Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

================

TRỊNH VĂN SÚY

CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚCCỦA TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
================

TRỊNH VĂN SÚY

CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC CỦA TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

_________________________________________
Kinh tế chính trị XHCN

Chuyên ngành



Lời cam đo
Mã số:

5 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phan Thanh Phố

LỜI CAM ĐOAN

HÀ NỘI – 2004
Tôi xin cam đoan
đây là công trình nghiên cứu


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CPH

: Cổ phần hóa

CP

: Cổ phần

CTCP


: Công ty cổ phần

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CPH DNNN : Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
CTTNHH

: Công ty trách nhiệm hữu hạn

DN

: Doanh nghiệp

DNCP

: Doanh nghiệp cổ phần

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

HĐQT

: Hội đồng quản trị

KTTT

: Kinh tế thị trường

SXKD


: Sản xuất kinh doanh

TSCĐ

: Tài sản cố định

TSLĐ

: Tài sản lưu động

TTCK

: Thị trường chứng khoán

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu .......................................................................................................... 1

Chương 1: Lý luận và kinh nghiệm chung về cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước .......................................................................................... 5
1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan về cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước ....................................................................................... 5
1.2. Quan điểm của Đảng ta về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ...... 18
1.3. Một số kinh nghiệm chung về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
ở nước ta và một số địa phương .............................................................. 22
Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh
Thanh Hoá thời gian qua .......................................................... 29
2.1. Tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở tỉnh
Thanh Hóa ............................................................................................... 29
2.2. Đánh giá chung và những vấn đề bức xúc đặt ra ............................... 50
Chương 3: Phương hướng giải pháp cơ bản đẩy mạnh cổ phần hóa
và hậu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh
Thanh Hóa thời gian tới ........................................................... 54
3.1. Phương hướng .................................................................................. 54
3.2. Những giải pháp cơ bản, đẩy mạnh cổ phần hóa, hậu cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới ....... 59
Kết luận ....................................................................................................... 83
Danh mục tài liệu tham khảo ..................................................................... 85
Phụ lục ........................................................................................................ 88


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn một thập kỷ tổ chức triển khai thực hiện chủ trương cổ phần hóa
DNNN, một vấn đề kinh tế - xã hội nhạy cảm, thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, một vấn đề cho đến nay vẫn còn khá mới
mẻ, thực hiện chưa nhiều và tốc độ còn quá chậm đối với nước ta.
Ở Thanh Hóa, cấp Uỷ Đảng, Chính quyền bước đầu đã quán triệt các


Chỉ thị của Trung ương và của Chính phủ về cổ phần hóa DNNN và cho đến
nay qua triển khai thực hiện bước đầu đã thu được những kết quả nhất định.
Tính đến 31 tháng 12 năm 2003 đã cổ phần hóa được 60 DNNN, nhiều doanh
nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động sản xuất kinh doanh có tiến bộ. Song vẫn
còn một số hạn chế như: tiến độ CPH còn chậm, các mục tiêu chủ yếu của
CPH đạt còn thấp, việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH có chổ
chưa hợp lý, còn lúng túng trong việc xây dựng chiến lược sản phẩm và chiến
lược phát triển doanh nghiệp,v.v . Những hạn chế này cần có lời giải thoả
đáng trên cả 2 mặt lý luận và thực tiễn. Nghiên cứu đề tài: “Cổ phần hóa
DNNN của Thanh Hóa”, làm luận văn thạc kinh tế, chuyên ngành kinh tế
chính trị, mã số 5.02. 01 của tác giả là trên ý nghĩa đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cổ phần hoá DNNN, một vấn đề kinh tế – xã hội đã và đang thu hút sự
chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu khoa học và những bài viết xoay xung quanh vấn đề cổ phần
hóa DNNN. Chẳng hạn:
-“Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” của PGS – PTS
Hoàng Công Thi và PTS Phùng Thị Đoan , thông tin chuyên đề, Viện Khoa
học Tài chính, Bộ Tài chính, xuất bản năm 1992;
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cổ phần hóa khu vực kinh tế quốc

1


doanh”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số 91-98 – 017 của Uỷ Ban
Vật giá Nhà nước, Hà Nội 1992;
- “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn” của PTS Nguyễn Ngọc Quang;.
- “Góp ý kiến về chính sách đối với người lao động khi cổ phần hóa hóa

