Tải bản đầy đủ (.doc) (228 trang)

luận án tiến sĩ nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 228 trang )

2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu độc lập của riêng tôi. Các số liệu, tài liệu sử
dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc,
xuất sứ rõ ràng
Hà nội, ngày

tháng

năm 2020

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Minh Đức


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


CNH,HĐH

2.

Công tác đảng, công tác chính trị

CTĐ,CTCT

3.

Giáo dục đào tạo

GDĐT

4.

Học viện, trường sĩ quan

HV,TSQ

5.

Khoa học công nghệ

KHCN

6.

Khoa học và công nghệ


KH&CN

7.

Khoa học xã hội nhân văn

KHXHNV

8.

Nghiên cứu khoa học

NCKH

9.

Quân ủy Trung ương

QUTW

10.

Trong sạch vững mạnh

TSVM

11.

Vững mạnh toàn diện


VMTD


4

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến
đề tài luận án
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.3. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO NHIỆM VỤ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA CÁC ĐẢNG ỦY HỌC VIỆN
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các học viện, trường sĩ quan
và những vấn đề cơ bản về lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan quân đội
2.2. Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng
lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các đảng ủy học
viện, trường sĩ quan quân đội
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO NHIỆM VỤ

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA CÁC ĐẢNG ỦY
HỌC VIỆN TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
3.1. Thực trạng nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan quân đội
3.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các đảng ủy
học viện, trường sĩ quan quân đội
Chương 4 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LÃNH ĐẠO NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA CÁC ĐẢNG ỦY HỌC VIỆN TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
4.1. Tình hình nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao chất lượng lãnh đạo
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các đảng ủy học viện,
trường sĩ quan quân đội hiện nay
4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang

5
9
9
15
26


30
30
60

80
80
111

128
128
138
174
176
177
191


5

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài luận án

Nghiên cứu khoa học có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển của xã hội, xây dựng, trang bị và phát triển hệ thống tri thức khoa học, trực
tiếp tạo ra những tiền đề vật chất để mỗi quốc gia, dân tộc phát triển, do đó mỗi
quốc gia dù trong giai đoạn phát triển nào đều coi NCKH là nhiệm vụ hàng đầu.
Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định:
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa

học, công nghệ…. Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho
khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu [41, tr.26-27].
Các HV,TSQ quân đội là những cơ sở GDĐT, có nhiệm vụ đào tạo đội
ngũ cán bộ cho quân đội, đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, đào tạo kỹ sư, cử
nhân khoa học, kỹ thuật, đồng thời là những cơ sở NCKH, công nghệ nói
chung và khoa học, công nghệ quân sự nói riêng. Giáo dục đào tạo và NCKH
là hai mặt hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, đồng thời là hai nhiệm vụ chính
trị trung tâm của các HV,TSQ góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
mới. Trong đó NCKH cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn trực tiếp tác
động đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các HV,TSQ quân đội, đồng
thời cung cấp những luận cứ quan trọng cho việc hoạch định và góp phần
quán triệt, triển khai những chủ trương, đường lối, chính sách về quân sự
quốc phòng của Đảng, Nhà nước, quân đội; ứng dụng các kết quả NCKH vào
xây dựng quân đội, nền quốc phòng toàn dân; tham gia phát triển kinh tế xã
hội và đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Các đảng ủy HV,TSQ quân đội là hạt nhân lãnh đạo, là nơi tập trung trí
tuệ, bản lĩnh và ý chí của mỗi đảng bộ, lãnh đạo toàn bộ mọi hoạt động của
các HV,TSQ, trong đó lãnh đạo nhiệm vụ NCKH là một nội dung trọng tâm,
rất quan trọng. Nhiệm vụ NCKH của các HV,TSQ quân đội có chất lượng cao
hay thấp, phụ thuộc trước hết vào sự lãnh đạo của các đảng ủy nhà trường.


6

Lãnh đạo nhiệm vụ NCKH là hoạt động thường xuyên, rất quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của các đảng ủy HV,TSQ quân đội nhằm giữ vững
và tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của đảng ủy đối với nhiệm vụ
NCKH. Chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH là một trong những cơ sở để
đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.

