Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Sự thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam : Luận văn ThS. Kinh tế: 60 31 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------

LÊ TUẤN ANH

SỰ THÂM NHẬP CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC
GIA VÀO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------

LÊ TUẤN ANH

SỰ THÂM NHẬP CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC
GIA VÀO VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS.NGUYỄN NGỌC HỒI



Hà Nội - 2007


MỤC LỤC
Bảng các ký hiệu viết tắt
Danh mục bảng biểu và biểu đồ
Mở đầu

6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG

10

CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
1.1. Tổng quan về Công ty xuyên quốc gia

10

1.1.1. Bản chất Công ty xuyên quốc gia.

10

1.1.2. Nguồn gốc hình thành của Công ty xuyên quốc gia

12

1.1.3. Các dấu hiệu nhận biết Công ty xuyên quốc gia


14

1.1.4.Vai trò của Công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới

15

1.2.Thâm nhập thị trường thế giới - Chiến lược toàn cầu hoá của các

24

Công ty xuyên quốc gia
1.2.1. Thâm nhập và hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty

24

xuyên quốc gia
1.2.2. Các hình thức thực hiện chiến lược toàn cầu hóa của các Công ty

29

xuyên quốc gia
1.3. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á thu hút sự thâm nhập của

35

các Công ty xuyên quốc gia
1.3.1. Kinh nghiệm của Malaixia

36


1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

41

CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC

49

GIA VÀO VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1. Tiền đề cho sự thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam

49

2.1.1. Những thuận lợi cho sự thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia

49

2.1.2. Những khó khăn cho sự thâm nhập của Công ty xuyên quốc gia

51

2.2. Quá trình thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam

54

2.2.1. Nguồn gốc và quá trình thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia
ở Việt Nam

54



2.2.2. Loại hình của các Công ty xuyên quốc gia hoạt động tại Việt Nam

61

2.2.3. Lĩnh vực thâm nhập thị trường của các Công ty xuyên quốc gia tại

62

Việt Nam
2.2.4. Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty xuyên quốc gia

66

tại Việt Nam
2.3. Đánh giá quá trình thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia vào

69

nền kinh tế Việt Nam
2.3.1. Những tác động cơ bản của quá trình thâm nhập

69

2.3.2. Sự chuyển biến của nền kinh tế để thích ứng sự thâm nhập của các

84

Công ty xuyên quốc gia

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ SỰ

96

THÂM NHẬP CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA NHẰM THÚC
ĐẨY NỀN KINH TẾ VIỆT NAM PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm định hướng nhằm khai thác có hiệu quả sự thâm nhập

96

của các Công ty xuyên quốc gia
3.1.1. Chủ động thu hút các Công ty xuyên quốc gia.

97

3.1.2. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh để đảm bảo nguyên tắc giữ vững độc

97

lập tự chủ, cùng có lợi
3.1.3. Cần có sự nỗ lực chung của cả Nhà nước và các doanh nghiệp

98

3.1.4. Phải nội sinh hoá ngoại lực, hiện đại hoá nội lực để phát triển bền

99

vững lâu dài

3.2. Các giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả sự thâm nhập của các

100

Công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam
3.2.1. Giải pháp giải pháp phát huy tính tích cực từ sự thâm nhập của

100

các Công ty xuyên quốc gia
3.2.2.Giải pháp chung nhằm ngăn chặn tác động tiêu cực từ sự thâm nhập của

113

các Công ty xuyên quốc gia
Kết luận

116

Danh mục tài liệu tham khảo

117

Phụ lục

121


BẢNG CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Viết tắt


Tiếng Việt

AFTA

Khu vực tự do thương mại ASEAN

APEC

Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BITs

Hiệp định xúc tiến và bảo vệ đầu tư song phương

BOT

Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao

BTA

Hiệp định Thương mại song phương (Việt - Mỹ)

CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá


CNTB

Chủ nghĩa tư bản

EU

Liên minh châu Âu

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

JETRO

Cơ quan thương mại quốc tế Nhật Bản

JICA

Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản

M&A


Mua bán & sáp nhập

MECOSUR

Khối thị trường chung Nam Mỹ

NIEs

Các nền kinh tế công nghiệp mới

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

R&D

Nghiên cứu và phát triển

TNCs

Các công ty xuyên quốc gia

UNCTAD

Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển


USD

Đô la Mỹ

WB

Ngân hàng Thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ

Bảng 1:Tỷ trọng xuất khẩu của chi nhánh nước ngoài của TNCs trong kim

17

ngạch xuất khẩu của một số nước
Bảng 2 : Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đăng ký, giai đoạn 1989

59

- 2006 (đối tác trên 1 tỷ USD)

Bảng 3: TNCs đăng ký hoạt động trong lĩnh vực ôtô tại Việt Nam

63


Hình 1: Tình hình thực hiện vốn đăng ký của TNCs với mức trung bình

71

trong cả nước, giai đoạn 2000 - 2006
Bảng 4: Những đóng góp của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào

72

Việt Nam
Hình 2: Tỷ lệ % cơ cấu các ngành kinh tế qua các mốc thời gian

73

Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI giai đoạn 1991-2006

74

Bảng 6: Đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách Nhà nước giai đoạn 1996-2006

76

Bảng 7: Những thay đổi trong chính sách quốc gia nhằm thu hút TNCs

121

Bảng 8: So sánh mức lương trung bình của công nhân Việt Nam với công 121
nhân một số nước khác
Bảng 9: FDI trên thế giới giai đoạn 2001-2010


