Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á : Luận văn ThS. Kinh tế: 60 31 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
………………………………….
ĐOÀN THỊ TRANG

XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NỮ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƢỜNG ĐÔNG BẮC Á
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 603101

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHAN HUY ĐƯỜNG

Hà Nội - 2009


MỤC LỤC
Mở Đầu ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: xuất khẩu lao động và kinh nghiệm xuất khẩu lao động nữ
của một số nƣớc ............................................................................................ 6
1.1. Xuất khẩu lao động và xuất khẩu lao động nữ ....................................... 6
1.1.1. Khái niệm chung về xuất khẩu lao động ............................................... 6
1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động. ...................... 17
1.1.3. Sự thúc ép nội tại trong mỗi quốc gia có khả năng XKLĐ .................. 20
1.2. Xuất khẩu lao động nữ. ....................................................................... 23
1.2.1. Nữ hoá lao động xuất khẩu - một xu hướng đang diễn ra phổ biến hiện
nay. ............................................................................................................ 23
1.2.2. Một số đặc điểm của lao động nữ và xuất khẩu lao động nữ ............... 25
1.2.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động XKLĐ nữ..................................... 28
1.3. Kinh nghiệm xuất khẩu lao động nữ ở một số nước trong khu vực. ..... 31
1.3.1. Xuất khẩu lao động nữ của một số nước trong khu vực. ..................... 31


1.3.2. Kinh nghiệm XKLĐ nữ đối với Việt Nam. ......................................... 38
Chƣơng 2: Thực trạng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị
trƣờng Đông Bắc á. .................................................................................... 41
2.1. Nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài ở khu vực Đông Bắc á và đổi
mới tư duy về XKLĐ của Việt Nam. ............................................................ 41
2.1.1. Nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài ở khu vực Đông Bắc á. ........... 41
2.1.2. Tư duy mới về chính sách và tổ chức quản lý trong xuất khẩu lao động
của Việt Nam. .............................................................................................. 45
2.2. Tình hình lao động nữ của Việt Nam sang làm việc tại thị trường Đông
Bắc á. ........................................................................................................... 50
2.2.1. Lao động nữ của Việt Nam làm việc tại Đài Loan. ............................. 50


2.2.2. Lao động nữ của Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc ............................. 57
2.2.3. Lao động nữ của Việt Nam làm việc tại Nhật Bản. ............................. 62
2.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang
thị trường Đông Bắc á trong thời gian qua.................................................... 66
2.3.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu lao động nữ của
Việt Nam sang thị trường Đông Bắc á và nguyên nhân. ............................... 66
2.3.2. Những vấn đề phát sinh trong quá trình XKLĐ nữ của Việt Nam sang
thị trường Đông Bắc á và nguyên nhân......................................................... 76
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp mở rộng xuất khẩu lao động nữ của
Việt Nam sang thị trƣờng Đông Bắc á ...................................................... 94
3.1. Định hướng mở rộng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị
trường Đông Bắc á. ...................................................................................... 94
3.1.1. Tiềm năng của thị trường Đông Bắc á. ............................................... 94
3.1.2. Định hướng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang Đông Bắc á
trong thời gian tới. ........................................................................................ 97
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động nữ của Việt
Nam sang thị trường Đông Bắc á trong thời gian tới. ................................... 98

3.2.1. Đối với các Cơ quan nhà nước. ........................................................... 98
3.2.2. Những giải pháp về phía các doanh nghiệp tham giai hoạt động xuất
khẩu lao động. ............................................................................................ 107
3.2.3. Đối với người lao động. .................................................................... 112
Kết luận..................................................................................................... 116
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................... 119


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
1.1
1.2

Tên bảng

Trang

Dân số Việt Nam giai đoạn 1995-2008.

20

Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong

21

độ tuổi ở khu vực thành thị.
1.3

Tỷ lệ lao động Philippines làm việc ở nước ngoài


29

giai đoạn 1998-2004, phân theo giới tính.
2.1

Quy mô và tỷ trọng lao động nữ của Việt Nam ở

52

thị trường lao động thuộc khu vực Đông Bắc á.
2.2

Số lượng nữ lao động xuất khẩu ngày càng tăng,

63

giải quyết việc làm cho nhiều lao động nữ.
2.3

Sự phân bố lao động nữ trên các thị trường của

64

khu vực Đông Bắc á.
2.4

Tỷ trọng lao động nữ xuất khẩu so với dân số nữ

66


trong độ tuổi lao động và so với dân số trong độ
tuổi lao động.
2.5

Cơ cấu ngành nghề và thu nhập của nữ lao động

73

xuất khẩu của Việt Nam ở Đông Bắc á.
2.6

Chi phí trước khi đi làm việc tại nước ngoài của

77

người lao động.
2.7

Mức thu tiền đặt cọc tối đa từ tháng 9 năm 2003.