doanh nghiệp nhà nước” của PTS. Đặng Quang Điệu, kinh tế dự báo tháng
2/1998;
- “Phân vân khi mua cổ phần” của Nguyễn Hoàng, Thời báo kinh tế Việt
Nam, số 6, ngày 21/1/1998;
-“ Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần và vận dụng vào Việt Nam”Luận án tiến sĩ kinh tế của Đặng Thị Cẩm Thúy- năm 1999.
--“Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”- Luận án tiến sĩ kinh
tế của Nguyển Thị Thơm- năm 1999.
-“Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Nguyễn Minh Thông – Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tạp chí
cộng sản, số 16, tháng 6/2002…
Các công trình nói trên đã nghiên cứu và luận giải được những vấn đề cơ
bản, có tỉnh chuyên biệt về cổ phần hóa DNNN ở bình diện chung.
Ở Thanh Hóa, các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn của tỉnh
những năm qua cũng đã có những công trình nghiên cứu, nhằm vận dụng và
lý giải các vấn đề thực tiễn để thúc đẩy tiến độ cổ phần hóa DNNN của tỉnh.
Song chưa có công trình nào trình bày một cách hệ thống từ thực trạng đến
định hướng giải pháp của vấn đề cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa một cách
chuyên biệt. Vì vậy trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, luận văn tiếp tục phân
tích, luận giải nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực
tiễn đang đặt ra về cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa hiện nay.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Mục đích:
2


Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, kinh nghiệm ở một số tỉnh
khác ở nước ta về cổ phần hóa DNNN, từ đó đề xuất phương hướng và giải
pháp tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa
trong thời gian tới.
Nhiệm vụ:

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước.
- Đánh giá kết quả và thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở
Thanh Hóa; khảo sát một số doanh nghiệp đã cổ phần hóa để rút ra nguyên
nhân thành công, những hạn chế vướng mắc cần được giải quyết.
- Phân tích những quan điểm có tính nguyên tắc và đề xuất các giải pháp
cơ bản nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN của Thanh Hóa những
năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn lấy việc cổ phần hóa DNNN, một trong các biện pháp sắp
xếp, củng cố và đổi mới DNNN – làm đối tượng nghiên cứu.
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu các DNNN mà Nhà
nước không cần nắm 100% vốn của Thanh Hóa.
- Về thời gian: Nghiên cứu từ khi có chủ trương cổ phần hóa DNNN đến
nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm phương pháp luận chung. Đặc biệt chú trọng sử dụng các phương pháp
đặc trưng của kinh tế chính trị, phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra còn sử
dụng các phương pháp khác như: thống kê, định lượng, so sánh; phương pháp
mô hình, điều tra v.v…
6- Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ thêm tính tất yếu khách quan của cổ phần hóa, nhất là đối với
3


các DNNN của tỉnh Thanh Hóa.
- Thông qua phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ lý luận và phù
hợp với thực tiễn ở Thanh Hóa.
- Đề xuất những phương hướng có tính nguyên tắc và giải pháp tiếp tục

đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa trong thời gian tới.
Kết quả của luận văn có ý nghĩa:
- Góp thêm luận chứng khoa học cho việc hoàn thiện chủ trương cổ phần
hóa DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
6- Kết cấu luận văn
Luận văn ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung được chia thành 3 chương với 7 tiết.

4


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUNG
VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
1.1. KHÁI NIỆM VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Công ty cổ phần
Công ty cổ phần, một khái niệm xuất hiện khá lâu trong lịch sử và mang
tính phổ biến hiện nay. Do vậy, mặc dù, còn có một vài quan niệm hoặc khía
cạnh khác nhau nào đó về khái niệm CTCP, đó cũng là lẽ bình thường.
Theo tôi, có thể hiểu: CTCP là loại công ty đối vốn được hình thành trên
cơ sở liên hợp nhiều vốn cá biệt bằng cách phát hành và bán cổ phiếu; những
người góp vốn bằng cách mua cổ phiếu do công ty phát hành là những cổ
đông. Thực chất CTCP là một loại hình tổ chức doanh nghiệp trong đó các
thành viên cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và
chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp khi công ty thua lỗ .
Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên ở các nước Tây Âu. Đến nay CTCP
đã phát triển qua 3 giai đoạn và đang ở giai đoạn thứ tư.
Giai đoạn 1: Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, giai đoạn này

đã hình thành các công ty đầu tiên trong lĩnh vực lưu thông ở nước Anh, Hà
Lan và một số nước Tây Âu khác.
Giai đoạn 2: Từ cuối thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX giai đoạn này
các CTCP đã phát triển mạnh mẽ sang cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp.
Giai đoạn 3: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, giai đoạn này
CTCP tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sâu rộng: đến những thập niên cuối của
thế kỷ XX: 21% dân cư Thụy Điển có cổ phần; gần 40 triệu người nước Mỹ,
trong đó có khoảng 12 triệu người lao động làm thuê có cổ phần… đến cuối
5