Đối với các đảng ủy HV,TSQ quân đội, chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH
có tác động tích cực vào chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ GDĐT, góp phần đảm
bảo cho hoạt động lãnh đạo toàn diện cũng như trên từng nhiệm vụ của các
đảng ủy được thực hiện hiệu quả, chất lượng.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ NCKH, những năm qua, các
đảng ủy HV,TSQ đã có nhiều chủ trương, biện pháp tập trung lãnh đạo sát với tình
hình thực tiễn. Nhiệm vụ NCKH ở các học viện nhà trường có sự phát triển cả về
số lượng và chất lượng, hiệu quả từng bước được nâng lên, đã góp phần thiết thực
nâng cao chất lượng GDĐT và NCKH ở các HV,TSQ quân đội. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ
NCKH ở một số HV,TSQ quân đội vẫn còn bộc lộ những bất cập, hạn chế, biểu
hiện tập trung là: chậm đổi mới phương thức lãnh đạo nhiệm vụ NCKH; chưa phát
huy hết các nguồn lực NCKH nhất là của đội ngũ cán bộ khoa học; chất lượng lãnh
đạo nhiệm vụ NCKH chưa có sự chuyển biến rõ nét, ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả thực hiện nhiệm vụ NCKH cũng như GDĐT của các HV,TSQ quân đội.
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của KHCN và yêu cầu của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; phát triển khoa học quân sự và xây dựng Quân đội
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; yêu cầu của nhiệm vụ đổi mới căn
bản, toàn diện GDĐT và xây dựng các HV,TSQ quân đội theo mô hình nhà
trường thông minh, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và NCKH của các HV,TSQ
quân đội tiếp tục có sự phát triển, càng đặt ra những yêu cầu cao đối với hoạt
động lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng
lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của các đảng ủy học viện, trường
sĩ quan quân đội hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, đây là vấn đề cơ bản,
cấp thiết, có ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn.


7


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn, đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến nâng cao chất lượng lãnh
đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản nâng cao chất lượng lãnh
đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy
HV,TSQ quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ về chất lượng và nâng cao chất lượng
lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Khảo sát thực tế tại các HV,TSQ quân đội; đối tượng khảo sát bằng
phiếu điều tra tập trung vào đội ngũ cán bộ cơ quan, cán bộ quản lý học viên
và đội ngũ giảng viên; các tư liệu, số liệu thực tế từ năm 2013 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Là hệ thống lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Đảng, xây dựng Đảng; các quan
điểm của Đảng, Nhà nước, Quân đội về NCKH và lãnh đạo nhiệm vụ NCKH
được thể hiện trong các văn bản luật, điều lệnh, điều lệ, chính sách...



8

Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội;
các báo cáo, tổng kết, đánh giá của QUTW, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham
mưu, các đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu) các HV,TSQ quân đội về nhiệm
vụ NCKH; kết quả điều tra, khảo sát thực tế ở các HV,TSQ trong Quân đội.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đề tài sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên
ngành; trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích, tổng hợp; lịch sử, lôgic;
thống kê, so sánh; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; điều tra xã hội học;
phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và luận giải làm rõ quan niệm chất lượng và nâng cao chất
lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Tổng kết một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ
NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp cụ thể, khả thi trong những giải
pháp nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TSQ
quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án.
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và
thực tiễn nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các HV,TSQ quân
đội; cung cấp những luận cứ khoa học cho các đảng ủy và các tổ chức đảng thuộc
quyền, chỉ huy các cấp ở các HV,TSQ quân đội nghiên cứu, tham khảo, vận dụng
vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng NCKH hiện nay.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy ở các nhà trường trong quân đội.

7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công
trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
luận án
1.1.1. Các công trình liên quan đến nhiệm vụ giáo dục đào tạo,
nghiên cứu khoa học
Soutchay Vonsavanh (2002), Nâng cao chất lượng đào tạo ở Học viện Quốc
phòng thời kỳ mới, đề tài khoa học cấp Bộ [83]. Tác giả đã luận giải những vấn đề lý
luận và thực tiễn chất lượng đào tạo ở Học viện Quốc phòng Cay - xỏn Phôm - vi hản; đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ở Học viện Quốc phòng Cay xỏn Phôm - vi - hản. Trong đó đã đề cập đến việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa
nâng cao chất lượng đào tạo và nâng cao chất lượng NCKH, đưa yếu tố khoa học
thâm nhập sâu vào hoạt động giáo dục đào tạo. Nghiên cứu sinh có thể vận dụng khi
nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng lãnh đạo NCKH gắn với nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.
Sỏn Xay Mạ Ni Vông (2015), Năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Quốc phòng Cay - xỏn Phôm - vi - hẳn [99],
Tạp chí Học viện Quốc phòng Cay - xỏn Phôm - vi - hẳn. Từ việc phân tích cấu trúc
năng lực NCKH của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, tác giả đã đưa ra một
số giải pháp nhằm phát triển năng lực NCKH xã hội và nhân văn ở Học viện Quốc
phòng Cay - xỏn Phôm - vi - hẳn, trong đó xác định nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của các cấp ủy đảng, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp trong việc phát
triển năng lực NCKH của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, khẳng