122

Bảng 10: Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá so sánh năm 1994

122


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, cách mạng
khoa học - công nghệ, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (Transnational
Coporations - TNCs) đang và sẽ là lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu
hoá, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi quốc tế. Chúng
là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cơ cấu lại
nền kinh tế thế giới và là mẫu hình thực hiện kiểu tổ chức sản xuất hàng hoá hiện
đại. Chính vì thế, hiện nay TNCs đang tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng,
đang thâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có
nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam.
Việt Nam hiện đang trong quá trình đổi mới, thực hiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Theo đó, sự thâm nhập của TNCs ngày càng nhiều vào nền kinh tế
Việt Nam là một xu hướng tất yếu, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế; đồng thời, cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước nhiều thách thức.
Với các câu hỏi đặt ra như: Quá trình thâm nhập của TNCs tác động tới nền
kinh tế Việt Nam như thế nào? Chúng ta cần có giải pháp gì để hạn chế những
tác động tiêu cực và khai thác có hiệu quả tác động tích cực từ TNCs? Làm rõ
được những nội dung này thực sự là vấn đề quan trọng và cấp thiết, có ý nghĩa
cả về lý luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do khiến học viên chọn đề tài: “Sự
thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam” làm đề tài luận

văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam trong những năm trước đây, đã có một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu về TNCs. Tuy nhiên, mỗi công trình lại nghiên cứu một vài khía
cạnh nhất định :
- Ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế các
nước ASEAN: Luận án Phó tiến sĩ khoa học Kinh tế của Nguyễn Khắc Thân Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1991. Luận án tập trung nghiên

6


cứu đặc trưng cắm nhánh của TNCs và ảnh hưởng do sự cắm nhánh của chúng
đối với những nền kinh tế thuộc ASEAN.
- Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát
triển do Nguyễn Ngọc Diên, Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương đồng
chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996. Nhóm tác giả nghiên cứu tình hình đầu
tư trực tiếp đối với các nước đang phát triển, qua đó đề xuất một số giải pháp
chung, cơ bản nhằm thu hút vốn đầu tư của TNCs vào các quốc gia này.
- Các công ty xuyên quốc gia của một số nền kinh tế công nghiệp mới
(NIEs) châu Á: Luận án Tiến sĩ Kinh tế của Hoàng Bích Loan - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Luận án tập trung nghiên cứu quá
trình hình thành và phát triển TNCs của Nies Châu Á; đồng thời, đưa kinh
nghiệm của NIEs Châu Á trong việc hình thành và phát triển TNCs, qua đó
nêu một số gợi ý cho Việt Nam.
- Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia và tác động của nó đối với
các nước đang phát triển, Nguyễn Văn Lan, Tạp chí “Những vấn đề Kinh Tế
Thế Giới”, 2002. Bài viết tập trung nghiên cứu hoạt động của TNCs; đồng
thời, chỉ ra thời cơ và thách thức cho các nước đang phát triển trong quá trình
hoạt động của TNCs đem lại.
- Các công ty xuyên quốc gia – Khái niệm, đặc trưng và những biểu

hiện mới do Nguyễn Thiết Sơn chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2003. Đây là
cuốn sách tập trung nghiên cứu về khái niệm, nguồn gốc của TNCs và chỉ rõ
một số hoạt động của TNCs Mỹ, Nhật, Tây Âu và NIEs châu Á.
- Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tại Việt Nam do Đỗ
Đức Bình chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2005. Cuốn sách tập trung nghiên
cứu thực trạng thu hút FDI từ TNCs tại Việt Nam và đặc biệt quan tâm tới giải
pháp tăng cường thu hút đầu tư của TNCs.
Có thể nói rằng, chưa công trình nghiên cứu nào bàn cụ thể về quá trình
thâm nhập của TNCs và tác động của chúng đến nền kinh tế Việt Nam hiện
nay. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là nguồn tài liệu
tham khảo quan trọng đối với học viên trong quá trình nghiên cứu đề tài.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu :
Góp phần làm rõ sự thâm nhập của TNCs và tác động của chúng đến
nền kinh tế Việt Nam; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác
hiệu quả tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực từ TNCs đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu :
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là :
- Hệ thống hóa lý luận về TNCs và vai trò của nó đối với sự phát kinh tế.
- Nghiên cứu quá trình thâm nhập của TNCs và tác động của chúng đối
với nền kinh tế Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả tác động tích cực và
hạn chế tác động tiêu cực từ TNCs đối với nền kinh tế Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu :
- Đề tài nghiên cứu quá trình thâm nhập và tác động của TNCs đối với
nền kinh tế Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu :
- Luận văn giới hạn nghiên cứu ở sự thâm nhập của TNCs đến nền kinh
tế Việt Nam chủ yếu trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử; đồng thời, kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh,
logíc kết hợp với lịch sử để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá lý luận về TNCs và vai trò của chúng.
- Góp phần phân tích và làm rõ quá trình thâm nhập của TNCs và tác
động của chúng đến nền kinh tế Việt Nam.
- Bước đầu khuyến nghị một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả sự
thâm nhập của TNCs để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
8


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm ba chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề chung và thực tiễn hoạt động của Các công ty
xuyên quốc gia
Chương 2: Quá trình thâm nhập của các Công ty xuyên quốc gia vào
Việt Nam và một số vấn đề đặt ra
Chương 3: Một số giải pháp khai thác có hiệu quả sự thâm nhập của
các Công ty xuyên quốc gia nhằm thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển
trong thời gian tới


9


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
1.1.

TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA

1.1.1.Bản chất Công ty xuyên quốc gia.
* Các quan niệm về Công ty xuyên quốc gia
Trong các tài liệu về công ty xuyên quốc gia, có nhiều thuật ngữ được
sử dụng như: công ty quốc tế (International Enterprise/Firm), công ty đa quốc
gia (Multinational Corporations/Enterprises – MNCs/MNEs), công ty xuyên
quốc gia (Transnational Corporations - TNCs), gần đây lại xuất hiện thuật ngữ
công ty toàn cầu (Global Firm). Vậy giữa các thuật ngữ này có gì khác biệt?
thuật ngữ nào được sử dụng là hợp lý nhất ?
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, thuật ngữ công ty quốc tế
(International Enterprise/Firm) và công ty đa quốc gia (MNEs) được sử dụng
với ý nghĩa như nhau, nhưng thuật ngữ công ty quốc tế được sử dụng phổ
biến. Các thuật ngữ này nói đến sự lớn mạnh của công ty đã vượt ra khỏi
phạm vi một quốc gia và có hoạt động sản xuất kinh doanh ở nhiều nước trên
thế giới. Mặc dù hai thuật ngữ trên có ý nghĩa như nhau, nhưng xét ở cách tiếp
cận, thuật ngữ thứ nhất xem xét công ty từ giác độ kinh doanh quốc tế; trong
khi, thuật ngữ thứ hai đề cập đến tính sở hữu đa quốc gia của công ty.
Đến đầu thập kỷ 70, thuật ngữ công ty đa quốc gia (MNEs) được sử
dụng nhiều hơn thuật ngữ công ty quốc tế và có ý nghĩa phân biệt với khái
niệm “công ty quốc tế”. Trong thời kỳ này, cơ cấu tổ chức và hoạt động của
MNEs chuyển sang cơ chế phi tập trung, đa doanh hơn trước. Quá trình ra

quyết định các hoạt động của công ty không còn độc quyền từ một chủ sở hữu
chính quốc, mà người nước ngoài cũng được tham gia quản lý thông qua các
chi nhánh ở nước họ. Hơn nữa, họ có quyền điều chỉnh tỷ lệ góp vốn, ra quyết
định hình thức hợp tác đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với MNEs của nước
chủ sở hữu. Bởi vậy, cơ cấu tổ chức và hoạt động của MNEs không chỉ có tính