thập niên 80 của thế kỷ XX nước Mỹ có khoảng 10.000 CTCP, trong đó công
nhân có từ 1 – 10% tư bản cổ phần [6, 83, 84].
Cùng với sự phát triển của CTCP qua các giai đoạn cho thấy sự ra đời
và phát triển của CTCP không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của trình độ
phát triển xã hội hoá sản xuất, là kết quả của quá trình giải quyết mâu thuẫn
giữa nhu cầu tập trung vốn với quy mô lớn trong một thời gian ngắn để đáp
ứng nhu cầu phát triển sản xuất với sự hạn chế của tích tụ vốn trong từng xí
nghiệp riêng lẻ.
Trong lịch sử cho đến nay, có 3 con đường chính để hình thành CTCP:
Thứ nhất: Phát triển theo con đường truyền thống bằng sự liên kết các
tư bản riêng lẻ, các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và sự liên kết giữa các
công ty tư nhân do nhu cầu tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó
hình thành nên các công ty cổ phần.
Thứ hai: Do sự liên doanh, liên kết giữa tư bản trong và ngoài nước.
Chẳng hạn, CTCP liên quốc gia giữa nước Anh và nước Pháp trong việc xây
dựng đường sắt (1860 – 1880) hoặc việc sản xuất máy bay Boing của Mỹ đã
phải huy động tới 65 công ty của trên 30 nước, đặc biệt với xu thế toàn cầu
hóa nền kinh tế hiện nay sự liên kết tư bản quốc tế đã không còn dừng lại ở

phạm vi tư bản tư nhân và các tổ chức độc quyền với nhau mà còn có sự tham
gia của các Chính phủ, giữa các nước với nhau. Theo số liệu thống kê của
UNCTAD đến nay, trên thế giới có khoảng 60 nghìn CTCP tồn tại dưới hình
thức Tập đoàn kinh tế. Trong lĩnh vực công nghiệp trên thế giới có khoảng
2000 công ty độc quyền thu hút khoảng 33 triệu lao động làm thuê, kiểm soát
khoảng 40% sản lượng công nghiệp thế giới; 60% ngoại thương và khoảng 80
- 85% kỹ thuật mới của thế giới.
Thứ ba: Do cổ phần hóa doanh nghiệp hoặc một phần doanh nghiệp nhà
nước. Vào nửa đầu thế kỷ XX, cùng với các thành tựu mới của khoa học kỹ

6


thuật và sự xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất mới đã xuất hiện những
doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là đầu tầu, là công cụ điều tiết kinh tế của
các nhà nước xong sau một thời gian tồn tại và hoạt động, các doanh nghiệp
nhà nước nhìn chung làm ăn kém hiệu quả.
Chẳng hạn, ở Italia là nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước trong nền kinh
tế cao nhất thì thâm hụt của DNNN là 4,5% GDP; Bồ Đào Nha khu vực kinh
tế quốc doanh thua lỗ là 1/3 GDP trong suốt thời gian từ 1974 - 1986 [28] các
nước tư bản khác đều có hiện tượng tương tự. Vì vậy từ những năm 80 của
thế kỷ XX lại đây ở khắp các nước trên thế giới đã diễn ra quá trình tư nhân
hóa và cổ phần hóa các DNNN. Đến nay đã có hơn 80 nước đang phát triển
thuộc mọi hệ tư tưởng chính trị khác nhau đã tiến hành cổ phần hóa rất tích
cực. Có thể nói cổ phần hóa là một trong những nội dung chủ yếu của công
cuộc cải cách DNNN nói riêng và cải cách kinh tế nói chung ở các nước đang
phát triển. Trong năm 1997 Đài Loan đã tiến hành cổ phần hóa một số DNNN
trong các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Malayxia nhà nước đã nhượng
nhiều cổ phần chủ yếu trong 29 doanh nghiệp tại thị trường Kulalumpua và
năm 1990 nhà nước đã mở cửa cho tư nhân hóa tham gia đến 30% cổ phần

trong ngân hàng quốc gia.
Đối với nước ta, những năm qua trong từng bước đẩy mạnh hình thành
CTCP theo cả 3 con đường trên, trong đó cổ phần hóa DNNN đã và đang
được Đảng, nhà nước quan tâm chỉ đạo, cổ phần hóa được coi là trung tâm
của quá trình cải cách và cấu trúc lại DNNN.
Như vậy, tuy có nhiều con đường hình thành CTCP, song thực chất của
CTCP là sự chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể của các cổ đông, đó
là sự phát triển tất yếu. Đúng như Các Mác đã khẳng định: “Sự xuất hiện
CTCP là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất và là bước quá độ từ
sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông”. [ 22 ]

7


Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước
DNNN là hình thức doanh nghiệp do nhà nước lập ra đầu tư vốn và quản
lý vốn với tư cách sở hữu đồng thời là pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp
luật và bình đẳng trước pháp luật. Hoạt động theo định hướng của nhà nước
để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao.
Theo NĐ 388, ngày 20 tháng 11 năm 1991 của HĐBT, nay là Chính phủ,
DNNN là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý
với tư cách chủ sở hữu.
Luật doanh nghiệp (sửa đổi) cũng đã khẳng định “DNNN là tổ chức kinh
tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà
nước giao”.
Như vậy, DNNN là doanh nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và
quản lý với tư cách chủ sở hữu, có 2 loại: các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh thu lợi nhuận và các doanh nghiệp hoạt động nhằm mục đích công ích,
thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước hoặc phục vụ Quốc phòng an

ninh.
Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Để có nhận thức đúng về khái niệm cổ phần hoá DNNN, cần có sự phân
biệt giữa 2 khái niệm tư nhân hóa và cổ phần hóa.
Trước hết về mặt phương pháp luận để nhận thức đúng các khái niệm nói
trên không được tách rời mà phải gắn liền với với đối tượng cần được giải
quyết là DNNN ở các nước trên thề giới trong đó, có nước ta. Từ phương
pháp luận đó, có thể hiểu:
Tư nhân hóa là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân,
đồng thời chuyển hóa lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ độc quyền của nhà
nước cho tư nhân và do tư nhân đảm nhiệm.

