Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

NHữNG VấN Đề CHUNG Về ĐÔLA HóA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.04 KB, 18 trang )

NH÷NG VÊN §Ò CHUNG VÒ §¤LA HãA
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐÔLA HÓA.
1.1.1. Khái niệm Đôla hóa.
Đôla hóa là hiện tượng xảy ra khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi thay thế
một phần hoặc hoàn toàn nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền. Đối với
những nền kinh tế bị đôla hóa, ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong việc niêm yết
giá hàng hóa dịch vụ, trong thanh toán và trong cất trữ.
Sự thay thế một phần hoặc hoàn toàn nội tệ ở đây được thể hiện dưới 2 dạng:
Thứ nhất là sự thay thế tài sản: Đó là việc công chúng nắm giữ trái phiếu
nước ngoài; Tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ ở nước ngoài; Tài khoản tiền gửi
tiết kiệm ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước với mục đích cất giữ giá trị
từ đó hạn chế tác động của sự giảm giá trị đồng nội tệ đối với tài sản khi lạm phát
xảy ra.
Thứ hai là sự thay thế tiền tệ: Đó là việc công chúng nắm giữ ngoại tệ tiền
mặt, tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong
nước để thực hiện chức năng phương tiện thanh toán và đơn vị đo lường. Hàng hóa
dịch vụ được niêm yết giá bằng USD và công chúng sử dụng USD để thanh toán
tiền hàng hóa, dịch vụ đó. Điều này cũng xảy ra trong điều kiện lạm phát cao, khi
đó chi phí trong việc sử dụng nội tệ trong giao dịch cao đã thúc đẩy công chúng tìm
kiếm một sự thay thế.
1.1.2. Phân loại Đôla hóa.
Dựa vào vị trí, vai trò, cơ sở pháp lý của ngoại tệ và mức độ sử dụng ngoại tệ
trong nền kinh tế, người ta chia đôla hóa thành ba loại: Đôla hóa chính thức, đôla
hóa không chính thức và đôla hóa bán chính thức.
Đôla hóa chính thức Là hiện tượng xảy ra khi một quốc gia thống nhất sử
dụng ngoại tệ là tiền tệ chính thức, hoàn toàn thay thế nội tệ. Trong những nền kinh
tế đôla hóa chính thức, nội tệ không tồn tại hoặc chỉ tồn tại dưới dạng tiền xu với
mệnh giá nhỏ và không có nhiều ý nghĩa trong việc thực hiện các chức năng của
tiền. Trong khi đó ngoại tệ được lựa chọn là tiền tệ chính thức được sử dụng với cả
3 chức năng: phương tiện thanh toán, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị. Ngân hàng
trung ương (NHTW) của những quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và không


có vai trò gì trong việc thực thi chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ hoàn toàn phụ
thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW Mỹ (Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED). Nền
kinh tế đôla hóa chính thức bị điều chỉnh bằng những cú sốc ngoại lai nhiều hơn
bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa
chính thức chỉ chọn một ngoại tệ là tiền tệ chính thức. Những quốc gia này thông
thường là những nước nhỏ với quy mô dân số vài triệu dân. 6 trong số những quốc
gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức là thành viên của IMF: Kiribati, Marshall
Islands, Micronesia, Palau, Panama, San Marino. Trong đó Panama là một quốc gia
được biết đến nhiều nhất với nền kinh tế đôla hóa chính thức điển hình. Đôla hóa
chính thức không phổ biến bằng đôla hóa không chính thức và thậm chí là rất hiếm
do hầu hết mọi người đều coi đồng tiền của quốc gia họ là một biểu tượng của chủ
quyền dân tộc, mất đi đồng tiền riêng có nghĩa là giao quyền điều hành chính sách
tiền tệ cho NHTW nước ngoài. Chính vì vậy, tuyên bố từ bỏ đồng nội tệ đồng thời
chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức chỉ là giải pháp cuối cùng khi chính phủ
của nước đó không còn cách nào khác để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng,
thoát khỏi sự mất ổn định kéo dài.
Bảng 1.1: Danh sách một số nền kinh tế đôla hóa chính thức:
Quốc gia Dân số Ngoại tệ sử dụng Từ năm
Cook Islands 18500 Newzealand dollar 1995
Cyprus, Northern 180000 Turkish lira 1974
Liechtenstein 31000 Swiss franc 1921
Marshall islands 61000 U.S dollar 1944
Micronesia 130000 U.S dollar 1944
Nauru 10000 Australian dollar 1914
Northern Mariana Islands 48000 U.S dollar 1944
Panama 2.7 mn U.S dollar notes and coins,
Panamanian coins
1904
Samoa,American 60000 U.S dollar 1899
(Nguồn: IMF-2000)

Đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra khi cư dân một đất nước
nắm giữ số lượng lớn tài sản bằng ngoại tệ, tuy nhiên nội tệ vẫn là đồng tiền chính
thức, hợp pháp của quốc gia đó. Đối với những nền kinh tế bị đôla hóa không chính
thức, ngoại tệ được công chúng ưa chuộng nắm giữ dưới dạng tài sản như: ngoại tệ
tiền mặt, trái phiếu nước ngoài, tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài, tiền gửi bằng
ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trong nước. Các nhà kinh tế nhìn chung đồng
nhất Đôla hóa không chính thức với sự thay thế tài sản. Có nghĩa là ngoại tệ được
nắm giữ chủ yếu với chức năng cất trữ giá trị nhằm giảm tác động của sự giảm giá
nội tệ trong điều kiện lạm phát. Tuy nhiên tùy thuộc vào mức độ đôla hóa nền kinh
tế và tùy thuộc vào những quy định hạn chế trong hệ thống pháp luật của từng quốc
gia về vấn đề sử dụng ngoại tệ mà có những quốc gia, ngoại tệ còn được sử dụng
trong cả thanh toán và niêm yết, thông báo giá hàng hóa dịch vụ. Thông thường,
trong các quốc gia này các khoản mục như: lương, thuế và những chi phí hàng
ngày như hóa đơn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ vẫn được trả bằng nội tệ còn những
hàng hóa, dịch vụ xa xỉ hay trong hoạt động kinh doanh bất động sản được niêm
yết và thanh toán bằng ngoại tệ. Việt Nam là một trong số các nước ở châu Á có
nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức. Ở Việt Nam, nhìn chung công chúng
nắm giữ ngoại tệ dưới dạng ngoại tệ tiền mặt hoặc tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ
tại các ngân hàng thương mại với chức năng cất trữ giá trị còn đối với chức năng
phương tiện thanh toán và đơn vị đo lường, mặc dù pháp luật Việt Nam cũng có
đưa ra một số quy định hạn chế nhưng do khâu thực thi pháp luật yếu kém nên giao
dịch ngoại tệ và việc niêm yết, thông báo giá hàng hóa bằng ngoại tệ vẫn diễn ra
phổ biến.
Một cách để đo lường quy mô của đôla hóa không chính thức là đo lường
quy mô của trái phiếu quốc tế, tài khoản tiền gửi ngân hàng và quy mô của ngoại tệ
tiền mặt. Tuy nhiên để đo lường chính xác quy mô của những khoản mục trên là
không dễ dàng, thông thường các con số có được là do ước lượng. Theo ước lượng
của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED): người nước ngoài nắm giữ từ 55- 70% đôla
tiền giấy. Tổng giá trị USD trong lưu thông hiện nay khoảng 480 tỷ trong đó người
nước ngoài nắm giữ 300 tỷ. Một cách khác để đo lường mức độ đôla hóa không