định đây là yêu cầu có tính quy luật của quá trình NCKH, sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng là nhân tố giữ vai trò quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
nói chung, nhiệm vụ NCKH của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn nói riêng.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học chủ yếu trình bày các vấn đề về lý thuyết tổ chức, quản lý khoa
học nói chung chứ chưa gắn với hoạt động lãnh đạo của một tổ chức đảng với


10

mục đích đề ra những chủ trương, định hướng, chỉ đạo theo những nguyên tắc
nhất định, song đây là cơ sở để tác giả khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài, luận án.
1.1.2. Các công trình liên quan đến sự lãnh đạo của đảng cộng sản
đối với các lĩnh vực
Phăn Đuông Chit Vông Sa (2002), “Công tác lý luận của Đảng Nhân dân
Cách mạng trong thời kỳ đổi mới” [12]. Luận án đã nghiên cứu về vai trò công tác lý
luận đối với công tác xây dựng đảng, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào trong thời kỳ đổi mới; quá trình vận dụng lý luận mác - Lênin trong
Đảng và các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lý luận của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào. Luận án đã khẳng định sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của đảng đối với
công tác lý luận nói chung, công tác nghiên cứu lý luận nói riêng, đó là sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác lý luận nhằm đảm bảo cho hoạt động lý luận đứng vững
trên lập trường của chỉ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng.
Xắc-Va-Vắt-Xuân-Thép Phim-Ma-Son (2013), “Công tác tư tưởng của
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào hiện nay” [115] đã trình bày về vai trò, vị trí
và những đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc của công tác tư tưởng của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào; các giải pháp nhằm tăng cường công tác tư tưởng
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Luận án đã xác định giải pháp quan
trọng quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường công tác tư tưởng của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào đó là tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối,
trực tiếp của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Như vậy, Luận án đã khẳng
định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
tư tưởng, lý luận, trong đó bao gồm công tác nghiên cứu lý luận.
E. XaKhaRốp (1967), Bàn về quan điểm khoa học đối với sự lãnh đạo
quân đội, Nxb quân sự/Bộ Quốc phòng Liên xô [149], tập sách đã nêu lên quan
điểm khoa học đối với việc lãnh đạo bộ đội, một vấn đề thiết yếu của quân đội
và hải quân, trình bày những nội dung chủ yếu của sự lãnh đạo khoa học và
phương hướng nâng cao trình độ lãnh đạo khoa học của cán bộ trong lực lượng
vũ trang và coi sự lãnh đạo quân sự một cách khéo léo là một trong những điều


11

kiện quyết định để giành thắng lợi. Tác giả đã chỉ ra nội dung của việc lãnh đạo
khoa học gồm rất nhiều vấn đề, nhưng chủ yếu là nắm vững một cách sâu sắc
và nghiêm túc chú ý đến các quy luật khách quan và khéo léo áp dụng trong
thực tế những nguyên tắc xây dựng quân đội cũng như các nguyên tắc trong
lãnh đạo, chỉ huy. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định phát huy sự lãnh đạo của
đảng là bảo đảm tăng cường hơn nữa sự hùng hậu về quân sự.
I.S.Mét- nhi-cốp (1974), Đảng cộng sản người lãnh đạo và giáo dục
lực lượng vũ trang Xô Viết, Nxb Bộ Quốc phòng Liên Xô, Mát-xcơ-va [103].
Tác giả chỉ ta quy luật khách quan của sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp xây dựng và củng cố quân đội. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội đòi hỏi phải nâng cao vai trò tiền phong gương mẫu của cán
bộ đảng viên trong thực hiện chức trách người chiến sĩ. Các đảng ủy, chi ủy
phải thường xuyên lãnh đạo các tổ chức đảng ở đại đội và các tổ đảng.
Tác giả chỉ rõ: Những tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang Liên Xô
là một bộ phận trong toàn bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong hoạt động
của mình, những tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang Liên Xô đều phải lấy