8


Cổ phần hóa DNNN về thực chất là là phương thức thực hiện xã hội hóa
sở hữu về vốn theo hướng chuyến sở hữu nhà nước trong DNNN thành công
ty cổ phần của nhiều chủ sở hữu để tạo vốn thông qua phát hành và mua bán
cổ phiếu nhằm tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị
trường, có sức cạnh tranh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả đáp ứng được yêu
cầu phát triển doanh nghiệp bền vững phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
Cổ phần hóa và tư nhân hóa có liên quan đến hình thức sở hữu nhà nước
về vốn trước và sau CPH hay tư nhân hóa. Song cổ phần hóa và tư nhân hóa
là hai khái niệm có sự khác nhau nhất định:
- Về pháp lý: Cổ phần hóa DNNN là chuyển doanh nghiệp sở hữu vốn
từ một chủ là nhà nước sang sở hữu vốn của nhiều chủ là các cổ đông. Còn tư
nhân hóa là chuyển doanh nghiệp sở hữu vốn một chủ là nhà nước sang doanh
nghiệp một chủ sở hữu là tư nhân. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đã
chứng minh rằng: Nếu doanh nghiệp chỉ thuộc quyền sở hữu một chủ thì phát

sinh hiện tượng độc quyền, lũng đoạn (đối với sở hữu tư nhân) hoặc độc
quyền, cửa quyền, tiêu cực, kém hiệu quả (đối với sở hữu nhà nước).
- Về cơ chế quản lý: Cơ chế quản lý một chủ (tư nhân) thường kéo theo
sự độc đoán, chủ quan, tuỳ tiện, những khuyết tật đó vừa không phù hợp với
cơ chế thị trường vừa trái với định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà
nước ta. Trái lại, cơ chế quản lý của CTCP do Hội đồng Quản trị chịu trách
nhiệm, giám đốc chỉ là người thừa lệnh thay mặt Hội đồng Quản trị để điều
hành sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần theo các chiến lược và chương
trình của Hội đồng quản trị nên vừa phù hợp với cơ chế thị trường vừa đảm
bảo phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước.
- Về tài chính: Doanh nghiệp tư nhân luôn hạn chế về việc huy động
vốn, sử dụng vốn không hiệu quả và quản lý thiếu chặt chẽ, còn việc quản lý

9


tài chính của CTCP do bản chất của nó, nên việc quản lý tài chính có điều
kiện diễn ra chặt chẽ và hiệu quả hơn. Hơn thế trong cổ phần hóa DNNN, Nhà
nước có thể là cổ đông có thị phần vốn khống chế, hoặc cũng có thể không
còn là cổ đông , song dù trong trường hợp nào, các công ty cổ phần sau cổ
phần hóa DNNN vẫn không thể trở thành doanh nghiệp tư nhân. Vì trong quá
trình cổ phần hóa, tài sản của DNNN được bán cho nhiều đối tượng cổ đông
khác nhau, nên thuộc sở hữu của nhiều chủ khác nhau và nguồn vốn góp
không do từng cá nhân sử dụng mà được sử dụng mang tính chất chung của
CTCP.
Như vậy, hình thức sở hữu tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa chính là
sự chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu tập thể của các cổ đông.
Còn tư nhân hóa thì DNNN sau tư nhân hóa sẽ tạo ra chủ sở hữu mới là tư
nhân và DNNN thành doanh nghiệp tư nhân và cổ phần hoá và tư nhân hóa
chỉ là một khi cổ phần hóa DNNN được thực hiện bằng hình thức bán toàn

bộ số cổ phần của doanh nghiệp cho một cá nhân. Đó chính là sự khác nhau
căn bản giữa cổ phần hóa và tư nhân hóa. Sự khác nhau này có ý nghĩa chính
trị - xã hội to lớn vì một DNNN trở thành một CTCP hoặc một doanh nghiệp
tập thể sẽ làm cho sức mạnh và khả năng phát triển của nó lớn hơn nhiều so
với doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, tính xã hội và tính nhân văn trong hoạt
động và kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần cũng cao hơn
nhiều so với doanh nghiệp tư nhân.Từ sự thay đổi sở hữu sẽ dẫn đến sự thay
đổi về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương thức hoạt động của doanh
nghiệp. DNNN sau khi tư nhân hóa sẽ trở thành doanh nghiệp tư nhân và hoạt
động theo một doanh nghiệp tư nhân, còn DNNN sau cổ phần hóa sẽ trở
thành CTCP có điều lệ và có thể thức hoạt động theo cơ chế của công ty cổ
phần.
Sau cổ phần hóa DNNN, các công ty cổ phần sẽ có các dạng cơ bản sau.

