Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

kỹ thuật nuôi trồng nấm Trân Châu Agrocybe aegerital

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.73 KB, 22 trang )

ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
MỞ ĐẦU
Ngày nay, nghề nuôi trồng nấm ở nước ta đã và đang phát triển mạnh mẽ và đang
tiến tới hình thành các cơ sở sản xuất với quy mô công nghiệp. Nghề trồng nấm không
những mang lại lợi nhuận cao mà còn góp phần giải quyết vấn đề môi trường do phế
phụ liệu ngành nông nghiệp tạo ra. Nguồn chất thải sau thu hoạch thường bao giờ cũng
khá lớn, nó chiếm từ 60- 80% so với sản phẩm thu được, nhất là ở cây trồng. Nguồn phế
liệu này có thành phần chủ yếu là chất xơ (cellulose), những nguồn này lại là thức ăn
chính cho nấm. Do đó, việc đốt bỏ hoặc tệ hại hơn là thải bỏ dưới dạng rác đều là lãng
phí. Một số trường hợp lên men hiếu khí hoặc kỵ khí để tạo ra sản phẩm cuối là chất
mùn bón lại cho đất, nhưng quá trình này thường cần thời gian dài và làm mất đi một
lượng lớn năng lượng dưới dạng nhiệt năng. Nghiêm trọng hơn là các khí thải, nước
thải, mầm bệnh… còn làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Từ những hạn chế trên, thì
việc tận dụng các phế liệu này làm cơ chất trồng nấm, là nhằm hợp lý hoá trong việc sử
dụng tối đa năng lượng mặt trời tích lũy ở các xác bã thực vật. Vừa đảm bảo được chu
trình tuần hoàn tự nhiên của vật chất, vừa tạo ra nhiều sản phẩm trung gian giá trị cao
(như: phân bón hữu cơ cao cấp). Và giải pháp này còn được gọi là giải pháp nông sinh
học nhằm biến đổi phế liệu nông lâm nghiệp thành sản phẩm chất lượng cao.
Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp, việc tận thu một cách tối đa các kết quả của
trồng trọt, tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau là vấn đề thời sự và cũng là xu hướng chung
của thế giới. Vì thế, việc kết hợp và làm phân bón để tận dụng các phế liệu nông nghiệp,
là một trong những giải pháp không thể thiếu được.
Tóm lại, trồng nấm được xem là một ngành không thể thiếu trong nông nghiệp.
Trồng nấm là một việc rất phù hợp với mọi người vì công nghệ không phức tạp, nguyên
liệu dễ kiếm. Trước hết cung cấp nguồn thực phẩm giàu nguồn dinh dưỡng phục vụ tiêu
dùng hằng ngày và đồng thời là nguồn dược liệu quý báu trong cuộc sống nếu trồng
nhiều có thể tạo nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình và xã hội. Phế thải sau khi thu
hoạch hết nấm thì chuyển sang làm phân bón.
Ngày nay ngoài bốn loại nấm phổ biến là nấm sò, linh chi, nấm rơm, mộc nhĩ thì
người tiêu dùng đang hướng tới những loại nấm cao cấp có giá trị dinh dưỡng và tính
dược liệu cao như nấm kim châm, nấm hương, nấm đúi gà, nấm Trân Châu… Trong đó


phải kể đến nấm Trân Châu là một loại nấm ăn có vị ngọt đậm đà, ngon và đặc biệt nấm
có mùi thơm hấp dẫn. Nó có hàm lượng dinh dưỡng cao, thành phần dinh dưỡng gồm
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
1
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
protein, chất béo, carbohydrat và nhiều loại khoáng chất khác như calci và phosphor.
Bên cạnh đó nấm Trân Châu cũng có dược tính cao, có khả năng kháng được nhiều loại
virus kháng khuẩn, đặc biệt khi ăn nấm thường xuyên có tác dụng điều hoà huyết áp.
Từ những thực tế trên tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu kỹ thuật nuôi trồng nấm Trân
Châu”.

