thu các nhân
tố tích cực trong cơ chế quản lý kinh doanh của các công ty hiện đại của phương
Tây. Nhật Bản là một xã hội đẳng cấp được xây dựng kết cấu theo chiều dọc, giữa
các TNCs cũng phân biệt đẳng cấp rõ rệt. Quan hệ giữa các TNCs ảnh hưởng trực
tiếp đến địa vị xã hội của nhà kinh doanh và công nhân viên trong tập đoàn. Với
mục tiêu phát triển mạng lưới công ty của Nhật Bản trên khắp thế giới, các TNCs
Nhật Bản luôn để cho những công ty vệ tinh của chúng có được quyền tự do ở
mức đáng kể. Ở Nhật Bản, các công ty, tập đoàn áp dụng “chế độ làm việc suốt
đời”. Quan hệ giữa công nhân viên với công ty là cố định, các nhà kinh doanh
không tuỳ tiện sa thải công nhân, việc trả lương và nâng bậc cho công nhân căn cứ
vào tuổi tác, học lực và thâm niên công tác liên tục. Chính vì lẽ đó nên mọi người
đều phải dốc sức phấn đấu cho sự sinh tồn và phát triển của công ty.
1.1.4 Các loại hình công ty xuyên quốc gia
Các chuyên gia kinh tế đã dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau để thể hiện
hình thức tồn tại của các TNCs. Chẳng hạn:
- Căn cứ theo quá trình vận động và lĩnh vực hoạt động của các TNCs:

19


+ Công ty xuyên quốc gia sơ khai: là loại hình đầu tiên có từ thời kỳ tư
bản tự do cạnh tranh thống trị. Các công ty này thường hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, khai khoáng với mục đích khai thác nguyên liệu, bóc lột lao động
làm thuê ở thuộc địa phục vụ cho quá trình tích luỹ tư bản để công nghiệp hoá.

Các công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh thế kỷ XVII-XVIII là những ví dụ
điển hình về loại hình TNCs này.
+ Công ty xuyên quốc gia thương mại: gồm những công ty mà chi nhánh ở
nước ngoài là những chi nhánh chủ yếu thực hiện việc xuất nhập khẩu hàng hoá.
Ngoài ra việc sản xuất cũng có thể được thực hiện tại chỗ ở các chi nhánh này khi
việc thâm nhập thị trường trở nên khó khăn. Song việc sản xuất tại chỗ thường có
giới hạn, chỉ sản xuất một phần sản phẩm theo mẫu của công ty mẹ, hoặc chỉ thực
hiện việc lắp ráp một số bộ phận linh kiện để thực hiện xuất khẩu tại chỗ.
+ Công ty xuyên quốc gia sản xuất: Với loại hình này, quy trình sản xuất
một sản phẩm được phân chia theo những công đoạn nhất định và mỗi xí nghiệp
chi nhánh sẽ đảm nhiệm sản xuất một bộ phận hoặc một số chi tiết sản phẩm,
hoặc lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Các bộ phận của sản phẩm được lưu thông
giữa các chi nhánh, trong nội bộ công ty, cuối cùng đến một chi nhánh, ở đó sản
phẩm được lắp ráp và mang nhãn hiệu của nước mẹ hoặc nước chủ nhà. Các
TNCs điển hình cho loại này như: Sony, IBM, Toyota, Honđa,...
+ Công ty xuyên quốc gia tài chính, kỹ thuật: là những công ty có sức mạnh
về tài chính, kỹ thuật, hoạt động trong những ngành có hàm lượng khoa học cao
và làm nhiệm vụ cung cấp kỹ thuật, tài chính cho các công ty chi nhánh ở nước
ngoài. Qua con đường này, công ty mẹ kiểm soát, chi phối các hoạt động của các
công ty nhánh. Điển hình cho loại hình này: Exxon, Mc Donal Douglas, Mobil
Oil, ...
- Tuỳ theo tính chất phức tạp của sản xuất và hình thức tổ chức công ty
Theo Maicơn Z.Brucơ và H.Liremmơ có thể chia các công ty xuyên quốc
gia thành các loại công ty A, B, C, D. Trong đó công ty loại A chỉ sản xuất một
loại sản phẩm cá biệt; công ty loại B sản xuất những nhóm sản phẩm trong nước
và tổ chức việc tiêu thụ ở nước ngoài theo sự phân chia các khu vực địa lý, với
mục đích đẩy mạnh và tạo ra các điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá;
công ty loại C cũng sản xuất các nhóm sản phẩm nhưng việc sản xuất ở nước