77

2.8

Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ

80

văn hoá và chuyên môn kỹ thuật.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương của Đảng và
Nhà nước, được coi là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết
việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao
động, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. XKLĐ còn là biện pháp để tiếp
thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ
người lao động có chất lượng và tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế của
Việt Nam, tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào khu vực và quốc
tế.
Lao động nữ đóng vai trò quan trọng trong tất cả các ngành kinh tế quốc
dân. Theo tổ chức lao động quốc tế, hiện nay lao động nữ chiếm khoảng 50%
tổng số lao động trên thế giới và có xu hướng ngày càng gia tăng ở một số
nước có quy mô xuất khẩu lớn. Việt Nam mỗi năm có từ 1,2 đến 1,5 triệu
người đến tuổi lao động, trong đó tỷ lệ nữ chiếm khoảng 50%.
Đưa lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài không chỉ là một hướng đảm
bảo cho cuộc sống gia đình mà còn là sự khởi đầu của quá trình thay đổi tư
tưởng lạc hậu trọng nam, khinh nữ, góp phần giải phóng phụ nữ, củng cố địa
vị của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Lao động nữ có vai trò chủ đạo trong
một số ngành đặc thù, đồng thời thông qua quá trình làm việc ở nước ngoài
lao động nữ có nhiều đóng góp to lớn trong sự phát triển của đất nước.
Thực tế, khu vực Đông Bắc Á là một thị trường quan trọng đối với
LĐXK của Việt Nam, đặc biệt với lao động nữ, trong đó các nước nhập khẩu
lao động (NKLĐ) chính là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đầu những
năm 1990 đến nay, hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam sang khu vực này
chiếm tỷ trọng lớn và có tác động tích cực đối với người lao động cũng như

1



đối với sự phát triển chung của các ngành, địa phương ở Việt Nam. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam
sang khu vực Đông Bắc Á thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn,
có những diễn biến phức tạp và phát sinh các tiêu cực, rủi ro.
Xuất phát từ thực tế trên, việc chọn đề tài: "Xuất khẩu lao động nữ của
Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á " để nghiên cứu là có ý nghĩa về mặt
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều tác giả quan tâm và nghiên
cứu về đề tài XKLĐ. Có thể kể đến những nghiên cứu tiêu biểu như: Nguyễn
Đình Thiện (2000): Một số vấn đề về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay - Luận án tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Văn Tiến (2002): Đổi
mới cơ chế quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động - Thực trạng và giải pháp
- Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị; Nguyễn Phúc Khanh (2004): Xuất khẩu
lao động với chương trình quốc gia về việc làm - Thực trạng và giải pháp Luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế; Lưu Văn Hưng (2005), Xuất khẩu lao động
của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á - Thực trạng và giải pháp
- Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị; Trần Thị Thanh Trà (2006): Xuất khẩu
lao động của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á - Luận văn thạc sĩ kinh tế
đối ngoại; Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2006): Vấn đề bảo về quyền
lợi chính đáng của lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài - Thực
trạng và giải pháp - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ; Phan Huy Đường
(2009): Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam - Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp ĐHQG; Ngoài ra còn một số nghiên cứu điển hình được
đăng trên các tạp chí: Lưu Văn Hưng (2009): Một số vấn đề về phát triển thị
trường xuất khẩu lao động của Việt Nam giai đoạn hiện nay - Tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế - số 369; Bùi Sỹ Tuấn (2009): Hậu xuất khẩu lao động - vấn đề

2



cần được quan tâm - Tạp chí Lao động và xã hội - số 358; Nguyễn Lương
Trào (2009): Thực trạng hệ thống doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam
và định hướng đến năm 2020 - Tạp chí Lao động và xã hội - số 364...
Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận vấn đề XKLĐ của Việt Nam
ở nhiều góc độ khác nhau, tập trung vào việc phân tích đánh giá hoạt động
XKLĐ của Việt Nam nói chung, thực trạng và hướng phát triển XKLĐ của
Việt Nam sang các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á nói riêng. Tuy nhiên
chưa có công trình nào đề cập tới vấn đề xuất khẩu lao động nữ sang thị
trường Đông Bắc Á. Do đó, việc nghiên cứu về XKLĐ nói chung và hoạt
động XKLĐ nữ của Việt Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á là cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
 Làm rõ bản chất, đặc điểm của XKLĐ nói chung, XKLĐ nữ nói riêng
và phân tích các yếu tố tác động tới hoạt động XKLĐ nữ.
 Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động XKLĐ nữ của Việt Nam
sang thị trường khu vực Đông Bắc Á.
 Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động XKLĐ nữ của Việt
Nam sang thị trường khu vực Đông Bắc Á.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
 Đối tượng nghiên cứu: dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên
cứu XKLĐ nữ với tính chất là một hoạt động xuất khẩu hàng hóa sức lao
động - một loại hàng hóa đặc biệt và chỉ nghiên cứu hình thức XKLĐ trực
tiếp: đưa lao động nữ của Việt Nam đi làm việc tại các nước trong khu vực
Đông Bắc Á.

3



 Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứa hoạt động XKLĐ nữ trực
tiếp của Việt Nam sang các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan từ năm
1992 đến năm 2008.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống, luận văn sử dụng các
phương pháp tổng hợp, phân tích thông tin, so sánh, thống kê và các phương
pháp nghiên cứu hiện đại khác...
6. Những đóng góp mới của luận văn
 Hệ thống hoá cơ sở lý luận về XKLĐ và xuất khẩu lao động nữ,
nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm XKLĐ nữ ở một số nước và rút ra những
gợi ý cho Việt Nam.
 Phân tích thành tựu và chỉ ra nguyên nhân hạn chế của XKLĐ nữ Việt
Nam thị trường khu vực Đông Bắc Á trong thời gian qua.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng và thúc đẩy hoạt động XKLĐ
nữ của Việt Nam sang thị trường Đông Bắc Á trong thời gian tới.
Qua đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt là những người hoạt động trực tiếp
trong lĩnh vực XKLĐ, các nhà nghiên cứu và các độc giả quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Xuất khẩu lao động và kinh nghiệm xuất khẩu lao động
nữ của một số nƣớc.
Chƣơng 2: Thực trạng xuất khẩu lao động nữ của Việt Nam sang thị
trƣờng Đông Bắc Á.