Cương lĩnh, Điều lệ Đảng làm kim chỉ nam. Điều lệ chỉ rõ; các tổ chức đảng
này hoạt động theo sự hướng dẫn đã được Ban Chấp hành trung ương Đảng
thông qua, xuất phát từ tính chất, nhiệm vụ riêng của lực lượng vũ trang,
hưỡng dẫn tổ chức của Đảng Liên xô và trong Quân đội Xô viết và Hải quân
nhằm cụ thể hóa những điều quy định trong Điều lệ Đảng cho phù hợp với
những điều kiện riêng.
A.A. Ê-Pi Sép (1976), Tóm tắt lịch sử Công tác đảng, công tác chính trị
trong lực lượng vũ trang Liên Xô (1918-1973) [147] khẳng định vai trò của các tổ
chức đảng trong Quân đội Liên Xô, tác giả chỉ dẫn: Các tổ chức đảng trong Quân
đội và Hải quân là một trong những đội ngũ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Ban
Chấp hành Trung ương thường xuyên quan tâm đến việc củng cố, nâng cao vai trò
ảnh hưởng của các tổ chức đảng trong đời sống Quân đội. Vai trò lãnh đạo, hướng
dẫn của Đảng Cộng sản trong lực lượng vũ trang thể hiện rõ ràng trong mọi hoạt
động của các cơ quan chính trị, các tổ chức đảng, các tập thể đảng viên trong


12

Quân đội và Hải quân. Đồng thời chỉ ra: Đảng lãnh đạo Quân đội và Hạm đội
không chỉ thông qua các cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và cán bộ chỉ huy, mà
còn thông qua các đảng viên trong Quân đội và Hạm đội.
K. M. Sê-gô-li-ép (1982), Xây dựng Đảng, Nxb sách giáo khoa MácLênin [119] được sử dụng trong các trường đảng cao cấp khi bàn về tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong điều kiện của xã hội
xã hội chủ nghĩa phát triển đã nhấn mạnh
Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển là tiềm năng kinh tế
và khoa học kỹ thuật rất to lớn, trình độ sản xuất công nghiệp cao…
Đảng cộng sản động viên sự nỗ lực và hướng tính chủ động, sáng tạo
của những người cộng sản, của toàn thể nhân dân liên xô, vào cuộc
đấy tranh nhằm đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật, áp dụng những
thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất [119, tr.120]

A.I Xê Rê Kin (1983),“Sự phát triển ngày càng lớn, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Liên Xô trong củng cố lực lượng vũ trang và một số
vấn đề xây dựng Đảng trong Quân đội và Hải quân Liên Xô”, Tạp chí Tư
tưởng quân sự Liên Xô số tháng 10/1983 [150] . Bài viết khẳng định vai trò
to lớn của Đảng Cộng sản trong lãnh đạo quân sự, xây dựng quân đội cách
mạng, theo tác giả: Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang là
nguyên tắc trong xây dựng quân đội cách mạng, nhằm bảo đảm xây dựng
niềm tin, sự giác ngộ chính trị, hướng dẫn hành động cho bộ đội. Khi Đảng
Cộng sản đã xác định được đường lối đúng đắn, chính sách phù hợp, thì kết
quả công việc phụ thuộc trước hết vào khâu tổ chức thực hiện đường lối,
Đối tượng quan tâm đặc biệt của tổ chức đảng trong tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là lãnh đạo, xây dựng đơn vị,
xây dựng tổ chức chỉ huy, xây dựng đời sống mọi mặt đơn vị và duy trì sẵn
sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng huấn luyện bộ đội.
Các tác giả đã khẳng định vai trò lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng
sản Liên Xô, đặc biệt đối với việc xây dựng quân đội, khẳng định đó là
nguyên tắc trong xây dựng quân đội cách mạng, phát huy vai trò của các tổ
chức đảng, đảng viên trong hoạt động lãnh đạo của đảng.