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
2
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Phần I: KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ NUÔI TRỒNG NẤM
1.1. Sơ lược tình hình sản xuất nấm trên thế giới và trong nước
1.1.1.Tình hình sản xuất nấm trên thế giới [2],[6]
Hiện nay nghề trồng nấm đã phát triển rất mạnh trên thế giới, đặc biệt là ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Mỹ… Năm 1990 tổng sản lượng nấm ăn trên toàn Thế Giới là
3.763.000 tấn. Đến năm 1994 tổng sản lượng nấm trên Thế Giới lên tới 4.909.000
tấn.Trong đó nấm mỡ đạt 1.846.000 tấn (chiếm 37.6%), nấm hương đạt 826.200 tấn
(chiếm 16.8%), nấm rơm đạt 798.800 tấn (chiếm 6.1%), nấm mộc nhĩ trắng đạt 156.200
tấn (chiếm 3.2%), nấm kim vàng đạt 229.780 tấn (chiếm 4.7%), nấm chân cơ đạt 54.800
tấn (chiếm 1.1%), nấm trơn đạt 27.000 tấn (chiếm 0.6%), nấm hoa cây xám đạt 14.200
tấn (chiếm 0.3%), các loài nấm ăn khác đạt 238.000 tấn (chiếm 4.8%).
Các nước sản xuất chủ yếu trong năm 1994 là Trung Quốc đạt 2.850.000 tấn,
(trong vùng lãnh thổ Đài Loan đạt 71.800 tấn) chiếm 53.79% tổng sản lượng, Hoa Kỳ
đạt 393.400 tấn chiếm 7.61%, Nhật Bản đạt 360.100 tấn chiếm 7.34%, Pháp đạt 185.000
tấn, Hà Lan đạt 88.500 tấn, Italia đạt 71.000 tấn, Canada đạt 46.000 tấn, Anh đạt 28.500
tấn, Indonesia đạt 118.800 tấn, Hàn Quốc đạt 92.000 tấn.

Các nước tập trung nghiên cứu sản xuất chủ yếu là các loại nấm ăn như: nấm sò,
nấm hương, nấm mỡ và nấm dược liệu (chủ yếu là linh chi). Ở các nước Châu Âu và
khu vực Bắc Mỹ đều sản xuất theo phương pháp công nghiệp. Nhiều nhà máy sản xuất
nấm có công suất từ 200-1000 tấn/năm và được cơ giới hóa rất tốt từ khâu xử lý nguyên
liệu đến thu hái và chăm sóc bảo quản đều do máy móc đảm nhiệm. Năng suất trung
bình từ 40-60% so với mức đầu tư nguyên liệu đối với các nước châu Á, sản xuất nấm
theo mô hình trang trại đặc biệt là Trung Quốc nghề trồng nấm đã đi đến từng hộ nông
dân, sản lượng nấm hương, nấm mỡ lớn nhất thế giới.
Hiện tại Trung Quốc là nước sản xuất nấm nhiều nhất trên thế giới. Năm 1995 sản
lượng nấm của Trung Quốc là 3.000.000 tấn, chiếm 60% tổng sản lượng nấm trên thế
giới, riêng Phúc Kiến là 800.000 tấn chiếm 26.67% của cả nước và 6.4% trên toàn thế
giới. Thập kỷ 80 của thế kỷ 20, tổng sản lượng nấm ăn giao dịch trên thị trường thế giới
là 300.000-350.000 tấn. Bình quân mỗi người dân Âu Mỹ tiêu dùng từ 2-3 kg, người
Nhật và người Đức tiêu thụ 4 kg
Hằng ngày ở thị trường New-York bình quân tiêu thụ 2-3 tấn nấm rơm, nấm hương
tươi, mộc nhĩ tươi, đứng hàng thứ 2 sau rau.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
3
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
Đến năm 2005, tổng sản lượng nấm trên Thế Giới đạt khoảng 20 triệu tấn. Riêng
Trung Quốc chiếm sản lượng 50% so với toàn Thế Giới. Tốc độ tăng trưởng về sản
lượng nấm ăn cao hơn năm trước trên 5%.
1.1.2. Tình hình hình sản xuất nấm ở Việt Nam [1], [2], [4]
Việt Nam là một trong những nước nông nghiệp có khí hậu nhiệt đới, đây cũng là
điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp và tạo nguồn nguyên liệu dùng làm cơ chất trồng
nấm. Bên cạnh đó thì Việt Nam là một nước giàu nguồn nhân công lao động nên đây
cũng là điều kiện đầu tiên và vô cùng quan trọng cho việc phát triển nghề trồng nấm.
Việc nghiên cứu sản xuất và phát triển nấm ăn và nấm dược liệu ở Việt Nam bắt
đầu từ năm 1970. Nhưng nghề này bắt đầu phát triển và đưa lại hiệu quả kinh tế cao từ
10 năm trở lại đây. Do tùy thuộc vào từng vùng khí hậu khác nhau mà nghề trồng nấm