4


Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp mở rộng xuất khẩu lao động nữ

của Việt Nam sang thị trƣờng Đông Bắc Á.

5


CHƢƠNG 1: XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ KINH NGHIỆM XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG NỮ CỦA MỘT SỐ NƢỚC
1.1. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NỮ

1.1.1. Khái niệm chung về xuất khẩu lao động
1.1.1.1. Xuất khẩu lao động và một số khái niệm liên quan
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế khách
quan của thời đại, là quá trình vận động theo hướng mở rộng các hoạt động
kinh tế trong phạm vi một quốc gia sang phạm vi khu vực hoặc toàn thế giới.
Trong bối cảnh đó, di cư lao động giữa các nước đã trở thành hiện tượng phổ
biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế, là một phần không thể tách rời
giữa các nền kinh tế.
Di cư lao động quốc tế là hiện tượng đã có từ xa xưa, đặc biệt phát triển
mạnh từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cho đến nay. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng di cư lao động quốc tế như: ảnh hưởng của môi trường
sống khắc nghiệt, kỳ thị chủng tộc, mâu thuẫn tôn giáo, đói nghèo... nhưng lý
do kinh tế vẫn là nguyên nhân chủ yếu.
Để nghiên cứu và làm rõ khái niệm XKLĐ, trước hết cần đề cập tới một
số khái niệm có liên quan sau:
 Thị trường lao động quốc tế: bao gồm tất cả các thị trường lao động
của các nước trên thế giới xét về mặt lãnh thổ cũng như cung - cầu lao động.
Trong thị trường lao động quốc tế cũng có thể phân mảng ra các thị trường
lao động khác nhau như: Thị trường lao động khu vực (thị trường lao động
khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ, ...), thị trường lao động theo Hiệp hội, Liên minh
(thị trường lao động Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), thị trường

lao động EU (Liên minh Châu Âu)…,
 Di dân quốc tế: là hiện tượng trong đó người lao động ở quốc gia này
sang một quốc gia khác có kèm theo việc thay đổi chỗ ở tạm thời hoặc vĩnh
viễn nhằm thực hiện các mục đích khác nhau ở nước ngoài.
6


 Lao động di cư: chỉ người lao động di chuyển từ nước này sang nước
khác để tìm việc làm, nằm trong phạm trù chung là di dân quốc tế.
 Thực ra trong di dân quốc tế còn bao hàm cả những vấn đề lớn hơn
khái niệm này để chỉ rõ những người hoặc dòng người di chuyển từ nước này
sang nước khác với nhiều lứa tuổi khác nhau, trong số đó có một bộ phận thuộc
lực lượng lao động.
 Xuất khẩu lao động: là hình thức di chuyển lao động từ thị trường lao
động nước này (hoặc vùng lãnh thổ này) sang một thị trường lao động nước
khác (hoặc vùng lãnh thổ khác), để cung cấp dịch vụ lao động cho nước nhập
khẩu và giải quyết công ăn việc làm cho lao động nước xuất khẩu.
Trên bình diện quốc tế, XKLĐ thường liên quan đến những khái niệm
như: Lao động nhập cư (dùng để chỉ những người lao động từ nước ngoài tới
một nước nào đó để làm việc), lao động xuất cư (dùng để chỉ những người lao
động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động) hay lao động xuất
khẩu (là khái niệm nói về bản thân người lao động hoặc một tập thể người lao
động, có những độ tuổi khác nhau, sức khoẻ và kỹ năng lao động khác nhau
được đưa đi làm việc ở ngoài nước theo các quy định pháp luật của nước đó).
Như vậy, XKLĐ xét theo ý niệm của dân số học thì đó cũng là một quá
trình di dân quốc tế.
Các dòng XKLĐ trên thị trường lao động quốc tế hiện nay gồm có:
 Luồng lao động từ các nước công nghiệp sang các nước đang phát
triển: chủ yếu là do các doanh nghiệp ở các nước công nghiệp cử chuyên gia
đến công tác tại các nhà máy họ đầu tư ở các nước đang phát triển, còn gọi là

sự chuyển giao trong nội bộ công ty. Những luồng lao động này đóng một vai
trò quan trọng đối với các nước đang phát triển.
 Luồng lao động có kỹ năng từ các nước đang phát triển di chuyển
sang các nước công nghiệp: Luồng lao động này hoạt động rất có hiệu quả

7


trong các ngành nghề như công nghệ thông tin, giáo dục, y tế, xây dựng, nông
nghiệp…
 Luồng lao động không có kỹ năng từ các nước đang phát triển sang
các nước công nghiệp: Luồng lao động này đem lại những khoản lợi nhuận
cao hơn cho các nước nhập khẩu lao động. Đồng thời, nó có vai trò quan
trọng trong giải quyết công ăn, việc làm và tạo thu nhập cho người lao động ở
các nước dư thừa lao động phổ thông, góp phần giảm thất nghiệp của nước
XKLĐ.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ, hoạt động
XKLĐ của Việt Nam trong thời gian qua có quá trình phát triển riêng. Với
chủ trương đổi mới được xác định từ Đại hội VI của Đảng, thị trường lao
động trong nước được hình thành và phát triển. Với tư duy mới - khẳng định
sức lao động là một loại hàng hoá được đánh giá là một bước ngoặt quan
trọng quyết định sự phát triển của thị trường lao động trong nước, mở ra một
khả năng phát triển trong công tác XKLĐ với quy mô, nội dung, hình thức tổ
chức, hiệu quả hoàn toàn khác với giai đoạn trước đó.
1.1.1.2. Đặc điểm của xuất khẩu lao động.
 XKLĐ là một hoạt động mang tính kinh tế - xã hội sâu sắc.
Ở nhiều nước trên thế giới, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lực
lượng lao động, thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người
lao động và các lợi ích khác. Những lợi ích này thúc đẩy các nước tăng cường

đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chiếm lĩnh thị phần ở thị trường
lao động ngoài nước. Việc chiếm lĩnh thị phần này lại dựa trên khả năng xúc
tiến quan hệ với nước ngoài, nguồn nhân lực trong nước và chịu sự điều tiết
của quy luật cung – cầu về lao động. Như vậy, việc quản lý Nhà nước, sự điều
chỉnh Pháp luật luôn luôn phải bám sát đặc điểm này của hoạt động đưa người

8


lao động đi làm việc ở nước ngoài để mục tiêu kinh tế phải là trọng tâm của
các chính sách pháp luật về hoạt động này.
Đưa người lao động ra nước ngoài làm việc là hoạt động gắn liền với
cuộc sống của người lao động. Do đó, mọi chính sách pháp luật về vấn đề này
phải kết hợp với các chính sách xã hội khác, phải đảm bảo cho người lao động
được hưởng đầy đủ những quyền lợi cũng như việc thực hiện những nghĩa vụ
đã cam kết trong hợp đồng lao động. Mặt khác, người lao động đi làm việc ở
nước ngoài là theo hợp đồng có thời hạn, do đó cần có chính sách tiếp nhận
và sử dụng sau khi họ trở về nước, giúp người lao động nhanh chóng hoà
nhập trở lại với đời sống xã hội trong nước.
 XKLĐ là hoạt động có sự kết hợp hài hoà giữa vai trò quản lý của
Nhà nước và sự chủ động, chịu trách nhiệm của tổ chức kinh tế đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài.
Đối với XKLĐ trong cơ chế thị trường, Nhà nước tiến hành đàm phán,
thỏa thuận với nước tiếp nhận về đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người
lao động; quy định những nội dung, điều kiện cơ bản của hợp đồng; quy định
những nghề, công việc không được làm và khu vực không được đến làm việc;
hướng dẫn quy trình, thủ tục đăng ký hợp đồng; giám sát kiểm tra việc thực
hiện hợp đồng và quản lý người lao động của doanh nghiệp. Như vậy, trên
thực tế, Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt
động hợp tác lao động, vừa trực tiếp quản lý người lao động đang làm việc ở

nước ngoài.
Trong khi đó, các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm hợp đồng ở các thị
trường đã có và một số thị trường mới, nỗ lực trong công tác tạo nguồn và
hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về việc tuyển chọn, quản lý người lao động, tự
chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động của mình. Ngoài ra, các
cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài còn tích cực hỗ trợ các doanh
nghiệp và người lao động trong việc can thiệp và giải quyết các tranh chấp
9


phát sinh. Tuy nhiên, sự can thiệp này không chỉ dựa vào cơ quan đại diện của
Nhà nước ở nước sở tại mà cần có vai trò chủ động, tích cực của doanh
nghiệp XKLĐ vì nhiều trường hợp quốc gia XKLĐ chưa lập cơ quan đại diện
ngoại giao ở nước sở tại đó. Như vậy, các Hiệp định, các thoả thuận song
phương chỉ có tính chất nguyên tắc, thể hiện vai trò và trách nhiệm của Nhà
nước trong việc định hướng, mở đường và quản lý ở tầm vĩ mô.
 Hoạt động XKLĐ diễn ra trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt.
Tính cạnh tranh gay gắt này xuất phát từ hai nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mang lại lợi ích
kinh tế lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm cho người
lao động. Điều đó buộc các nước này phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị
trường lao động ngoài nước. Nghĩa là họ phải đầu tư nhiều cho chương trình
xúc tiến tìm kiếm thị trường, tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Hai là, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đang diễn ra
trong một môi trường mà các nền kinh tế - xã hội có nhiều biến động cả ở
trong khu vực và trên thế giới. Nhiều nước trước đây nhận nhiều lao động
ngoài nước như Hàn Quốc, Nhật Bản… đang phải đối đầu với nạn thất nghiệp
ngày càng gia tăng. Nhu cầu tiếp nhận lao động của các nước ngày càng có

nguy cơ giảm xuống. Khi cung hơn cầu thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt là
điều hiển nhiên.
 Hoạt động XKLĐ có nhiều biến động lớn và rủi ro cao.
Hoạt động XKLĐ phụ thuộc nhiều vào nước có nhu cầu tiếp nhận lao
động. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có tầm nhìn xa trông rộng, phân tích đánh
giá, dự đoán tình hình thì mới có thể chủ động trước sự biến đổi của hoàn
cảnh, có chính sách ứng phó để vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả hoạt
động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
10