13

Ngô Tu Tuệ - Lý Luyện Trung (1997), Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh
đạo của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia [139]. Nội dung cuốn sách gồm 6
chương đề cập những vấn đề quan trọng như: Tăng cường xây dựng nền tảng
tư tưởng; xây dựng nền chính trị; kiện toàn chế độ tập trung dân chủ; kiện
toàn tổ chức cơ sở đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và vấn đề quản lý
chỉnh đốn tác phong đảng. Cuốn sách đã đề cập đến vai trò lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng ở trường học, nhất là các trường đại học và cao đẳng và khẳng định,
xây dựng đảng ở các trường đại học và cao đẳng là vấn đề lớn, liên quan đến đào

tạo ra những con người trở thành tầng lớp kế cận, thực hiện chế độ hiệu trưởng
phụ trách dưới sự lãnh đạo của đẩng ủy, vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo tập thể và
quyết sách của tổ chức đảng đối với mọi mặt công tác và những vấn đề lớn, vừa
phải bảo đảm hiệu trưởng và bộ phận hành chính các cấp thực hiện đầy đủ quyền
hạn của mình. Tổ chức đảng trong trường đại học và cao đẳng phải tích cực dẫn
dắt quần chúng có nhận thức đúng đắn, làm công tác tư tưởng đối với tầng lớp trí
thức, đặt nền móng cho công tác xây dựng đảng.
Đồng thời, các tác giả cũng trình bày những vấn đề về xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, coi đây là nhiệm vụ chiến lượng hàng đầu, công việc của
Trung Quốc có làm tốt được không, mấu chốt là ở con người, tình trạng cán
bộ như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh và sự thành đạt của đảng
và khẳng định vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, việc lựa chọn, bồi
dưỡng và đào tạo cán bộ lãnh đạo phải tài đức vẹn toàn theo phương châm
bốn hóa “cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa”.
Vương Lạc Phu, Tưởng Nguyệt Thần (2000), Khoa học lãnh đạo hiện
đại, Nxb Chính trị quốc gia [116]. Cuốn sách phân tích sâu sắc kinh nghiệm
của Trung quốc về vấn đề bản chất lãnh đạo, thể chế lãnh đạo, quyết sách
trong lãnh đạo; chế định chiến lược và sách lược hành động cách mạng, biện
pháp thực thi nhiệm vụ; nghệ thuật và phương pháp lãnh đạo …. Các tác giả đã
đề cập đến vấn đề tu dưỡng phẩm chất người lãnh đạo, chỉ rõ nội dung, đặc điểm
và tác dụng của tu dưỡng phẩm chất của người lãnh đạo, theo đó việc tu dưỡng
phẩm chất người lãnh đạo là yêu cầu khách quan tăng cường ảnh hưởng của lãnh


14

đạo và là cơ sở nâng cao trình độ, nghệ thuật lãnh đạo, nội dung tu dưỡng phẩm
chất phải toàn diện cả về chính trị, tri thức, năng lực và tâm lý.
Các tác giả cũng khẳng định phải ứng dụng phương pháp khoa học hiện
đại trong hoạt động lãnh đạo, kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp và nghệ

thuật lãnh đạo.
Quân ủy Trung ương Trung Quốc (2004), Điều lệ công tác đảng ủy
quân đội của Đảng Cộng sản Trung quốc [109]. Điều lệ xác định bảo đảm sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội là mục đích căn bản, thể hiện cụ
thể tư tưởng, nguyên tắc, chức trách, trình tự và chế độ công tác của đảng ủy,
lấy quán triệt chế độ tập trung dân chủ và “nguyên tắc 16 chữ” làm trọng
điểm kiên trì, kế thừa, sáng tạo trên cơ sở kế thừa truyền thống tốt đẹp và kinh
nghiệm lịch sử về công tác đảng ủy trong quân đội. Điều lệ phân định rõ chức
trách của đảng ủy, bí thư và các đảng ủy viên, nhấn mạnh phát huy vai trò của
toàn đảng ủy theo tinh thần Đại hội 16 của Đảng Cộng sản Trung Quốc; Điều
lệ hoàn thiện trình tự nguyên tắc nghị sự, quyết sách của đảng ủy, làm rõ
phương thức biểu quyết quyết định các vấn đề quan trọng; chi tiết hóa trình tự
nghị sự và quyết sách. Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định xây dựng quân
đội tích cực đẩy mạnh cuộc cách mạng quân sự mang nét đặc sắc Trung Quốc,
lĩnh vực quyết sách của các cấp ủy ngày càng rộng lớn, yêu cầu tính khoa học
ngày càng cao hơn, đòi hỏi cần thiết phải nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo
của đảng ủy trong bàn bạc và quyết sách vấn đề lãnh đạo.
Như vậy, các tác giả đã chỉ rõ vai trò lãnh đạo quan trọng của đảng trên từng
mặt công tác cũng như đặt ra yêu cầu cần phải đi sâu nghiên cứu lý luận, thực tiễn
của từng vấn đề, tuy nhiên việc nghiên cứu cụ thể các hoạt động lãnh đạo của đảng
đối với nhiệm vụ NCKH nhất là nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ nghiên cứu
khoa học ở các nhà trường quân đội chưa được nghiên cứu một cách hệ thống,
chuyên sâu. Những nội dung đó giúp cho nghiên cứu sinh có thể khẳng định vai trò
quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng nói chung, đối với nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học nói riêng và là nguồn tài liệu tin cậy để tham khảo nghiên cứu về vai trò lãnh
đạo nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ
NCKH của các đảng ủy HV,TSQ quân đội.