10


quốc tế mà còn mang đậm nét đa quốc gia.
Tuy nhiên, các tiêu chí để nhận diện một công ty đa quốc gia (MNEs)
còn chưa thống nhất giữa các học giả. Các học giả Mỹ thường căn cứ vào
phạm vi kiểm soát và quản lý các hoạt động sản xuất ít nhất từ hai nước trở
lên; hơn nữa, họ nhấn mạnh đến mức độ kiểm soát và quản lý trực tiếp các
hoạt động của công ty ở nước ngoài. Một số học giả khác lại nhấn mạnh về
đặc điểm quy mô tài sản của công ty phải đạt đến mức 100 triệu USD
(Raymond Vernon, 1971) hoặc được xếp vào danh sách 500 công ty lớn nhất
về tài sản trên thế giới được công bố hàng năm mới được gọi là MNEs. Có tài
liệu còn dựa trên tiêu chuẩn như số lao động sử dụng ở nước ngoài hoặc tỷ lệ
tài sản ở nước ngoài trên tổng giá trị tài sản công ty.
Đến cuối thập kỷ 80, do sự nới lỏng các quy chế đầu tư nước ngoài ở
các nước đang phát triển và xu hướng tự do hoá thị trường vốn quốc tế,
MNEs đã tăng trưởng mạnh mẽ. Trào lưu các công ty mẹ (parent firms) mở
rộng chi nhánh ra nhiều nước (transnationals) đã trở thành đặc điểm nổi bật
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Bởi vậy, thuật ngữ công ty xuyên
quốc gia (TNCs) được sử dụng rộng rãi.
Năm 2003, Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) đã đưa ra định nghĩa chung như sau: TNCs là các công ty liên
doanh hoặc độc lập bao gồm các công ty mẹ và các chi nhánh nước ngoài của
chúng. Công ty mẹ là công ty thực hiện quyền kiểm soát toàn bộ tài sản của

các thực thể kinh tế khác ở nước ngoài thuộc quyền quản lý của chúng thông
qua hình thức sở hữu vốn tư bản cổ phần. Có tỷ lệ góp vốn cổ phần là 10% so
với cổ phần gốc hoặc cao hơn, hay mức cổ phần khống chế đối với các công ty
liên doanh, hoặc tương ứng đối với các công ty độc lập, thường được xem là
ngưỡng để giành quyền kiểm soát tài sản của các công ty khác.
Trước xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ, nhiều quốc gia đã mở
cửa thu hút TNCs; các hoạt động của TNCs không còn giới hạn ở số ít lĩnh
vực chuyên doanh mà đã chuyển sang đa doanh, có phạm vi ảnh hưởng toàn
cầu. Bởi thế, đã xuất hiện thuật ngữ công ty toàn cầu. Thực ra, thuật ngữ này
11


chỉ phản ánh đặc điểm của TNCs trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, còn về
bản chất và định nghĩa vẫn không có sự khác nhau đáng kể.
Như vậy, việc nghiên cứu các quan niệm trên có thể đi đến hai nhận
xét quan trọng:
Thứ nhất, về bản chất, các thuật ngữ về TNCs không có gì khác biệt
đáng kể. Điểm chung khi nói về TNCs là quy mô lớn, sở hữu đa quốc gia và
kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở nhiều nước. Sự khác biệt chủ
yếu là tên gọi, để phản ánh đặc điểm nổi bật của TNCs trong từng giai đoạn
lịch sử phát triển hoặc do thói quen sử dụng từ ngữ của các học giả.
Thứ hai, khó có thể đưa ra định nghĩa chính xác về TNCs, nhưng tựu
chung, nội hàm các khái niệm đều thống nhất với nhau ở điểm: TNCs trước
hết là công ty lớn phát triển theo xu hướng độc quyền, có phạm vi hoạt động
vượt ra ngoài khuôn khổ biên giới quốc gia của một nước và có quan hệ chặt
chẽ với nhiều nước thông qua việc mở chi nhánh ở nước ngoài.
* Bản chất của Công ty xuyên quốc gia
Xét về cả logic và lịch sử, sự ra đời của TNCs trên thế giới gắn liền
với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa (TBCN). Chúng
là kết quả sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp TBCN, là sự vận động mở

rộng và sâu sắc hơn các mối quan hệ sản xuất TBCN, khi các mối quan hệ đó
vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia, nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh
quốc tế. Bản chất của TNCs là sự tập trung tư bản rất cao trong tay một số
công ty có tư cách pháp nhân hoạt động ở nhiều quốc gia nhằm chi phối nền
kinh tế toàn cầu bằng cách luôn sản xuất ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ
ngày càng lớn với công nghệ công nghệ và kỹ thuật mới để thu lợi nhuận độc
quyền. Điều đó phản ánh tính chất gay gắt của cạnh tranh và cũng là nguyên
nhân làm các công ty này không ngừng đổi mới để lớn mạnh.