Mặt khác, để đưa một người lao động đi làm việc ở nước ngoài tốn rất
nhiều chi phí, nếu họ không đáp ứng được yêu cầu của đối tác nước ngoài thì
cả doanh nghiệp đưa đi và người lao động đều phải gánh chịu thiệt hại. Bên
cạnh đó, còn phải kể đến biến động ở nước tiếp nhận như: nhà máy bị phá
sản, chính trị bất ổn, chiến tranh buộc người lao động phải về nước trước thời
hạn, có người chưa nhận được lương, thậm chí có trường hợp nguy hiểm đến
tính mạng người lao động.
 Hoạt động XKLĐ phải đảm bảo được lợi ích của cả ba bên: Nhà nước
- người lao động - doanh nghiệp.
Trong hoạt động này, lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ
đánh vào thuế thu nhập của người lao động ở nước ngoài gửi về. Lợi ích của
tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là các khoản thu từ các
loại phí dịch vụ. Còn lợi ích của người lao động là có việc làm và thu nhập.
Xuất phát từ lợi ích, các doanh nghiệp rất dễ vi phạm quy định của Nhà nước
trong việc thu các loại phí dịch vụ hoặc buộc người đi XKLĐ phải đóng thêm
các khoản tiền ngoài quy định của pháp luật. Với người lao động, vì chạy theo
lợi ích với mong muốn nhanh chóng thu hồi những khoản chi phí đã bỏ ra để
được làm việc ở nước ngoài, nhiều người đã vi phạm hợp đồng như: bỏ trốn
ra ngoài làm việc bất hợp pháp, vi phạm pháp luật của nước sở tại… Do đó,

các chế độ, chính sách Pháp luật về XKLĐ khi ban hành phải được xem xét
trên mọi khía cạnh, phải được tính toán sao cho đảm bảo sự hài hoà lợi ích
của các bên, đặc biệt quan tâm tới lợi ích của người lao động.
 Hoạt động XKLĐ có sự di chuyển và giao thoa của các yếu tố truyền
thống, văn hoá, phong tục tập quán giữa các quốc gia, dân tộc.
Trước khi xuất cảnh, người lao động đều phải trải qua giai đoạn giáo dục
định hướng. Ở giai đoạn này, ngoài việc học nghề, người lao động còn được
trang bị những kiến thức về đất nước, con người cũng như văn hoá, phong tục
tập quán, ngôn ngữ của nước tiếp nhận, nó giúp họ nhanh chóng hoà nhập vào
11


cuộc sống mới với một nền văn hoá mới. Mặt khác, trong quá trình sinh sống
và làm việc, tiếp xúc sẽ tạo ra sự giao lưu văn hoá giữa người lao động với
người bản địa và giữa những người lao động đến từ các quốc gia khác nhau.
1.1.1.3. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động
Thông thường, xuất khẩu được hiểu là việc một hàng hoá hoặc dịch vụ
sản xuất tại một nước được bán và tiêu dùng ở nước khác [11 tr.351].
Theo đại từ điển kinh tế thị trường, “Xuất khẩu lao động là xuất khẩu vô
hình, hình thức cung cấp cho nước ngoài một số lượng lao động phục vụ nhất
định để đổi lấy thu nhập ngoại tệ, là một loại hình xuất khẩu phi hàng hoá”
[33tr.1020].
Trên thực tế, XKLĐ là loại hình xuất khẩu một loại hàng hoá đặc biệt hàng hoá sức lao động, là quá trình mua bán sức lao động giữa các đối tác
thuộc hai quốc gia khác nhau.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong
một con người và được người đó sử dụng vào quá trình sản xuất.
Cũng như mọi hàng hoá thông thường khác, hàng hoá sức lao động cũng
có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức
lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình
lao động để sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Giá trị của sức lao động là giá

trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức
lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê.
Tuy nhiên, là hàng hoá đặc biệt, hàng hoá sức lao động khác với hàng
hoá thông thường ở chỗ:
Thứ nhất, hàng hoá sức lao động gắn liền với chủ thể mang tên nó mà
không thể tách rời. Xét về cả số lượng và chất lượng, hàng hoá sức lao động
phụ thuộc hoàn toàn vào bản thân người mang loại hàng hoá này.

12


Thứ hai, đối với loại hàng hoá sức lao động dù có được đem ra thị
trường để trao đổi hoặc đã trao đổi hay chưa thì nó vẫn đòi hỏi phải được
cung cấp những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định để tồn tại và phát
triển. Nói cách khác, hàng hoá sức lao động bao hàm cả yếu tố tinh thần và
yếu tố lịch sử. Nhu cầu của công nhân không chỉ có những nhu cầu vật chất
mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần. Nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn
cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã
đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện
địa lý, khí hậu.
Là một loại hàng hoá nên sức lao động cũng được đưa ra trao đổi trên thị
trường - thị trường sức lao động hay còn gọi là thị trường lao động. Khi mua
và bán, giá trị của hàng hoá được thanh toán, còn giá trị sử dụng được trưng
tập, mặt hàng đó được chuyển thành sở hữu của người mua. Nhưng ở đây
người chủ sở hữu sức lao động và sức lao động không bị tách rời và không
thể tách rời. Việc mua bán này diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể
bên bán và bên mua trực tiếp tìm đến nhau hoặc thông qua bên thứ ba là các
môi giới trung gian theo các hợp đồng cung ứng lao động. Nếu người lao
động bán sức lao động, đi làm thuê cho người sử dụng ở nước ngoài thì việc
mua bán này diễn ra trên thị trường lao động quốc tế.

Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì thị trường lao động nói chung và
thị trường lao động quốc tế nói riêng cũng chịu sự chi phối của các quy luật
của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá trị hay quy luật cạnh
tranh…, việc mua bán hàng hoá sức lao động trên thị trường lao động được
thực hiện theo nguyên tắc thuận mua vừa bán.
Như vậy, XKLĐ thực chất là một loại hình xuất khẩu dịch vụ cung cấp
một loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức lao động. Nó chứa đựng đầy đủ tính
chất, yêu cầu của loại hàng hoá đặc biệt đó: hoạt động của con người, tổng
quan về các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào
13


chất lượng của lao động, trước hết là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay
nghề được đào tạo, mức độ giao tiếp về ngoại ngữ, văn hoá, phẩm chất cá nhân
như: tính cần cù, kỹ năng, tinh xảo, khéo léo… và khả năng hội nhập, giao lưu
với các nền văn hoá, tôn giáo khác. [13tr.13].
1.1.1.4. Các phương thức xuất khẩu lao động
Phương thức XKLĐ là cách thức thực hiện việc đưa người lao động và
chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do Nhà nước quy định.
Hoạt động XKLĐ thường được thực hiện thông qua những phương thức
cơ bản sau:
 Cung ứng lao động thông qua các doanh nghiệp, tổ chức trung gian
làm dịch vụ đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
Đây là trường hợp các tổ chức kinh tế Việt Nam được phép XKLĐ tuyển
dụng lao động Việt Nam để đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cung
ứng lao động. Tổ chức trung gian này có thể là doanh nghiệp hoặc trung tâm có
chức năng hoạt động trong lĩnh vực này. Để được cấp giấy phép hoạt động
trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp
phải đáp ứng được các điều kiện cần thiết như: điều kiện về trụ sở làm việc, cơ
sở đào tạo giáo dục định hướng, về vốn pháp định, về nguồn nhân lực... Hình

thức này tương đối phổ biến, đã được thực hiện rộng rãi trong những năm qua
và tiếp tục được thực hiện trong những năm tới.
Đặc điểm của hình thức này là: tổ chức kinh tế Việt Nam tổ chức tuyển
chọn lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc cho người sử dụng lao
động ở nước ngoài. Các yêu cầu về tiêu chuẩn lao động do phía nước ngoài
đặt ra. Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nhận lao
động. Quá trình làm việc ở nước ngoài, người lao động Việt Nam chịu sự
quản lý trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài; các điều kiện và
quyền lợi của người lao động do phía nước ngoài đảm bảo. Chính vì vậy, việc

14


thích ứng của người lao động Việt Nam với môi trường lao động nước ngoài
có những hạn chế nhất định.
 Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cho doanh nghiệp trúng thầu
hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài.
Đây là trường hợp doanh nghiệp tuyển lao động và chuyên gia Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng kinh tế với bên nước ngoài.
Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài
hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản phẩm hoặc các hình
thức đầu tư khác ở nước ngoài. Những năm vừa qua, hình thức này tuy chưa
phổ biến nhưng theo chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực, mở rộng và tăng cường kinh tế đối ngoại thì hình thức này sẽ ngày càng
phát triển.
Đặc điểm của hình thức này là: việc tuyển người lao động là để thực hiện
hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam; yêu cầu về tiêu chuẩn lao động, các
điều kiện lao động do doanh nghiệp Việt Nam đặt ra; doanh nghiệp Việt Nam
sử dụng lao động có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc uỷ quyền cho
doanh nghiệp cung ứng lao động. Doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động đi

làm việc ở nước ngoài, quản lý, sử dụng lao động ở nước ngoài đảm bảo các
quyền lợi cho người lao động làm việc ở nước ngoài. Do đặc điểm và hình
thức sử dụng lao động này nên quan hệ lao động tương đối ổn định. Việc giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động của người lao động khi làm
việc ở nước ngoài có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, do hợp đồng được thực hiện
ở nước ngoài nên ít nhiều có sự ảnh hưởng của pháp luật, phong tục tập quán
của nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp
Việt Nam quản lý sử dụng lao động và người lao động Việt Nam còn phải
tuân thủ các quy định của pháp luật nước ngoài.
 Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập,
nâng cao tay nghề.
15


Đây thực chất là hình thức đưa người lao động đi học nghề ở nước ngoài
dưới dạng tu nghiệp sinh, thực tập sinh hoặc đơn giản chỉ là học nghề để sau
đó làm việc cho doanh nghiệp. Nghĩa vụ làm việc sau khi học nghề của người
lao động có thể là làm việc tại chính doanh nghiệp nước ngoài đã dạy nghề
cho người lao động; hoặc làm việc cho doanh nghiệp Việt Nam đã cử người
lao động đi học nghề và bỏ chi phí cho người lao động trong suốt quá trình
học nghề (được gọi là công ty phái cử). Hình thức này phổ biến ở các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau một thời gian làm việc ở doanh nghiệp,
người lao động có thể được doanh nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài theo
hình thức thực tập, nâng cao tay nghề. Doanh nghiệp đảm bảo các thủ tục đưa
đi, điều kiện làm việc, sinh hoạt và các chế độ cho người lao động. Người lao
động cam kết thực hiện theo hợp đồng, chịu sự quản lý, điều hành của doanh
nghiệp. Hình thức này đang được khuyến khích nhằm giúp người lao động
nước ta nâng cao trình độ tay nghề, học hỏi được kinh nghiệm quản lý của
nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
 Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân giữa

người lao động và người sử dụng lao động ở nước ngoài.
Đây là hình thức lao động Việt Nam trực tiếp ký hợp đồng lao động với
người sử dụng lao động ở nước ngoài mà trước đó không cần phải ký hợp
đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với các tổ chức trung gian
làm dịch vụ.
Đặc điểm của hình thức này là người lao động và người sử dụng lao
động ở nước ngoài tự tìm hiểu, thoả thuận trực tiếp với nhau mà không cần
thông qua trung gian. Do đó, người lao động có thể không phải mất phí môi
giới, tiền dịch vụ. Hình thức xuất khẩu lao động này ở nước ta chưa phổ biến
vì muốn ký được hợp đồng với phía nước ngoài, người lao động phải có
những hiểu biết cần thiết về nhiều mặt như các thông tin về đối tác nước
ngoài, về ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp với người nước ngoài… Trong khi đó,
16