20



ngoài được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của công ty mẹ; công ty loại D được
hình thành từ sự phát triển hơn nữa của các loại công ty A,B,C.
Mặc dù có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các TNCs. Tuy nhiên, theo
nhiều nhà nghiên cứu thì cách phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo trình độ
phát triển-biểu hiện ra là sự thay đổi về hình thức sở hữu tư bản của các TNCs.
+ Cartel: loại hình liên kết giữa các công ty độc quyền trong cùng một
ngành, có thể liên kết với nhau bằng cách cùng nhau ký kết một hiệp định lập ra
thị trường tiêu thụ, xác định giá cả hàng hoá, số lượng sản phẩm bán ra nhằm
mục tiêu hạn chế cạnh tranh, từ đó phân chia lợi ích cụ thể với nhau. Ví dụ
OPEC là một Cartel có quy mô quốc tế, các thành viên của OPEC thường thoả
thuận với nhau về số lượng dầu cung cấp, cũng như giá bán ra trên thế giới. Mặc
dù vậy các công ty này vẫn là những công ty độc lập về pháp lý trong sản xuất
cũng như thương mại. Tại Hồng Kông, các ngân hàng đã cấu kết với nhau thành
một tổ chức Cartel, họ định lãi suất thấp cho các tài khoản gửi nhưng cao cho
các khoản vay ngân hàng, nhờ đó các ngân hàng trong Cartel đã được lãi to: trên
645 triệu USD thu được trong năm 1991 (bằng 0,8% GDP của Hồng Kông).
+ Syndicate: Cũng là loại hình liên kết giữa các xí nghiệp tư bản chủ
nghĩa, các bên cùng ký kết hiệp định có liên quan đến số lượng hàng hoá tiêu thụ
chung, đến việc mua nguyên vật liệu, nhằm mua được nguyên vật liệu với giá
thấp, bán được sản phẩm với giá cao. Trong loại hình này, các xí nghiệp vẫn độc
lập về sản xuất, pháp lý, nhưng không còn độc lập về thương mại nữa. Một điều
đáng chú ý là rất nhiều Syndicate là do Cartel phát triển lên.
+ Trust: Loại hình công ty được hình thành nên do sự liên hiệp hoá theo
chiều ngang, phát triển cao hơn về mặt tổ chức, trong đó nhiều xí nghiệp sản
xuất cùng một loại hàng hoá hoặc các xí nghiệp ở các ngành kế cận nhau có quan
hệ chặt chẽ với nhau cùng hợp nhất lại thành một tổ chức (kinh tế). Các xí
nghiệp khi đã được hợp nhất vào tổ chức kinh tế này không còn độc lập về tất cả
mọi mặt sản xuất, thương mại và luật pháp. Có 2 loại Trust cơ bản, đó là công ty

cổ phần đặc biệt (kiểm soát công ty thông qua việc nắm cổ phiếu khống chế của
công ty) và công ty hợp nhất các xí nghiệp, đó là hợp nhất hoàn toàn các xí
nghiệp với nhau, thông qua hợp nhất hay bị thôn tính. Việc điều hành sản xuất
kinh doanh hoàn toàn do Ban quản trị đảm nhiệm. Ví dụ, công ty General Motor

21


×