phát triển với nhiều kiểu mô hình khác nhau cho phù hợp với điều kiện nhiệt độ, khí hậu
từng vùng.
Vào năm 1984, trung tâm nghiên cứu nấm ăn thuộc đại học tổng hợp Hà Nội được
thành lập.
Năm 1985, được tổ chức FAO tài trợ và ủy ban nhân thành phố Hà Nội quyết định
thành lập trung tâm sản xuất nấm Trường Mai. Một năm sau ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh với sự tài trợ của tổ chức FAO quyết định thành lập xí nghiệp nấm ăn
thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1988-1992, phong trào trồng nấm được mở rộng hầu các tỉnh khu vực phía
Bắc. Sau khi được thành lập thì tổng sản lượng nấm ở khu vực phía Bắc đạt 30 tấn
nhưng đến năm 2000 đạt 10.000 tấn. Đến năm 2002, cả nước sản xuất được 100.000 tấn
nấm thực phẩm thì đến nay đã đạt 150.000 tấn/năm.
Đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Nam thì phát triển và
sản xuất nấm rơm, ngoài ra cũng có nấm mộc nhĩ cũng được trồng phổ biến. Nghề trồng
nấm ở Đồng Nai cũng được thành lập từ lâu, đặc biệt các làng như: làng nấm sông Trầu
đã tồn tại 16 năm với khoảng 100 hộ dân, làng nấm Xuân Đỉnh có khoảng 300 hộ trồng
nấm mèo với tổng sản lượng đạt 1.174 tấn/năm lợi nhuận khoảng 3.5 tỉ đồng/năm, làng
nấm Bình Lộc có khoảng 60 hộ trồng nấm mèo với tổng sản lượng 1.578 tấn/năm lợi
nhuận 47.3 tỉ đồng. Ở nước ta nấm được trồng nhiều tại các tỉnh: Đồng Nai, An Giang,
Vĩnh Long và đây là một trong những ngành hàng được đánh giá là một trong những
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
4
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu của nước ta. Tại các địa phương trồng nấm ngành
nông nghiệp phát động phong trào trồng nấm xuất khẩu.
Trong vòng 1 tháng từ 11/12/2006–12/01/2007 xuất khẩu nấm đạt 1.425 USD, và
trong vòng 7 ngày cuối thánh 6 từ 20 đến 27/06/2007 kim ngạch xuất khẩu nấm của
nước ta đạt gần 250 nghìn USD. Hơn nữa, nấm chủ yếu được xuất sang thị trường Hoa
Kỳ- một trong những thị trường khó tính. Một trong những hướng xuất khẩu trong
tương lai là một mặt phát triển lượng xuất khẩu sang thị trường truyền thống mặt khác

tiến hành thâm nhập các thị trường mới. Để làm được điều này các hoạt động xúc tiến
thương mại cần được chú trọng hơn nữa để có thể phát triển ngành trồng nấm xuất khẩu
đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng nhiều quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước có đủ điều kiện để phát triển mạnh nghề trồng
nấm do:
Một là, nguồn nguyên liệu để trồng nấm là rơm rạ, than gỗ, mùn cưa, bả mía…
Các loại phế liệu sau khi thu hoạch rất giàu chất xenllulo. Nếu tính trung bình 1 tấn thóc
sẽ cho ra 1.2 tấn rơm rạ khô thì tổng sản lượng rơm rạ trong cả nước đạt con số vài chục
triệu tấn/năm. Chỉ cần sử dụng 10% số nguyên liệu kể trên để trồng nấm thì sản lượng
nấm đã đạt vài trăm ngàn tấn/năm.
Hai là, lực lượng lao động dồi dào và giá công lao động rẻ. Tính trung bình 1 lao
động nông nghiệp mới chỉ dùng đến 30-40% quỷ thời gian. Chưa kể đến mọi lao động
phụ đều có thể tham gia trồng nấm được.
Ba là, điều kiện tự nhiên (về nhiệt độ, độ ẩm…) rất thích hợp cho nấm phát triển.
Cả 2 nhóm nấm (nhóm ưa nhiệt độ cao: nấm hương… nhóm ưa nhiệt độ thấp: nấm mỡ,
nấm hương…) ở Việt Nam đều trồng được. Phân vùng đối với các tỉnh phía Nam tập
trung trồng nấm rơm,… Các tỉnh phía Bắc trồng nấm mỡ, nấm hương…
Bốn là, vốn đầu tư ban đầu để trồng nấm rất ít so với việc đầu tư cho các ngành
sản xuất khác.
Năm là, kỹ thuật trồng nấm không phức tạp. Một người dân bình thường có thể
tiếp thu được công nghệ trông nấm trong thời gian ngắn.
Sáu là, thị trường tiêu thụ nấm trong nước và trên thế giới tăng nhanh do sự phát
triển chung của xã hội và dân số. Hiệp hội nấm ăn thế giới đã đưa chỉ số bình quân
lượng tiêu thụ nấm ăn cho 1 người trong 1 năm để đánh giá sự phát triển kinh tế của
một quốc gia.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
5
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
1.2. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi trồng nấm [3]
1.2.1. Thuận lợi