15


1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng, cấp
ủy, tổ chức đảng đối với các lĩnh vực
Khoa Công tác đảng, công tác chính trị, Học viện Chính trị (2016), Đề tài
khoa học cấp Học viện “Nâng cao năng lực lãnh đạo của các chi bộ khoa giáo
viên ở Đảng bộ Học viện Chính trị hiện nay” do Đại tá TS Nguyễn Trường
Sơn làm chủ nhiệm [85]. Đề tài luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản lý luận,
thực tiễn về nâng cao năng lực lãnh đạo và đề xuất những giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo của các chi bộ khoa giáo viên ở Đảng bộ Học viện Chính trị
hiện nay. Đề tài khẳng định rõ vai trò của Đảng ủy Học viện trong nâng cao
năng lực lãnh đạo của các chi bộ khoa giáo viên, nâng cao năng lực lãnh đạo
của các chi bộ khoa giáo viên phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Học
viện, đây là cơ sở, điều kiện thuận lợi đảm bảo cho hoạt động nâng cao năng
lực lãnh đạo của các chi bộ khoa giáo viên đi đúng hướng, vạch ra mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo sát đúng, theo đó Đảng ủy học
viện phải thường xuyên nắm chắc tình hình nhiệm vụ, có nghị quyết lãnh đạo,
chỉ đạo sát với chức năng, nhiệm vụ của khoa giáo viên. Việc khẳng định vị
trí, vai trò sự lãnh đạo của Đảng ủy đối với nâng cao năng lực lãnh đạo của
các chi bộ là một nhiệm vụ trong sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ủy đối với
các mặt công tác trong Học viện, là cơ sở để nghiên cứu sinh vận dụng vào
nghiên cứu sự lãnh đạo của đảng ủy đối với nhiệm vụ NCKH.
Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2017), Các đảng bộ trường đại học công lập
ở Thành phố Hà Nội lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo đại học giai
đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học [72]. Luận án khẳng định, các
đảng bộ trường đại học lãnh đạo nâng cao chất lượng đào tạo trình độ đại
học là toàn bộ các hoạt động của các đảng bộ trường đại học công lập đề ra
chủ trương, nghị quyết đúng đắn về trình độ đại học; tổ chức, động viên mọi
nguồn lực tham gia với tinh thần chủ động sáng tạo, kiểm tra, giám sát quá
trình thực hiện nhằm đảm bảo và không ngừng cải thiện các yếu tố biện

chứng cấu thành nên chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn


16

nhân lực cho sự pháp triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước ở
mỗi thời kỳ. Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn, tác giả đề
xuất những giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của các đảng bộ trường đại
học công lập ở Hà nội đối với nâng cao chất lượng công tác đào tạo: nâng
cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, trước hết là
ban thường vụ, thường trực đảng ủy, cán bộ chủ chốt; lãnh đạo tăng cường
công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ, giảng viên; đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy và
mối quan hệ công tác trong các trường đại học công lập; nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác hợp tác và chuyển giao công nghệ đào tạo trình độ
đại học; coi trọng công tác phát triển đảng viên, phát huy vai trò của các tổ
chức quần chúng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ,
đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác đào tạo
trình độ đại học. Tuy nhiên, Luận án chưa đề cập đến việc lãnh đạo nâng cao
chất lượng NCKH là yếu tố quan trọng đề lãnh đạo nâng cao chất lượng đào
tạo đại học ở các trường công lập ở Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Tập tài liệu cao cấp lý luận
chính trị môn Khoa học Lãnh đạo do phó giáo sư, tiến sĩ Trần Thị Thanh Thủy chủ
biên [77]. Tập tài liệu trình bày nhiều nội dung về những vấn đề cơ bản về lãnh đạo
công; tư duy hệ thống trong lãnh đạo; ra quyết định lãnh đạo; một số kỹ năng và công
cụ lãnh đạo; nghệ thuật lãnh đạo; hoạch định và thực thi chính sách công. Trong phần
Những vấn đề cơ bản về lãnh đạo công, với cách tiếp cận lãnh đạo là một chức năng
xã hội bắt nguồn từ tính chất của quá trình lao động trong bối cảnh tổ chức, các tác
giả đã so sánh giữa quản lý và lãnh đạo trong tổ chức, đưa ra những sự tương đồng và
và sự khác biệt giữa hai quan niệm này. Xét về bản chất lãnh đạo và quản lý đồng