1.1.2. Nguồn gốc hình thành của Công ty xuyên quốc gia
Khi CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền thì quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ. Trong lĩnh vực
12


sản xuất, cạnh tranh giữa các xí nghiệp có quy mô vừa và nhỏ đã dẫn tới sự
phá sản của số lượng lớn xí nghiệp; số còn lại, hoặc bị thôn tính, hoặc phải
chọn giải pháp liên kết hay sáp nhập (Merger and Acquisition – M&A) để trở
thành xí nghiệp lớn hơn. Tích tụ tư bản gắn liền với sự xuất hiện các hình thức
tín dụng, kéo theo là sự ra đời loại hình công ty cổ phần đã thúc đẩy quá trình
tập trung tư bản. Theo C.Mác, đây là cơ sở cho việc chuyển hoá dần những xí
nghiệp tư bản tư nhân thành những công ty cổ phần, là phương tiện để mở
rộng quy mô hợp tác giữa các xí nghiệp, là nhân tố quan trọng đẩy nhanh tốc
độ phát triển của lực lượng sản xuất vật chất và sự hình thành thị trường thế
giới. Như vậy, loại hình công ty cổ phần và sự liên kết giữa các xí nghiệp đã
tạo ra cơ sở để tự do cạnh tranh chuyển thành độc quyền. Tiến trình này không
chỉ phản ánh sự chuyển hoá những thuộc tính cơ bản trong quan hệ sản xuất
TBCN sang mặt đối lập của nó, mà còn khẳng định nền sản xuất TBCN chắc
chắn sẽ vận động sang nấc thang mới cao hơn, với hình thức tổ chức tiến bộ
hơn. Nhưng độc quyền TBCN sống chung cùng cạnh tranh, dựa vào cạnh

tranh để tồn tại, hoàn thiện và phát triển. Đó là lôgíc vận động hiện thực của
nền sản xuất TBCN.
Kế thừa và phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ănghen, trong quá
trình nghiên cứu sự phát triển của CNTB ở cuối thế kỷ XIX, V.I.Lênin đã rút
ra kết luận: Việc tập trung sản xuất đẻ ra các tổ chức độc quyền là một quy
luật phổ biến và cơ bản trong giai đoạn hiện nay của CNTB.
Các nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy, xí nghiệp độc quyền được
hình thành nhờ sự kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn và quá trình phân
phối quy mô quốc tế vào một công ty đơn nhất, nghĩa là trong xí nghiệp bao
gồm cả hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tài chính…để
hình thành nên xí nghiệp công thương hiện đại qua các mối liên hệ dọc - ngang.
Xí nghiệp liên kết theo chiều dọc thường là những xí nghiệp theo ngành dọc của
mình. Xí nghiệp liên kết theo chiều ngang phần lớn là các xí nghiệp thuộc các
ngành khác nhau. Sự liên kết theo chiều dọc là con đường cơ bản hình thành
nên xí nghiệp hiện đại. Mối liên kết này là một hình thức sáng tạo về chế độ
hoạt động của xí nghiệp. Khi phạm vi địa lý của phân công nội bộ xí nghiệp
13


công thương hiện đại vượt khỏi biên giới quốc gia, thì TNCs hình thành.
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây, dưới tác động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và làn sóng toàn cầu hoá kinh tế, TNCs
đã thâm nhập nhanh vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế mới, khẳng định thêm vai
trò quan trọng của chúng đối với nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như kinh
tế khu vực và từng quốc gia nói riêng. Đồng thời, phạm vi cạnh tranh toàn cầu
giữa TNCs lại khốc liệt hơn. Trong quá trình mở rộng phương thức sản xuất
TBCN trên toàn cầu, TNCs với tư cách “con đẻ” của phương thức sản xuất này
đã tích cực điều chỉnh hoạt động kinh doanh, xây dựng lại hệ thống phân công
quốc tế, kết hợp liên kết dọc – ngang trong nội bộ công ty. Cơ cấu tổ chức toàn
cầu của TNCs tương ứng cũng ra đời. TNCs trở thành hình thức điển hình của

chế độ xí nghiệp thích ứng với sự phân công và trao đổi quốc tế hiện đại.

1.1.3. Các dấu hiệu nhận biết Công ty xuyên quốc gia.
- Phạm vi hoạt động rộng
TNCs có phạm vi hoạt động trên toàn thế giới. Các đặc điểm ưu việt
của chúng về tổ chức sản xuất, phương thức tiêu thụ, cấp vốn, nghiên cứu và
phát triển đã trở thành hình thức chủ yếu trong nền kinh tế hiện đại.
- Năng lực tổ chức sản xuất lớn
TNCs có năng lực tổ chức lớn mạnh, đủ sức kiểm soát hoạt động của
hàng chục, thậm chí hàng trăm chi nhánh phân tán ở nhiều nước, xử lý được các
công việc phức tạp có liên quan đến pháp luật và tài chính. TNCs có điều kiện
thuận lợi cho việc khai thông di chuyển vốn, hàng hoá, kỹ thuật, lao động chuyên
môn cao…trên phạm vi quốc tế. Thông qua các tổ chức, chi nhánh, TNCs có thể
thực hiện từ xa việc kết hợp các yếu tố sản xuất trên quy mô toàn cầu. Sự kết hợp
giữa việc sử dụng tư liệu sản xuất, lực lượng kỹ thuật tập trung về không gian với
phân đoạn về thời gian là con đường quan trọng giúp TNCs tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng lợi nhuận.
- Tiềm lực khoa học lớn
TNCs có tiềm lực lớn về nghiên cứu khoa học và phát triển sản phẩm.
Công tác nghiên cứu & phát triển (R&D) khoa học của TNCs được tổ chức
14


chặt chẽ, có kế hoạch đồng bộ. Thông thường mỗi TNCs đều có đội ngũ nhà
khoa học lớn mạnh, tập trung nghiên cứu những đề tài then chốt. Công ty mẹ
với vai trò chỉ đạo, cung ứng nhân lực và tài lực cho các đề tài nghiên cứu của
các công ty con để tránh trùng lặp, rời rạc và kém hiệu quả.
- Sức cạnh tranh và khả năng thích ứng cao
TNCs có lợi thế trong cạnh tranh do độc quyền nhãn hiệu, công nghệ
sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Thông qua các tổ chức chi nhánh đặt tại khắp

nơi trên thế giới, TNCs có khả năng nắm bắt sự thay đổi nhu cầu thị trường và
đáp ứng kịp thời những thay đổi đó.
- Có mạng lưới phân phối rộng rãi
TNCs có mạng lưới phân phối rộng khắp và có khả năng điều phối vốn
trên toàn thế giới. Thông qua mạng lưới thông tin dày đặc giữa các công ty
con, TNCs thường xuyên nắm bắt tình hình thay đổi pháp luật, chính sách của
các nước. Từ đó phân tích để đưa ra các đối sách phù hợp. Việc hình thành
mạng lưới phân phối rộng rãi nhằm mở rộng thị trường và chia sẻ rủi ro trong
kinh doanh là đặc điểm nổi bật của TNCs.