10


+ Công ty cổ phần mà nhà nước là cổ đông có thị phần vốn chi phối,
hay thị phần vốn đặc biệt. Ở đây nhà nước là một cổ đông có ưu thế và chi
phối được công ty và các cổ đông khác. (Thường vốn của nhà nước ở các
doanh nghiệp này là 51% tổng số vốn của doanh nghiệp hoặc cổ phần của nhà
nước ít nhất gấp hai lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong CTCP).
+ Công ty cổ phần mà nhà nước là cổ đông có thị phần vốn thông
thường, nghĩa là nhà nước chỉ chiếm một lượng vốn nào đó để hưởng lợi tức
không có giá trị chi phối, đặc biệt.
+ Công ty cổ phần mà nhà nước không có thị phần vốn, ở đây về hình
thức sở hữu đã biến đổi từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tập thể của các cổ
đông
- Căn cứ tính chất sở hữu về vốn của cổ đông, có các dạng công ty cổ
phần như:

+ Công ty cổ phần tư bản tư nhân. Loại công ty này dựa trên hình thức
sở hữu tư nhân TBCN về vốn và dựa trên lao động làm thuê.
+ Công ty cổ phần hợp tác xã (HTX) được hình thành từ việc bán DNNN
cho tập thể người lao động của doanh nghiệp, cổ đông đồng thời cũng là
người lao động trực tiếp nên thu nhập của họ gồm hai phần: phần hưởng theo
công lao động (tiền lương) và phần lãi cổ phần (gọi là cổ tức). Loại công ty cổ
phần này người lao động đã là chủ thực sự tránh được “tình trạng tài sản của
nhà nước không có người làm chủ trực tiếp” [4 ] , có tác dụng ngăn chặn từ
gốc tệ tham nhũng, thiếu trách nhiệm làm thất thoát tài sản công như trước
đây của một số DNNN. Dạng công ty cổ phần này cần có sự quan tâm hỗ trợ
của nhà nước về cơ chế, chính sách.
+ Công ty tư bản - nhà nước, là sự hợp doanh hoặc liên doanh liên kết
giữa nhà nước với các nhà tư bản trong hoặc ngoài nước. Công ty này có vai
trò, tác dụng to lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và ở nước ta

11


nói riêng, vì một mặt nhà nước vẫn giữ được sự kiểm soát công ty, mặt khác
lại tranh thủ được nguồn ngoại lực góp phần thúc đẩy CNH, HĐH đất nước
và tăng trưởng kinh tế.

12


1.1.2. Thiên hướng hình thành DNNN và tính tất yếu khách quan cổ
phần hoá DNNN
1.1.2.1- Thiên hướng hình thành DNNN
Trong lịch sử phát triển thế giới đã tồn tại hai thiên hướng khác nhau đối
với sự hình thành và tồn tại các DNNN.

- Thiên hướng thứ nhất là xây dựng nền kinh tế chủ yếu dựa vào các
DNNN mà nguyên nhân do quá đề cao vai trò nhà nước trong quản lý kinh tế
quốc dân, nhiều nước đã cường điệu khả năng và sức mạnh của kinh tế nhà
nước trong phát triển kinh tế nên đã phát triển quá mức quy mô và tốc độ xây
dựng DNNN. Thiên hướng này, một thời các DNNN đã góp phần không nhỏ
đối với việc đáp ứng được các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu cho nhân dân,
làm tròn được nhiệm vụ đặc biệt đối với quốc phòng - an ninh. Song DNNN ở
các nước này đều có một căn bệnh chung là: hiệu quả lợi ích kinh tế thấp
nhiều so với các công ty tư nhân. Theo điều tra của ngân hàng thế giới vào
những năm 80 của thế kỷ XX. Trong 244 DNNN của Tây Ban Nha thì gần
200 doanh nghiệp bị thua lỗ, hầu hết các DNNN của Bồ Đào Nha đều thu
không đủ chi, trong đó có nhiều doanh nghiệp bên bờ vực phá sản.
Để duy trì DNNN, các chính phủ đều phải bù lỗ từ ngân sách nhà nước.
Đó là nguyên nhân chính dẫn đến thâm thủng ngân sách ở các nước đi theo
thiên hướng này.
- Thiên hướng thứ hai, một số nước lại quá tin tưởng vào sự điều tiết của
“bàn tay vô hình” sự tự điều tiết của thị trường, xem nhẹ vai trò của Nhà nước
và kinh tế nhà nước, từ đó muốn tư nhân hoá hoàn toàn DNNN. Thiên hướng
này, dựa trên cơ sở lợi dụng những mặt tích cực, có khả năng tự điều chỉnh
của cung cầu, điều phối các yếu tố sản xuất, kích thích tiến bộ kỹ thuật thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển cả chiều rộng
và chiều sâu tạo điều kiện cho các nền kinh tế có thể tăng tốc nhanh và cất