- Nghề trồng nấm dễ thực hiện ở nhiều nơi từ nguồn nguyên liệu rẻ tiền, có ở khắp
nơi, dồi dào như: rơm rạ, thân ngô, lõi bắp…
- Có thể sản xuất được quanh năm (kể cả mùa mưa) chỉ cần đảm bảo nhiệt độ thích
hợp để nấm phát triển. Có thể trồng nấm tại nhà vừa tận dụng được nguồn phụ phẩm
nông nghiệp, vừa tận dụng được sức lao động nông nhàn.
- Vốn đầu tư không nhiều tuỳ vào điều kiện kinh tế, nếu ít vốn thì làm nhỏ, nhiều
vốn thì làm qui mô lớn.
- Vòng quay vốn nhanh do chu kỳ sản xuất ngắn, như nấm rơm sau 15 ngày đã thu
hoạch, nấm bào ngư thu hoạch sau 2 tháng.
- Ít tốn đất và hiệu quả sử dụng đất cao do trồng trên giàn, kệ nhiều tầng, tận dụng
đất không trồng trọt được, và có thể cải tạo đất bằng bã sau khi thu nấm.
- Chế biến bảo quản đơn giản, dễ thực hiện như phơi, sấy khô, muối. Sản phẩm có
giá trị cao thuận tiện cho việc vận chuyển xa.
- Bảo vệ môi sinh: Đa số các nấm trồng không có mùi thối, lại biến phế thải thành
chất có ích.
1.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nghề trồng nấm cũng còn nhiều khó khăn
- Nhiều khó khăn của nông nghiệp nói chung như thời tiết, các yếu tố môi trường,
sâu bệnh và sản lượng không ổn định…
- Là loại hình sản xuất liên quan chặt chẽ với các vi sinh vật, khâu làm meo giống
phải làm riêng trong phòng thí nghiệm, nên việc phát triển ở một số nơi phải tổ chức
trạm meo cung cấp giống.
- Các vi sinh vật gây nhiễm khó thấy.
- Nhiều trường hợp nấm không ra hoặc sản lượng thấp chưa rõ nguyên nhân.
- Nhiều nấm bán tươi cần tiêu thụ nhanh hoặc phải giữ lạnh gây khó khăn trong
quá trinh bảo quản.
- Chưa chú ý đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật do nước ta vẫn còn quan niệm là nghề
phụ, tranh thủ tận dụng nguồn phế liệu và lao động.
- Do thiếu sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp nên dẫn tới tình trạng nấm
làm ra không biết bán cho ai, trong khi doanh nghiệp thì khan hàng.

SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
6
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
1.3. Một số bệnh thường gặp ở nấm [2], [5]
Trong quá trình nuôi trồng, nấm cũng chịu ảnh hưởng của những bệnh và đối
tượng gây hại như các loại cây trồng khác. Các đối tượng gây hại ngoài việc gây hại tới
sợi nấm, quả thể nấm còn tác động tới môi trường (cơ chất) trồng nấm gây ảnh hưởng
tới năng suất và chất lượng nấm. Đối với mỗi loại nấm nuôi trồng thường có những đôi
tượng gây hại đặc trưng riêng biệt nhưng có thể phân loại một số nhóm đối tượng sâu
hại và một số bệnh hại chủ yếu là virus, vi khuẩn, nấm mốc, nấm dại, bọ mạt (rệp),
tuyến trùng, côn trùng, bệnh hại sinh lý…
1.3.1. Bệnh nhiễm
* Bệnh nhiễm do virus:
- Biểu hiện bệnh: Trên các loại nấm nuôi trồng có khoảng 6 loại virus gây bệnh có
biểu hiện tương đối giống nhau. Virus gây bệnh làm thoái hoá sợi nấm (nấm mỡ) khi
quả thể nấm phát triển thì mũ nhỏ, cuống dài và ức chế sự phát triển của quả thể-gây
chết.
- Nguyên nhân: Do tuyến trùng hoặc các bào tử đã nhiễm virus gây bệnh và lây lan
khắp mọi nơi.
- Biện pháp khắc phục: Bệnh virus không có thuốc đặc trị, chỉ dùng biện pháp
phòng bệnh như đốt khử trùng hoặc dùng nhiệt độ cao để xử lý môi trường nuôi trồng
nấm và khu vực nấm bị bệnh.
* Bệnh nhiễm do vi khuẩn:
- Vi khuẩn là những loại vi sinh vật đơn bào, sinh trưởng bằng cách nhân đôi. Vi
khuẩn gây nhiễm môi trường nuôi trồng nấm là chủ yếu.
- Vi khuẩn nhiễm vào quả thể thường ở chân hoặc mũ nấm, chúng hút dinh dưỡng
làm quả thể bị khô xác, mũ nấm bị vết thâm đen thối nhũn hoặc gây những vết nâu ở mũ
nấm.
- Nguyên nhân: Chủ yếu là do khử trùng giá thể không triệt để, đóng bịch nấm
không chuẩn hoặc xếp bịch hấp quá chặt, quá trình hấp tạo áp suất giả nên vi khuẩn còn

tồn tại và gây nhiễm.
- Biện pháp khắc phục: Tuân thủ đúng qui trình hấp khử trùng cơ chất và vệ sinh
sạch sẽ khu vực nuôi trồng nấm.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
7
ĐACM_2 GVHD: Trần Thị Lệ Hằng
* Bệnh nhiễm các loại nấm dại
- Nấm mực
Nấm mực hay còn gọi là nấm gió thường mọc trên mô nấm rơm, luống nấm mỡ
hay túi nấm sò, mộc nhĩ… Nấm mực khi còn nhỏ có hình như đầu đũa, mũ màu xám,
cuống màu trắng mọc sâu từ cơ chất ra ngoài. Sau 2-3 ngày, nấm xòe ô, mũ nấm chuyển
sang màu đen và nhũn nát.
Nguyên nhân: Cơ chất khử trùng chưa triệt để, độ ẩm cơ chất quá cao.
- Nấm hoa cúc
Nấm hoa cúc có kích thước mũ bằng đồng xu, chân nấm như cái tăm, thường mọc
ở chân mô nấm rơm.
Nguyên nhân: do bào tử nấm dại mọc ở bờ cỏ hoặc ở các đống mục hữu cơ ngoài
đồng ruộng.
Cách phòng trừ: Vệ sinh nhà trồng nấm sạch sẽ, rắc vôi bột hoặc tưới nước vôi sau
mỗi đợt nuôi trồng.
* Bệnh nhiễm do nấm mốc
- Nấm mốc vàng
Biểu hiện: Nấm mốc vàng có đường gân như rễ tre, màu trắng hoặc vàng chanh.
Chúng thường mọc trên các khúc gỗ trồng mộc nhĩ hoặc mọc phía dưới của cánh mộc
nhĩ làm kìm hãm sự phát triển của quả thể nấm.
Cách phòng trừ:
+ Vệ sinh nhà trồng nấm sạch sẽ, thường xuyên quét dọn nước đọng ở nền nhà.
+ Cách ly các túi nấm hoặc khúc gỗ bị nhiễm bệnh, quét thuốc tím lên các điểm bị
nhiễm bệnh.
- Nấm mốc trắng

Biểu hiện: Loại mốc này thường xuất hiện trên bề mặt cơ chất luống nấm mỡ.
Toàn bộ mặt luống có màng sợi màu trắng, sau 7-10 ngày chuyển sang màu vàng bột.
Nguyên nhân: do độ ẩm trong giá thể quá cao.
Cách khắc phục: ngừng tưới ẩm, bỏ giấy báo hoặc nilon đậy, mở cửa để thông
thoáng.
SVTH: Nguyễn Thị Hồng Hà_07SNN
8

×