1.1.4.Vai trò của Công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới
Với mạng lưới phân phối rộng, tiềm lực tài chính, khoa học công nghệ
mạnh…TNCs đã có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới nói chung
và các nền kinh tế nói riêng. Vai trò đó được thể hiện qua các hoạt động thúc
đẩy thương mại, đầu tư, phát triển nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ...
trên phạm vi toàn thế giới.
1.1.4.1. Công ty xuyên quốc gia thúc đẩy thương mại thế giới phát triển
a, Tăng cường lưu thông hàng hoá và dịch vụ quốc tế
Với số lượng hàng trăm chi nhánh cắm sâu vào nền kinh tế thế giới,
TNCs đã tạo ra một hệ thống mạng lưới bao trùm trong lĩnh vực lưu thông.
Với việc trao đổi của công ty mẹ và các chi nhánh trên thế giới, TNCs đã tạo
ra một kênh lưu thông chiếm tới 50-60% doanh số thương mại thế giới. Tổng
giá trị thương mại của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài đã tăng trên 8% bình
quân hàng năm (giai đoạn 1995 - 2005).
15


b, Góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước
Với hoạt động đầu tư hướng về xuất khẩu, TNCs chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhiều nước trên nhiều lĩnh vực:

Trong lĩnh vực khai thác, bên cạnh dầu lửa và khoáng sản, TNCs còn
phát triển các mặt hàng xuất khẩu dựa trên lợi thế nguồn nguyên liệu như lĩnh
vực chế biến lương thực, thực phẩm, hàng công nghiệp.
Trong lĩnh vực sản xuất, TNCs có xu hướng đầu tư phát triển sản xuất,
Maketing hướng về xuất khẩu; đặc biệt là các sản phẩm mũi nhọn gắn liền với
công nghệ cao. Có thể lấy Trung Quốc là một ví dụ: tỷ trọng xuất khẩu của TNCs
(ngành công nghiệp có trình độ cao) tăng từ 59% năm 1996 lên 81% năm 2000.
Hoạt động xuất khẩu một số sản phẩm mũi nhọn trong ngành điện tử,
viễn thông hầu hết được thực hiện bởi các chi nhánh của TNCs lớn như: bản
mạch điện tử (91% sản phẩm của hãng Samsung do các chi nhánh Samsung
phân phối ); 85% linh kiện máy tính được xuất khẩu trên thế giới của TNCs
được thực hiện bởi các chi nhánh (riêng IBM xuất khẩu 1,5 tỷ USD, Seagate
và Epson xuất khẩu khoảng 1 tỷ USD…); 96% sản phẩm điện thoại di động
xuất khẩu được thực hiện bởi các chi nhánh của TNCs trong lĩnh vực này. Tại
Nam Phi nhờ có TNCs lớn như: General Motor, Toyota, Volkswagen, Ford và
Nissan…kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp sản xuất ôtô và các
phương tiện vận tải khác đã tăng hơn gấp đôi từ 60 tỷ USD năm 1995 lên tới
140 tỷ USD vào năm 2005.
Cùng với sự phát triển của xã hội, dịch vụ ngày càng chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, chiếm 57% GDP của các nền kinh tế phát
triển, 50% GDP của các nền kinh tế đang phát triển. Ngày nay, tiềm năng xuất
khẩu qua biên giới tăng mạnh nhờ những công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực
viễn thông, kết nối Internet. Chính những công nghệ này thúc đẩy khả năng
thương mại của dịch vụ có hàm lượng thông tin cao, bao gồm cả hoạt động
R&D, dịch vụ bán hàng, maketing, phần mềm máy tính… Đây là lĩnh vực mà
TNCs chiếm vị trí số 1.
16


Tỷ trọng xuất khẩu của các chi nhánh TNCs đều chiếm trung bình từ

20% đến 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước (trừ Mỹ và Pháp). Đặc
biệt, một số nước như Estonia và Hungary con số này lên tới 60% và 80%.
Bảng 1 dưới đây cho thấy rõ điều đó.
Tỷ trọng xuất khẩu lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của mỗi nước sẽ
góp phần điều chỉnh cơ cấu trong GDP tăng theo xu hướng cân đối giữa các
ngành và phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế quốc gia. Dù đầu tư vào nước
phát triển hay đang phát triển, TNCs vẫn có vai trò đặc biệt trong hoạt động
thương mại, góp phần cân bằng cán cân thương mại, ổn định kinh tế vĩ mô thông
qua sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu của TNCs tại mỗi quốc gia.
Bảng 1: Tỷ trọng xuất khẩu của chi nhánh nƣớc ngoài của TNCs trong
kim ngạch xuất khẩu của một số nƣớc (%)

Năm

Tỷ trọng xuất khẩu của chi
nhánh nƣớc ngoài (%)