chính thức là tỷ lệ tài khoản tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng trên tổng
phương tiện thanh toán (M2). Theo đánh giá của IMF nếu ở một quốc gia tỷ lệ này
trên 30% thì tình trạng đôla hóa là nghiêm trọng.
Trong hầu hết các nước có nền kinh tế bị đôla hóa không chính thức, USD là
ngoại tệ lựa chọn. Trường hợp này đặc biệt đúng đối với những quốc gia mà Mỹ là
đối tác thương mại, nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất hoặc lớn thứ 2. Điển hình là
các nước châu Mỹ Latinh và Caribean. Tuy nhiên từ khi đồng tiền chung châu Âu
(EUR) ra đời thì EUR nhanh chóng trở thành ngoại tệ lựa chọn của một số quốc gia
ở châu Phi và khu vực Trung Đông.
Các quốc gia hiện nay bị đôla hóa không chính thức ( U.S dollar) bao gồm:
Hầu hết các nước Châu Mỹ Latinh và vùng Caribean đặc biệt là: Argentina,
Bolivia, Mexico, Peru, và vùng Trung Mỹ; Hầu hết các nước thuộc Liên Xô cũ đặc
biệt là: Armenia, Azerbaijan, Georgia, Russia, Ukraine; Ngoài ra còn có Mongolia,
Mozambique, Romania, Turkey, VietNam.
Chúng ta cần phân biệt đôla hóa không chính thức và sự hình thành đồng
tiền chung khu vực. Có nhiều người cho rằng việc sử dụng đồng tiền chung khu
vực chính là đôla hóa nền kinh tế. Nhận định này là không chính xác vì: Đôla hóa
không chính thức là sự xâm nhập bất hợp pháp của một đồng tiền mạnh vào một
nền kinh tế, thay thế một phần nội tệ để sử dụng trong thanh toán, cất trữ và niêm
yết giá cả. Đây là điều mà chính phủ các nước không mong muốn và luôn nỗ lực
đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trên. Còn việc hình thành các đồng
tiền chung khu vực xuất phát từ các nước trong cùng khu vực địa lý đã liên kết, hợp
tác với nhau thiết lập một đồng tiền chung để làm đối trọng với các đồng tiền mạnh
khác ngoài khu vực đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa các
nước trong khu vực đó, hạn chế những rủi ro trong thương mại như rủi ro về tỷ giá.
Đồng EUR là một ví dụ cụ thể. Ngày 1/1/1999 tỷ lệ hối đoái giữa EUR và các đơn
vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và EUR trở thành tiền tệ chính
thức. Đến ngày 1/1/2002, EUR bắt đầu được phát hành tới người tiêu dùng. Từ khi
EUR ra đời và chính thức được đưa vào sử dụng là tiền tệ hợp pháp của các quốc
gia thì thương mại và cộng tác kinh tế giữa các nước trong khu vực EUR trở nên

vững mạnh hơn. Hơn thế nữa EUR nhanh chóng trở thành một đồng tiền mạnh, ở
thế đối trọng với USD và là tiền tệ lựa chọn của một số quốc gia trên thế giới. Bên
cạnh EUR, trong thời gian sắp tới đơn vị tiền tệ chung các nước châu Á (ACU) sẽ
ra đời với 13 thành viên: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước ASEAN,
trong tương lai không xa sẽ hình thành nên đồng tiền chung châu Á. Có thể nói
việc hình thành liên minh tiền tệ và sự ra đời của các đồng tiền chung khu vực là xu
thế phát triển của thời đại hội nhập trên lĩnh vực tiền tệ quốc tế, không thể coi đó là
đôla hóa.
Bên cạnh đôla hóa chính thức và đôla hóa không chính thức vẫn còn tồn tại
một loại hình đôla hóa nữa tuy không phổ biến đó là đôla hóa bán chính thức. Các
quốc gia có nền kinh tế đôla hóa bán chính thức có hệ thống lưu hành chính thức hai
đồng tiền. Ở những nước này, ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp và chiếm tỷ
lệ lớn trong tổng số tiền gửi ngân hàng nhưng việc trả lương, thuế và các chi tiêu
hàng ngày vẫn được thực hiện bằng nội tệ. Các nước này vẫn duy trì NHTW để
thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Một số nước có nền kinh tế đôla hóa bán chính
thức điển hình: Cuba, Bahamas, Cambodia, Haiti, Laos, Liberia (U.S dollar);
Bhutan (Indian rupee), Bosnia (German mark, Croatian kuna, Yugoslav dinar);
Brunei (Singapore dollar); Channel Islands, Isle of Man (British pound); Lesotho,
Namibia (Sounth African rand); Taijikistan (Russian ruble).
1.2.NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA.
Theo thống kê, các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức đều là những
quốc gia nhỏ cả về quy mô dân số cũng như diện tích. Đối với những quốc gia này,
đôla hóa chính thức nền kinh tế có thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của các nhà
lãnh đạo. Theo họ việc chấp nhận một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần
làm cho nền kinh tế trở nên ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao
và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này, vì suy
cho cùng mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn
việc làm và ổn định giá trị đồng tiền. Một cách lý giải nữa của việc chấp nhận đôla
hóa chính thức nền kinh tế của các quốc gia là do sự yếu kém trong việc hoạch
định, thực thi chính sách tiền tệ của NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ

thống ngân hàng thương mại trong nước. NHTW không đủ năng lực để điều hành
chính sách tiền tệ do đó chấp nhận trao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài để
ổn định và phát triển kinh tế nước mình.
Trên đây là những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ ý chí của các nhà lãnh
đạo. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khách quan dẫn tới tình trạng đôla
hóa nền kinh tế mặc dù các quốc gia không hề mong muốn.
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng đôla hóa của các quốc gia có liên
quan đến sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood. Hệ thống Bretton Wood (BWS) là
một hệ thống tiền tệ quốc tế được đi vào hoạt động từ năm 1947. Đây là một hệ
thống chế độ tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh. Mỗi đồng tiền quốc gia được
ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được phép dao động trong biên độ ±1%,
tỷ giá đồng USD tự nó được cố định với giá vàng là 35$/ounce. Một đặc điểm nữa
của BWS là sự hình thành hai tổ chức quốc tế mới là IMF và WB với hạn mức tín
dụng thường xuyên nhằm hỗ trợ cho những quốc gia bị thâm hụt tạm thời BP. Có
thể nói hệ thống BWS hoạt động với sự thành công rõ ràng và đáng ghi nhận, trong
suốt những năm từ 1947 đến 1971 chỉ xảy ra một số lần điều chỉnh đột xuất. Tuy
nhiên sau 24 năm tồn tại BWS bị sụp đổ với những lý giải xuất phát từ rất nhiều
nguyên nhân khác nhau. Sau sự sụp đổ của BWS, các quốc gia đều tiến hành thả
nổi tỷ giá, và đặc trưng của hệ thống tỷ giá thả nổi này là không có trật tự và rối
loạn. Có một số quốc gia khó khăn trong việc tìm kiếm và lựa chọn 1 chế độ tỷ giá
phù hợp, điều này cũng trở nên khó khăn trong điều kiện thị trường vốn và thương
mại quốc tế tự do hội nhập. Một cách giải quyết mới nhất là từ bỏ đồng tiền chính
thống của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia khác. Cũng sau
khi hệ thống BWS sụp đổ xảy ra cú sốc dầu đầu tiên. Các nước kém phát triển
(LDCs) không xuất khẩu dầu gặp khó khăn đặc biệt, một mặt do giá dầu nhập khẩu
tăng, mặt khác do kinh tế các nước công nghiệp bị suy thoái nên xuất khẩu vào
những nước này bị giảm sút. Kết quả là LDCs là nhóm nước chịu thâm hụt cán cân
vãng lai với khối lượng khổng lồ. Để cân bằng cán cân thanh toán, các nước tiến
hành vay nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ đã xảy ra với các nước LDCs đặc biệt
là các nước châu Mỹ Latinh. Khủng hoảng nợ đã dẫn đến khủng hoảng tài chính và

đây chính là điều kiện để ngoại tệ xâm nhập vào nền kinh tế trong nước thực hiện
chức năng tiền tệ, thay thế nội tệ.
Nguyên nhân thứ hai xuất phát từ những bất ổn tiền tệ trong các quốc gia
như khủng hoảng tài chính. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm
1997 xảy ra với các quốc gia Đông Á. Thái Lan được coi là quốc gia châm ngòi

×