trình độ hiểu biết các vấn đề kinh tế, văn hoá và pháp luật của người lao động
Việt Nam còn những hạn chế nhất định.
1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu lao động.
Hoạt động XKLĐ chịu tác động bởi nhiều nhân tố, trong đó có thể kể tới
những nhân tố sau:
 Quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường lao động quốc tế.
Như đã đề cập tới ở những phần trên, XKLĐ về thực chất là xuất khẩu
loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức lao động. Khi sức lao động được đem ra
trao đổi giữa những người lao với người sử dụng lao động ở nước ngoài thì
hình thành nên thị trường lao động quốc tế. Việc mua bán hàng hoá sức lao
động trên thị trường lao động quốc tế này chịu tác động của quan hệ cung cầu về sức lao động. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và công nghệ nhưng
lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới tìm nơi có mức
thù lao cao hơn.
Những nước cần NKLĐ có hai loại: một là những nước dân số ít mà
giàu tài nguyên như các quốc gia ở Trung Đông. Ở các quốc gia này chủ yếu

thiếu lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia;
hai là những nước phát triển (Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật), kể cả những nước công
nghiệp mới (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia). Ở những nước này,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công
nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước ngoài (đầu tư trực tiếp) những
ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công
nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn
nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành
đang phát triển mạnh tại những nước này, nhiều công đoạn còn dùng lao động
giản đơn nên nhu cầu NKLĐ tăng. Ngoài ra, do sự già hoá dân số hay do lao
động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao

17


động không tốt, dễ gặp tai nạn, như ở các công trình xây dựng… mà nhu cầu
NKLĐ tăng ở các quốc gia này.
Về phía các nước XKLĐ, nói chung đây là những nước kém phát triển
hoặc phát triển với tốc độ chậm mà lại không ưu tiên đẩy mạnh các ngành
dùng nhiều lao động. Vì vậy, những nước này thực hiện việc cung cấp lao
động sang các nước phát triển có nhu cầu thuê mướn lao động để giảm sức ép
việc làm trong nước và để tăng nguồn thu ngoại tệ.
Như vậy, sự dịch chuyển về lao động này tuân theo quy luật nhất định quy luật cung - cầu: lao động nước nghèo sang nước giàu hơn, lao động ở các
nước có nguồn lao động trẻ dồi dào sang các nước mà lao động có xu hướng
già hoá và cần một đội ngũ thay thế, hoặc cũng có thể là lao động ở nơi “đất
chật” tìm đến chốn “người thưa”… Mục đích của sự dịch chuyển ấy là người
lao động, bằng sức lao động của mình, tạo dựng một cuộc sống đầy đủ hơn
cho bản thân và gia đình, nói rộng ra là cả xã hội. Quy luật cung - cầu về lao
động trên thị trường lao động quốc tế sẽ quyết định giá cả, cơ cấu, số lượng
cũng như cách thức cung ứng, tuyển dụng lao động của doanh nghiệp XKLĐ.

 Sự cạnh tranh.
Sự cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế rất đa dạng. Nó có thể là
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp XKLĐ, giữa các quốc gia XKLĐ thể
hiện ở chính sách của quốc gia đó đối với vấn đề XKLĐ, cơ chế quản lý lao
động ở nước ngoài, sự đa dạng về ngành nghề… Sự cạnh tranh đó cũng có thể
diễn ra giữa nước XKLĐ với nước NKLĐ, thể hiện ở chế độ pháp lý đối với
hoạt động nhập khẩu, yêu cầu của quốc gia NKLĐ đối với trình độ, kỹ năng
của LĐNK và khả năng đáp ứng các yêu cầu đó của quốc gia XKLĐ… Ngoài
ra, sự cạnh tranh đó còn diễn ra giữa lao động của các nước XKLĐ với nhau
và thậm chí là giữa LĐXK với lao động bản địa… Trong điều kiện đó thì chất
lượng nguồn lao động là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự thắng
thế trong cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Vì vậy, muốn mở rộng

18


thị trường lao động nước ngoài, không có cách nào hữu hiệu hơn là nâng cao
chất lượng nguồn lao động.
 Quan hệ chính trị - kinh tế giữa nước NKLĐ và nước XKLĐ.
Quan hệ này có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với hoạt động XKLĐ vì:
Thứ nhất, XKLĐ là hoạt động cụ thể thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại, nó
luôn có sự quản lý chặt chẽ của quốc gia xuất khẩu cũng như từ phía quốc gia
NKLĐ.
Thứ hai, cầu của thị trường nằm ở nước ngoài. Nếu quan hệ chính trị kinh tế giữa nước XKLĐ và nước NKLĐ càng tốt đẹp thì nước XKLĐ càng
có điều kiện tiếp cận thị trường lao động của nước bạn, từ đó làm tăng cơ hội
cho lao động trong nước, đồng thời nó cũng là cơ sở để phối hợp tốt trong
quản lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động ở nước ngoài. Ngày
nay, quan hệ chính trị - kinh tế giữa các nước nói chung và giữa nước XKLĐ
với nuớc NKLĐ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp và công việc nội bộ