Áo

2001

26,9

Pháp

2001

15,73

Thuỵ Điển


2003

33,35

Mỹ

2003

15,26

Achentina

2000

29

Mexico

2000

24

Trung Quốc

2002

46,52

Hungari


1999

80

Estonia

2000

60

Balan

2000

56

Nƣớc
Các nƣớc phát triển

Các nƣớc đang phát triển

Các nƣớc Trung và Đông Âu

Nguồn: World Export Report 2002, 2006

17


1.1.4.2. Thúc đẩy hoạt động đầu tư quốc tế

Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện
qua kênh TNCs. Theo ước tính của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và
phát triển (UNCTAD), ngày nay đầu tư của TNCs chiếm đến 90% lượng FDI
của thế giới (tương đương 720 tỷ USD năm 2004 , 859 tỷ USD năm 2005,
1098 tỷ USD năm 2006; trong khi FDI thế giới: năm 2004 là 801,7 tỷ USD;
năm 2005 là 954,8 tỷ USD và năm 2006 là 1222,5 tỷ USD). Với lợi thế về
vốn, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý và mạng lưới thị trường rộng
khắp, hoạt động đầu tư của TNCs tác động tới dòng chảy FDI, làm thay đổi xu
hướng đầu tư giữa các nước và tác động trực tiếp tới lượng vốn đầu tư. Trong
những năm 1980, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho nhiều nước đang phát triển
lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Để thoát khỏi tình trạng này, trong
giai đoạn 1998 – 2003, các nước đã chuyển hướng mở cửa nền kinh tế với nhiều
chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Bảng 7). Trong khi đó, nhiều nước
phát triển đã chuyển sang chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất…cùng với giá
nhân công tăng nhanh. Điều này đã dẫn đến không khuyến khích được đầu tư
trong nước, các công ty lớn buộc phải đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm thị
trường và thu lợi nhuận thông qua lợi thế so sánh ở mỗi quốc gia. Do vậy, nếu
giai đoạn 1976 - 1980 dòng vốn FDI đạt trung bình 31,8 tỷ USD/năm), thì sau đó
tăng nhanh, năm 1997 đạt trên 400 tỷ USD (khoảng hơn 100 tỷ USD vào các
nước đang phát triển). Năm 2000, dòng vốn FDI ra thế giới đạt mức ấn tượng với
mức 1000 tỷ USD, trong đó khoảng trên 200 tỷ USD đầu tư vào các nước đang
phát triển. Năm 2003, dòng vốn FDI có sự giảm sút, đạt mức 584 tỷ USD và có
chiều hướng tăng từ 720 tỷ USD năm 2004 lên 1222,5 tỷ USD năm 2006; trong
đó, đầu tư vào các nước đang phát triển lần lượt là: 316,1 tỷ USD; 410,6 tỷ USD.
Các số liệu nói trên đã chứng tỏ dòng FDI trên thế giới tăng mạnh; đặc biệt vào
các nước đang phát triển (tiêu biểu là các thị trường mới nổi thuộc khu vực châu
Á – Thái Bình Dương với 178 tỷ USD, tiếp đó là thị trường mới nổi ở châu Âu
chiếm 166,7 tỷ USD).

18



Với sự chi phối nguồn FDI của thế giới, TNCs đã góp phần đẩy nhanh tiến
trình tự do hoá đầu tư nước ngoài thông qua việc tham gia sâu, rộng vào nền kinh
tế các nước trên thế giới. Bằng những thay đổi trong chính sách vĩ mô của các
quốc gia, trên quy mô quốc tế là hiệp ước được ký kết giữa các quốc gia, TNCs
đã có cơ hội mở rộng phạm vi đầu tư, góp phần củng cố và thúc đẩy hoạt động
kinh tế của các nước. Trong giai đoạn 1990 - 2000, số lượng các hiệp định xúc
tiến và bảo vệ đầu tư song phương (Bilateral Treaties for the promotion and
protection of investment – BITs) đã tăng gấp 5 lần và đạt con số 1941 hiệp định.
Chỉ riêng năm 2000 đã có 78 nước ký kết hiệp định đầu tư song phương. Đến
cuối năm 2005 tổng số BITs đã lên tới 2.945 cùng với 2.758 hiệp định tránh đánh
thuế hai lần (DTT). Ngoài ra, các thoả thuận khu vực cũng được thúc đẩy nhằm
tạo môi trường thuận lợi tối đa cho hoạt động đầu tư như: Tuyên bố của OECD
về đầu tư quốc tế và các doanh nghiệp đa phương (bao gồm bản Hướng dẫn sửa
đổi về các doanh nghiệp xuyên quốc gia và bình luận) ký năm 2000, Thoả thuận
về hợp tác thương mại và đầu tư giữa Canada và MECOSUR (Khối thị trường
chung Nam Mỹ) (1998), Các biện pháp ngắn hạn nhằm thúc đẩy môi trường đầu
tư ASEAN (1999)… Tất cả các hiệp định giữa các nước và khu vực nói trên đều
nhằm giảm bớt những rào cản đối với sự giao lưu các hoạt động đầu tư, thương
mại giữa các nền kinh tế mà chủ thể của các hoạt động đó là TNCs, góp phần tự
do hoá hoạt động đầu tư trên quy mô toàn cầu.
1.1.4.3.Tác động tích cực đến quá trình tích luỹ vốn của nước chủ nhà.
Thông qua nhiều cách thức huy động vốn từ các nguồn: vốn tự có, vốn
đi vay, vốn huy động từ nền kinh tế nước chủ nhà, thị trường tài chính thế giới
và thông qua các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), TNCs thể hiện vai trò lực lượng nòng cốt trong quá trình tích
luỹ vốn phục vụ phát triển kinh tế của các nước chủ nhà; đặc biệt là các nước
đang phát triển, nơi đang cần một lượng vốn lớn phục vụ cho công cuộc
CNH,HĐH mà đa phần các quốc gia đang theo đuổi. Vai trò của TNCs trong

việc huy động vốn cho nền kinh tế thể hiện qua một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, khi TNCs thực hiện đầu tư vào nước sở tại, chúng sẽ cung
19


ứng cho nền kinh tế lượng vốn đáng kể cho công tác xây dựng cơ sở vật chất
ban đầu hoặc nguồn tài chính dự phòng cho công việc kinh doanh. Sau quá
trình hoạt động, TNCs thường đem lại nguồn lợi tài chính cho các nước thông
qua việc đóng góp qua ngân sách như thuế, các chi phí dịch vụ: điện, nước,
điện thoại, bảo hiểm…Hơn nữa, sự xuất hiện của TNCs đã tạo điều kiện cho
bộ phận khá lớn người lao động (lao động trực tiếp hoặc gián tiếp) có thu nhập
cao, giúp cải thiện điều kiện sống và có số dư để tiết kiệm, dẫn đến tỷ lệ tiết
kiệm trong dân cư tăng, góp phần tăng tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Tại các
nước có thị trường chứng khoán phát triển, TNCs hoạt động có hiệu quả là nơi
thu hút mạnh mẽ các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư thông qua việc mua,
bán cổ phần của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán; tạo điều kiện
cho dân cư tối đa hoá lợi ích bằng việc đầu tư thay vì thói quen tích luỹ của cải
dưới dạng tài sản “ngủ yên”, bắt chúng phải sinh sôi thông qua đầu tư vào cổ
phiếu hoặc quỹ tiết kiệm (tại Singapore, có giai đoạn quỹ tiết kiệm thu hút tới
50% quỹ lương của cả công nhân và giới chủ).
Thứ hai, ngoài khoản đầu tư ban đầu để xây dựng cơ sở sản xuất kinh
doanh, TNCs có thể thực hiện các biện pháp huy động vốn từ công ty mẹ, từ
các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế để mở rộng hoạt động của mình
trong các lĩnh vực thu hồi vốn chậm, lãi suất thấp như: xây dựng cơ sở hạ tầng,
đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, vào các khu vực khó khăn, góp phần
quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá của nhiều nước. Đây là hình thức thu
hút đầu tư nước ngoài chủ yếu của các nền kinh tế mới công nghiệp hoá Châu
Á, đặc biệt là TNCs Hàn Quốc.
1.1.4.4. Góp phần phát triển và chuyển giao công nghệ
TNCs là chủ thể chính trong phát triển công nghệ trên thế giới. Nắm giữ