13


cánh. Nhưng thiên hướng này không thấy rằng kinh tế thị trường cũng mang
trong mình nó những khuyết tật như: tính tự phát, bất ổn định, chạy theo lợi
nhuận thuần tuý, là nguyên nhân của những tiêu cực như: làm hàng giả, lừa
dối, trốn thuế, và các hiện tượng kinh tế khác. Cũng vì lợi nhuận các doanh

nghiệp đã lao vào cạnh tranh để săn tìm lợi nhuận cao nên ít quan tâm tới
những ngành nghề không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp gây ra sự mất cân
đối khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo quá đáng v.v…
Lý luận và thực tiễn cho thấy Nhà nước nào hoàn toàn đi theo lý thuyết
“Bàn tay vô hình”, đặt sự phát triển của nền kinh tế thuần tuý trên cơ sở kinh
tế thị trường và khu vực kinh tế tư nhân, xem nhẹ vai trò quản lý kinh tế của
nhà nước và kinh tế nhà nước, sẽ làm cho nền kinh tế không thể tăng trưởng
và phát triển bền vững, sớm muộn sẽ rơi vào khủng hoảng dẫn đến mất ổn
định chính trị, xã hội. Ngược lại, nếu chỉ dựa hoàn toàn vào khu vực kinh tế
nhà nước và vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, xem nhẹ thị trường và khu
vực kinh tế tư nhân, sẽ làm mất đi động lực, nền kinh tế không sống động,
kìm hãm tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Sau những thành công và thất bại, cho đến nay hầu hết ở các nước
nghiêng về xu hướng xây dựng mô hình kinh tế hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà
nước, kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường và các công cụ điều tiết của nhà nước
như: kế hoạch, pháp luật, các đòn bẩy kinh tế… đều được coi trọng.
Để khắc phục những hạn chế cố hữu, kinh doanh kém hiệu quả của các
DNNN, xu hướng chung của các nước là thực hiện tư nhân hóa các DNNN
trong đó có CPH.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp quốc doanh trước đây (nay là DNNN, một bộ
của kinh tế nhà nước) ra đời và phát triển trong bối cảnh các nước XHCN
trước đây đã thực thi mô hình kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy dựa trên nền tảng
công hữu XHCN về tư liệu sản xuất vận động theo cơ chế bao cấp, nên khi
chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN nhiều DNNN khó thích

14


nghi, đã bộc lộ những hạn chế và bất cập. Có nhiều nguyên nhân song nguyên
nhân cơ bản là do trong nhận thức có sự ngộ nhận cho rằng xây dựng DNNN

càng nhiều, thì càng nhanh đến mục tiêu của CNXH. Do chạy theo số lượng,
nhiều DNNN ra đời khi chưa hội đủ các điều kiện cần thiết, hình thành
DNNN một cách ồ ạt, dẫn đến những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX,
số lượng DNNN phát triển quá nhiều. Theo đánh giá của nhiều tài liệu khác
nhau, năm 1991 trên phạm vi cả nước số DNNN sản xuất kinh doanh có lãi
chỉ chiếm khoảng 20 - 25%, số xí nghiệp thua lỗ cần giải thể khoảng 30 –
35%, số còn lại đang gặp nhiều khó khăn về tài chính và thị trường. Tình
trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau trở thành phổ biến, nợ và khả năng mất vốn
của các DNNN ngày càng tăng.
Sau nhiều năm đổi mới, tổ chức, sắp xếp lại, theo thống kê cho đến nay
nước ta còn khoảng 5000 DNNN, đang nắm giữ những ngành nghề, những
lĩnh vực then chốt là xương sống của nền kinh tế. Một số doanh nghiệp đã chú
trọng đổi mới thiết bị, tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng
cao được chất lượng và hiệu quả tăng thu nhập cho người lao động, đã thực
hiện được một số nhiệm vụ kinh tế xã hội cơ bản, đóng góp một phần quan
trọng vào ngân sách nhà nước, góp phần không nhỏ vào việc khắc phục sự
mất cân đối, giảm bớt sự lệ thuộc với bên ngoài, giải quyết được khoảng 1,8
triệu lao động. Tuy vậy, việc củng cố, sắp xếp, đổi mới DNNN chưa tương
xứng với yêu cầu đặt ra. Nhìn chung hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiều
DNNN chưa cao, không ít DNNN còn yếu kém bất cập, sản xuất kinh doanh
thua lỗ.
Để DNNN có thể đứng vững trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, phải tiếp tục tổ chức sắp xếp lại DNNN với nhiều hình
thức trong đó có chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN.
1.1.2.2. Cổ phần hóa DNNN là một tất yếu khách quan
Một là: CPH DNNN đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù

15



hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ở nước ta, CPH DNNN thực chất là thực hiện xã hội hoá sở hữu về vốn
nhằm tạo ra các hình thức sở hữu phù hợp với đặc điểm nền kinh tế tồn tại
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nói cách khác, CPH
DNNN là bắt nguồn từ yêu cầu hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, phát huy các nguồn lực trong và ngoài nước, không
ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN
Hai là: Cổ phần hoá DNNN là do yêu cầu nội tại của bản thân các
DNNN.
Muốn đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh trên thương trường
trong nước và thế giới phải xác định đúng chiến lược sản xuất kinh doanh,
chiến lược đầu tư, chiến lược sản phẩm của từng doanh nghiệp, phải đẩy
mạnh liên doanh, liên kết, chủ động tìm kiếm thị trường sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, không ngừng đổi mới trang thiết bị hiện đại, tạo ra bước đột phá
về chất lượng, giảm giá thành sản xuất, cải tiến mẫu mã đáp ứng ngày càng
cao thị hiếu người tiêu dùng. Muốn vậy, phải chuyển đổi DNNN thành
CTCP, chính cổ phần hoá DNNN nó sẽ tạo ra được bước đột phá đảm bảo cho
các DNNN có điều kiện phát triển hơn so với trước ngày CPH DNNN.
Ba là: CPH DNNN đáp ứng yêu cầu của việc sử dụng vốn nhà nước phù
hợp hơn, hiệu quả hơn. Mục đích chung nhất của CPH DNNN là tối ưu hóa
việc bố trí vốn nhà nước trên thương trường sao cho: với một lượng vốn ít
nhất của ngân sách nhà nước nhưng lại tạo ra được vị thế tối đa cho sự hiện
diện của vốn nhà nước trong hệ thống các doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế để nhà nước tác động vào nền kinh tế có hiệu quả nhất. Điều đó chỉ có
thể đạt được thông qua CPH DNNN, vì CPH DNNN vừa đạt được mục đích
giải phóng vốn nhà nước ra khỏi một số ngành lĩnh vực mà nhà nước không

16



cần nắm giữ 100% vốn, vừa khắc phục được mâu thuẫn cố hữu giữa một bên
là vốn nhà nước còn hạn hẹp với một bên là yêu cầu đầu tư quá dàn trải ở mọi
ngành, mọi lĩnh vực. Đồng thời qua CPH đã loại được các DNNN lâu nay làm
ăn thua lỗ, không còn lý do tồn tại với tư cách DNNN, nhưng chưa được giải
quyết để kéo dài.
Bốn là: CPH DNNN là phương thức quan trọng để nhà nước phát huy tốt
nguồn nội lực, đồng thời thu hút và kiểm soát được nguồn ngoại lực một cách
có hiệu quả nhất, góp phần. Quan trọng vào việc hình thành và phát triển thị
trường chứng khoán rất cần thiết choa các doanh nghiệp ở nước ta. Vì muốn
cho doanh nghiệp phát triển thì cần phải có các yếu tố: thị trường, vốn, thiết
bị công nghệ và con người, trong đó vốn và con người là những thành tố quan
trọng nhất, hai yếu tố này là nội lực tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế và
trong nhân dân lao động, một thời kỳ dài nhưng chưa được khai thác. Thông
qua CPH DNNN sẽ giải quyết được vấn đề bức xúc đó, làm cho người lao
động trở thành người chủ sở hữu thực sự gắn với lợi ích mà họ được hưởng
bằng cổ tức theo cổ phần đã mua.
Doanh nghiệp CPH hình thành không chỉ thu hút nguồn vốn trong nuớc
mà còn có tác dụng thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của nước ngoài, một
trong những nhiệm vụ quan trọng của tất cả các nhà nước nhất là các nước
chậm và đang phát triển như nước ta. Muốn vậy, nhà nước một mặt thông qua
luật đầu tư và chính sách kinh tế đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa để tạo
được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác nhà nước phải có vốn
thông qua những hình thức hợp tác và liên doanh ,liên kết mà nhà nước là một
cổ đông chính, Từ đó tạo khả năng khai thác được lợi ích khi có sự đầu tư của
nước ngoài vào nước ta, tạo thế đứng về kinh tế để nhà nước thực hiện được
hai mặt trên.