của nhau, hợp tác cùng có lợi.
 Chính sách - pháp luật.
XKLĐ là một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc lĩnh vực kinh
tế đối ngoại, vì vậy, nó chịu sự tác động của không chỉ pháp luật quốc gia mà
còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại cũng như luật pháp quốc tế.
Người lao động đi xuất khẩu, trước hết họ là công dân của nước XKLĐ,
do đó hiển nhiên họ chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước đó. Pháp luật nước
XKLĐ sẽ đưa ra những quy định nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho người lao
động của mình được tham gia XKLĐ như điều kiện để có thể tham gia quan
hệ XKLĐ, quyền và nghĩa vụ của họ khi đi làm việc ở nước ngoài, những
chính sách hoặc chế tài mà họ có khả năng phải gánh chịu khi có hành vi vi
phạm…

19


Khi làm việc ở nước ngoài, người lao động trở thành lao động nhập cư
của nước đó và do vậy, ngoài pháp luật của nước mình, họ còn chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước sở tại thông qua những quy định về chính sách nhập
cư, cư trú, tiền lương, bảo hiểm…Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, bất cứ quốc gia nào cũng đều là
thành viên của một hay nhiều tổ chức nào đó, đặc biệt là những tổ chức quốc
tế có tính chất toàn cầu như WTO, ILO…và do vậy, hoạt động di cư lao động
quốc tế dưới hình thức XKLĐ không chỉ chịu sự tác động bởi chính sách,
pháp luật của nước XKLĐ và NKLĐ mà còn chịu sự tác động bởi những quy
định của các tổ chức quốc tế.
1.1.3. Sự thúc ép nội tại trong mỗi quốc gia có khả năng XKLĐ
Mỗi một quốc gia đều chứa đựng trong nó một chuỗi các mâu thuẫn của
nội tại phát triển kinh tế, và sự thúc ép nội tại trong mỗi quốc gia có khả năng
XKLĐ được luận giải theo chuỗi mâu thuẫn đó.

Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa một bên là làm thế nào để khắc phục sự
thâm hụt ngân sách quốc gia và một bên là mở hướng tìm nguồn thu nhập. Để
giải quyết được mâu thuẫn này thì lợi ích kinh tế của XKLĐ là một trong
những câu trả lời hữu hiệu nhất. Tuy rằng ở mỗi quốc gia khác nhau thì tỷ
trọng nguồn thu từ XKLĐ trong cơ cấu ngân sách Nhà nước là khác nhau.
Song, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì đối với nhiều quốc gia, XKLĐ
đã đem lại một nguồn thu đáng kể đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nói
chung và có một đóng góp nhất định vào ngân sách Nhà nước nói riêng.
Chính vì vậy, để tăng nguồn thu ngoại tệ, ở các nước có dân số đông, dư thừa
lao động, bên cạnh các nỗ lực khác thì hoạt động XKLĐ được xem là một
chiến lược quốc gia, phù hợp với từng thời kỳ nhất định.
Bên cạnh đó, sự thúc ép nội tại trong mỗi quốc gia có khả năng XKLĐ
còn xuất phát từ mâu thuẫn giữa sức ép về việc làm và khả năng tạo chỗ làm
việc mới. Một sự thực phổ biến hiện nay là tốc độ gia tăng chỗ làm việc mới
20


không thể đáp ứng kịp với sự gia tăng của lực lượng lao động hàng năm; trình
độ phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những máy móc hiện đại thay
thế lao động của con người, cùng với một lượng lao động không nhỏ bị thất
nghiệp do cơ sở của họ bị phá sản… Tất cả cho thấy dường như nhu cầu về
lao động ngày càng hẹp dần. Trong khi đó, chi phí để tạo ra một chỗ làm việc
mới là rất lớn, có khi phải đầu tư một vài nghìn USD, thậm chí có chỗ tới
hàng vạn USD - điều này đối với những nước nghèo thì không thể giải quyết
ngay được. Trong khi lao động lại dư thừa, do đó, các quốc gia này tất yếu
phải tính đến việc XKLĐ. Nói như vậy không có nghĩa là XKLĐ chỉ diễn ra ở
những nước nghèo, đông dân. Trên thực tế, các nước phát triển cũng đẩy
mạnh hoạt động này. Họ XKLĐ trình độ cao sang các nước kém phát triển
hơn và việc xuất khẩu này đã mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn.
Ở Việt Nam trong thời gian qua, sự phát triển dân số và lao động là một

trong những vấn đề kinh tế xã hội phức tạp và gay gắt, chẳng những trong giai
đoạn hiện nay mà còn trong những năm tới. Theo số liệu Tổng điều tra dân số
ngày 1/4/1989, dân số Việt Nam là 64.411.000 người, ngày 1/4/1999, dân số
đạt mức 76.327.900 người và theo tổng cục thống kê, đến năm 2005, Việt
Nam có khoảng 83.119.900 người, là nước đông dân thứ hai trong khu vực
Đông Nam Á và đứng hàng thứ 13 trong tổng số hơn 200 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới.
Bảng 1.1. Dân số Việt Nam giai đoạn 1995 - 2008
Đơn vị: ngàn người
Năm

Dân số

Tỷ lệ tăng

Năm

Dân số

Tỷ lệ tăng

trung bình

(%)

trung bình

(%)

1995


71995.5

1.65

2002

79727.4

1.32

1996

73156.7

1.61

2003

80902.4

1.47

1997

74306.9

1.57

2004


82031.7

1.40

21


×