hơn 80% số bằng phát minh sáng chế, TNCs chiếm một vị thế quan trọng
trong quá trình thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển. Với năng lực tài chính
và khoa học mạnh, TNCs luôn dùng vốn, công nghệ mới… để giảm thiểu chi
phí, chuyển giao những công nghệ cũ, với chi phí cao sang các nước đang phát
triển. Nhưng với các nước đang phát triển, những công nghệ này vẫn là cần
20


thiết trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, góp phần thúc đẩy
công cuộc CNH,HĐH.
Với tư cách là chủ thể của nhiều dự án nghiên cứu và phát triển trên thế
giới như: Chiến lược về kỹ thuật tin học (ESPRIT), Kế hoạch nghiên cứu thông
tin tiên tiến (RACE)… TNCs không chỉ nắm giữ phần lớn lực lượng nghiên cứu
khoa học, thực hiện các dự án nghiên cứu, triển khai công nghệ mới phục vụ
mục tiêu chiến lược của mình mà TNCs còn phối hợp với Chính phủ các nước
đầu tư vào các ngành kỹ thuật mũi nhọn, có hàm lượng khoa học cao như: hàng
không, vũ trụ, tàu khách chạy trên đệm hơi… góp phần tạo nên bước nhảy vọt
trong nền công nghệ thế giới.
Quan điểm trước đây về phát triển công nghệ cho rằng: các phát minh
khoa học công nghệ chủ yếu được phát sinh từ các cơ sở nghiên cứu ở các
trường đại học, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm độc lập với các công ty… và
sau khi có kết quả, các công ty mới tìm cách ứng dụng công nghệ, đưa công
nghệ vào cuộc sống, nói cách khác là thương mại hoá công nghệ. Nhưng ngày
nay, quan điểm đó không phù hợp nữa bởi TNCs có các viện nghiên cứu của
mình; nên phần lớn sự phát triển công nghệ bắt nguồn từ sự vận động và phát
triển của các công ty lớn, đặc biệt là TNCs. Xuất phát từ chiến lược phát triển
của mình, TNCs chủ động tìm kiếm công nghệ để tiến hành triển khai công
nghệ, bởi trong xu thế cạnh tranh “ai làm chủ công nghệ mới, người đó sẽ làm
chủ các tiến trình kinh doanh và phát triển mới”[1, tr19]. Đi đầu về công nghệ
đồng nghĩa với việc có được sức mạnh cạnh tranh mang tính độc quyền, do đó

lợi nhuận độc quyền của TNCs sẽ được đảm bảo. Vì vậy, hoạt động phát triển
công nghệ luôn đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển toàn cầu của TNCs.
1.1.4.5. Góp phần tạo việc làm, thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực
Tạo khối lượng việc làm khổng lồ: Với hệ thống sản xuất, kinh doanh
khổng lồ, TNCs có nhu cầu nhân lực rất lớn. Với chiến lược kinh doanh tại
mỗi thị trường, TNCs có ảnh hưởng khác nhau đến khối lượng công việc tạo
ra ở mỗi nước. Nó có thể làm tăng, giữ nguyên hoặc giảm do kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh tại mỗi nước, nhưng xu hướng chung là tăng. TNCs
21


trực tiếp tạo ra việc làm thông qua việc thiết lập các chi nhánh mới hoặc mở
rộng chi nhánh cũ. Cách gián tiếp, TNCs làm tăng khối lượng việc làm bằng
việc phát triển các hình thức kinh doanh với nhà cung cấp, nhà phân phối hoặc
những dịch vụ cung ứng ngược cho các nhà phân phối (hợp đồng thời vụ:
quảng cáo; thăm dò thị trường: phát phiếu thăm dò, phỏng vấn, phát quà
khuyến mại; các dịch vụ: cung cấp bưu chính viễn thông, điện, nước, nhu yếu
phẩm cần thiết…). Theo ước tính, số lượng việc làm dưới hình thức này chiếm
1/2 tổng số việc làm do toàn bộ hệ thống chi nhánh TNCs tạo ra tại các nước
đang phát triển. Với 77.000 công ty mẹ và 770.000 chi nhánh trên toàn cầu,
TNCs là một nguồn cung ứng việc làm khổng lồ cho lực lượng lao động thế
giới. Theo kết quả điều tra năm 2000 do tạp chí Fortune tiến hành, chỉ riêng
4 tập đoàn lớn của Mỹ đã tạo ra 2.195.500 chỗ làm việc; trong đó, WalMart-Store có 1.313.500; International Business Machine: 318.000; General
Motor: 311.000; Citigroup: 253.000. Tại nhiều quốc gia, chi nhánh của
TNCs đóng vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm cho người lao
động. Tại Singapore, số người làm việc trong các chi nhánh nước ngoài
chiếm trên 1/2 tổng số lao động trong ngành sản xuất; tại Ấn Độ, chỉ riêng
ngành công nghiệp phần mềm của TNCs đã giải quyết 5 triệu chỗ làm việc;
tại Trung Quốc, chi nhánh của TNCs đã thuê 23,5 triệu lao động, chiếm
10% lực lượng lao động nước này.

Thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo: Phục vụ mục
tiêu lợi nhuận, TNCs thường quan tâm đến trình độ lao động. Trong khâu
tuyển dụng lao động, nhà tuyển dụng luôn khắt khe lựa chọn những đối tác có
trình độ chuyên môn, sẵn sàng làm việc trong môi trường cạng tranh cao. Để
hỗ trợ công tác lựa chọn nhân sự, TNCs cũng thường xuyên tổ chức hoạt động
trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu, đào tạo nghề trước và sau
khi tham gia thâm nhập thị trường quốc tế, hoặc cung cấp thiết bị phục vụ
công tác giảng dạy và nghiên cứu cho các trường Đại học, Viện nghiên cứu.
Theo thống kê, TNCs của Anh, Mỹ, Thuỵ Sỹ.. thường giúp đào tạo các nhà
quản lý chuyên nghiệp trong các hoạt động kinh doanh quốc tế. Chẳng hạn,
22


Nestle và Alcan đã xây dựng các trung tâm đào tạo quản lý lớn như IMEDE
và IMI ở châu Âu. Các trung tâm đào tạo của TNCs còn phát triển hình thức
đào tạo từ xa trên tất cả các Châu lục như: Trung tâm đào tạo và quản lý
Henley đã có nhiều chương trình liên kết với các trung tâm đào tạo và quản lý
của châu Âu, khu vực châu Á – Thái Bình Dương… Đặc biệt, trong quá trình
TNCs tổ chức, hợp tác đào tạo để nâng cao trình độ cho lực lượng lao động,
họ luôn hướng tới khu vực và nước nhận đầu tư để phù hợp với điều kiện, thực
tế công việc, thế nên vai trò của TNCs rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển nguồn nhân lực nói chung và các nước tiếp nhận FDI nói riêng. Ví dụ:
15% - 20% nhân viên của Hewlett – Packart (HP) tại Ấn Độ thường xuyên
được cử sang Mỹ và các nước khác để tiếp thu kỹ năng mới và phương pháp
làm việc hiện đại; Viện Công nghệ thông tin Ấn Độ (Indian Instiute of
Information Technology) tại Hyderbad hay Trung tâm phát triển kỹ năng Pê
Năng (Penang Skill Development Center) tại Malaixia là những đối tác quan
trọng trong hoạt động đào tạo của TNCs trong lĩnh vực công nghệ cao như
điện tử, thông tin…
Không chỉ đào tạo lực lượng lao động trực tiếp làm việc trong các chi

nhánh của mình, TNCs còn hỗ trợ, đào tạo, nâng cao trình độ nguồn nhân lực,
bởi đó là nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm của nhà cung cấp, đặc biệt là
các nhà cung cấp tại các nước đang phát triển. Một số quốc gia, doanh nghiệp
địa phương thường phải đối mặt với nhiều hạn chế về tài chính, kỹ thuật,
phương pháp quản lý - tổ chức… trong đào tạo nguồn nhân lực. TNCs đã
đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhà cung cấp nội địa đánh giá
được chất lượng nguồn lực lao động, để đề xuất giải pháp sử dụng và hỗ trợ
đào tạo có hiệu quả. Tại Malaixia, đa số (10/11) chi nhánh của TNCs hoạt
động trong ngành điện tử đều có hoạt động đào tạo cho các nhà cung cấp địa
phương về: kiểm tra chất lượng sản phẩm, kỹ thuật quản lý và quy trình sản
xuất... Ở Nhật Bản, 68% TNCs có chi nhánh nước ngoài đã tổ chức chương
trình đào tạo và giáo dục tại Nhật Bản cho nhân viên địa phương.
Gián tiếp thúc đẩy động cơ học tập của lực lượng lao động: Nhìn chung,
23


các chi nhánh nước ngoài của TNCs thường trả lương cao hơn công ty trong
nước cùng quy mô hoạt động, nhất là những ngành đòi hỏi trình độ, kỹ năng
cao hoặc ngành sản xuất hướng về xuất khẩu với yêu cầu cao về chất lượng và
thời hạn giao hàng. Sự chênh lệch đó thể hiện đặc điểm đậm nét ở các nước
đang phát triển. Tại Ấn Độ, sự cạnh tranh giữa TNCs đối với nguồn lao động
có trình độ đã đẩy mức lương của lực lượng lao động này tăng lên với mức
tăng trung bình hàng năm là 30%. Với điều kiện làm việc thuận lợi, mức
lương hấp dẫn, cơ hội nâng cao trình độ và thăng tiến trong TNCs đã tạo ra
sức hấp dẫn đối với lực lượng lao động nói chung và lực lượng lao động có
trình độ nói riêng. Tuy nhiên, để có việc làm trong hệ thống TNCs không
phải dễ dàng, vì TNCs có những yêu cầu rất cao đối với nhân viên được
tuyển dụng. Hơn nữa, trong quá trình làm việc, người lao động rất có nguy
cơ bị sa thải nếu không đủ năng lực làm việc hoặc không đáp ứng được yêu
cầu mới của công việc. Do vậy, TNCs vô hình chung đã tạo ra sự cạnh

tranh cao trên thị trường lao động để có được công việc với mức lương hấp
dẫn và điều kiện làm việc tốt.
Vì thế, với nhu cầu sử dụng lao động chất lượng cao, TNCs đã thúc đẩy
người lao động không ngừng phấn đấu học tập, tự nâng cao trình độ tay nghề,
qua đó đã góp phần thúc đẩy và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc
cho TNCs nói riêng và lực lượng lao động xã hội nói chung.
1.2. THÂM NHẬP THỊ TRƢỜNG THẾ GIỚI - CHIẾN LƢỢC TOÀN CẦU HOÁ
CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA

1.2.1. Thâm nhập và hình thức thâm nhập thị trƣờng của các Công
ty xuyên quốc gia
1.2.1.1. Thâm nhập thị trường
Trong nhiều lý thuyết kinh tế nghiên cứu về thâm nhập thị trường, các
tác giả hầu hết chủ yếu đưa ra cách thức thâm nhập thị trường cụ thể, ít có tác
giả đưa ra khái niệm về sự thâm nhập thị trường. Theo Đại từ điển kinh tế thị
trường: Thâm nhập thị trường là một trong những sách lược sử dụng nguyên
tắc chia nhỏ thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu. Thâm nhập thị trường là
24


×