17



Năm là: CPH DNNN, cùng với việc làm tăng vốn cho các doanh nghiệp
sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý, đổi mới công
nghệ từ đó làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời CPH cũng làm
cho DNNN có chủ thực sự, khắc phục được những yếu kém cố hữu trong quản
lý sản xuất kinh doanh , các tệ nạn tham ô, lãng phí, thiếu trách nhiệm, gây nên
những hậu quả nghiêm trọng trong các DNNN trước đây.
Có thể nói, CPH DNNN, một giải pháp có nhiều tính ưu việt. Điều này đã
được chứng minh không chỉ ở Việt Nam mà với cả các nước khác trên thế
giới. Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, CPH diễn ra đầu tiên ở nước Anh
và lan nhanh sang nhiều nước khác ở châu Âu, châu Mĩ La Tinh. Tuy mỗi
nước có phương thức tiến hành đặc thù song CPH đã thực sự mang lại sức
sống mới cho DNNN. Thực tế tại Việt Nam, qua kết quả hoạt động của 11
doanh nghiệp CPH trong thời kỳ thí điểm cho ta thấy rất rõ điều đó:
- Khả năng huy động vốn của 11 doanh nghiệp CPH đã tăng lên rõ rệt.
Trước khi CPH, tổng vốn của 11 doanh nghiệp là 26 tỷ đồng, khi chuyển
thành CTCP vốn điều lệ là 75,1 tỷ đồng. Hơn thế chỉ sau 3 năm đi vào hoạt
động các công ty này đã bổ sung vốn từ lợi nhuận sau thuế vào vốn điều lệ,
tính đến 31/12/1997 tổng vốn điều lệ của 11 doanh nghiệp đã lên tới 157 tỷ
đồng, tăng gấp 2,1 lần vốn điều lệ ban đầu.
- Về lao động và việc làm tăng lên rõ rệt. Sau CPH tổng số lao động ở 11
công ty là 4.263 người tăng 1.113 người so với trước khi CPH. Thu nhập của
người lao động cũng tăng từ 564.000đ/người/tháng lên 1.157.000đ/người/ tháng.
- Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 11 doanh nghiệp sau CPH
cũng tăng lên: doanh thu tăng 3,1 lần, lợi nhuận tăng 6,2 lần, nộp ngân sách
tăng 3,6 lần, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu trước là 27% nay tăng lên
52,5%, thu nhập cổ tức trên vốn góp bình quân 2 - 3%/ tháng. [5]

18



Thực tiễn những năm qua mặc dù tốc độ CPH còn chậm, một số doanh
nghiệp sau CPH vẫn còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế chính sách chưa đồng
bộ, đôi khi chồng chéo, hiểu biết của người lao động và các nhà quản lý về
CPH còn nhiều hạn chế. Song với những tính ưu việt của các CTCP sau CPH
từ DNNN đã chứng minh chủ trương CPH DNNN là rất đúng đắn của Đảng
và Nhà nước, một trong những con đường để DNNN giữ vững thế đứng và
phát triển bền vững trong kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hóa, khu
vực hóa.

19


1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ CPH DNNN

1.2.1. Quan điểm về mục tiêu, đối tƣợng và hình thức CPH DNNN
- Cổ phần DNNN là nhằm mục tiêu: “Huy động thêm vốn, tạo thêm động
lực thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả làm cho tài sản nhà nước ngày
càng tăng lên, không phải để tư nhân hóa” [5]. CPH những DNNN mà nhà
nước không cần nắm giữ 100% vốn là một nội dung, một mục tiêu quan trọng
trong tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh
tranh của DNNN. Đó là những tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình lãnh
đạo đổi mới sắp xếp doanh nghiệp nhà nước của Đảng ta hơn 12 năm qua.
Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX tháng 8/2001 đã nhấn mạnh thêm
về: “Mục tiêu CPH DNNN là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả
vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản
xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu
quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ
đông và tăng cường giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài

hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. CPH DNNN
không được biến thành tư nhân hóa DNNN”. [13]
- Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TƯ 3 khoá IX đã chỉ rõ: “Đối
tượng CPH là những DNNN hiện có mà nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn, không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, căn cứ vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết
định chuyển DNNN hiện có thành CTCP, trong đó nhà nước có cổ phần chi
phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc nhà nước không giữ cổ
phần”.
- Hình thức cổ phần bao gồm: Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát
hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; Bán một phần giá trị hiện có của doanh

20


nghiệp cho các cổ đông, trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt; CPH đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp
thành CTCP. Trường hợp CPH đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không
được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các
bộ phận còn lại của doanh nghiệp. [13]
1.2.2- Quan điểm về lộ trình và biện pháp giải quyết các vấn đề mới
nãy sinh trong tiến trình CPH DNNN
- Hội nghị Ban chấp hành TW 2 (Khóa VII), tháng 12/1991 Đảng ta đã
khẳng định: việc chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành
CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh mới, phải làm thí điểm chỉ đạo
chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.
- Sau thời kỳ thí điểm, Đảng ta đã khẳng định phải triển khai tích cực và
vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng
tăng, không phải để tư nhân hóa. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn

nhà nước, cần có nhiều DNNN nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi
thêm cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các
tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy
động được phải dùng để đầu tư sản xuất kinh doanh. Tư tưởng CPH DNNN
của Đảng ta luôn gắn chặt với việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ sở vật
chất của doanh nghiệp, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất và kinh
doanh, đồng thời đảm bảo tính định hướng của nhà nước trong một số lĩnh
vực quan trọng của đời sống kinh tế xã hội. “CPH DNNN phải gắn liền với
đổi mới cơ chế quản lý, để tạo động lực, phát huy mạnh hơn vai trò làm chủ
và tính năng động, sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh nghiệp,
đồng thời phải đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước trên cơ sở giữ vững số
cổ phần cần thiết chi phối của nhà nước tại doanh nghiệp". [5].

21


×