nhất về bản chất là cùng nỗ lực vì mục tiêu. Sự khác biệt nằm ở quá trình và cách
thức thực hiện để đạt được mục tiêu đó và khẳng định lãnh đạo là nỗ lực huy động sự
cam kết và cống hiến của các bên tham gia thông qua sức hấp dẫn của tầm nhìn,
chiến lược và đạo đức. Trong tập tài liệu này, các tác giả chỉ phân tích “lãnh đạo”
chung chung, chứ chưa gắn vào một tổ chức cụ thể, nhưng đây là nội dung có thể


17

tham khảo, vận dụng vào nghiên cứu hoạt động lãnh đạo với cách tiếp cận là chức
năng cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Phú Trọng (2015), Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân
Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số 867, tr 6-11 [132]. Tác giả đã khẳng định sự
lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến
những thành tựu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Sự lãnh đạo đó được thực hiện thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ
thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp
và tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở. Đồng thời, tác giả cũng xác định, cần
thống nhất nhận thức bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải kiên
định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt
Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội luôn vận hành thông suốt, đạt hiệu quả
cao; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao
của Đảng bộ quân đội và nâng cao hiệu lực của CTĐ,CTCT. Tập trung kiện
toàn hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo toàn diện.
Bài viết là cơ sở để nghiên cứu sinh vận dụng khẳng định vai trò lãnh
đạo của các đảng ủy HV,TQS đối với mọi mặt công tác, trong đó lãnh đạo
nhiệm vụ NCKH là một trong những nội dung trọng tâm trong hoạt động lãnh
đạo của các đảng ủy HV,TQS quân đội.

Phạm Huy Tập (2016), Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức đảng ở Bộ đội Biên phòng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 3/2016
[123]. Trên cơ sở nghiên cứu nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp ở
Bộ Tư lệnh Biên phòng và thực trạng công tác xây dựng Đảng trong thời gian
qua; tác giả nhận định: nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng
các tổ chức đảng trong Bộ đội biên phòng TSVM là khâu then chốt, nhằm xây
dựng Bộ đội Biên phòng VMTD, lãnh đạo thực hiện tốt công tác biên phòng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia. Theo tác giả, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của


18

các tổ chức đảng trong Bộ đội Biên phòng cần tập trung thực hiện tốt một
số nội dung, giải pháp chủ yếu như: tăng cường xây dựng Đảng bộ về
chính trị, tư tưởng, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ; chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, coi trọng tự phê bình và phê bình, xây dựng
nghiêm quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo các mặt công tác chính của cấp
ủy các cấp; xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình hành động
thực hiện nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ Quân đội, Nghị quyết của
Đảng bộ Bộ đội Biên phòng; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội
ngũ cán bộ chủ trì các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ững yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đối với tổ chức đảng, đảng
viên; tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng TSVM, nâng cao chất lượng
xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nguyễn Văn Chung (2019), Nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của các đảng ủy HV,TSQ quân đội hiện nay

[14]. Tác giả đã luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và
nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của các
đảng ủy HV,TSQ quân đội; trên cơ sở đánh giá thực tiễn, tác giả đã đề xuất
những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục và
đào tạo của các đảng ủy HV,TSQ quân đội hiện nay, đó là: Tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng; tiếp tục
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào
tạo của các đảng ủy học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay; củng cố,
kiện toàn cấp ủy, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cấp ủy viên, cán
bộ chủ trì các cấp; lãnh đạo xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và tổ chức thực
hiện nghiêm quy chế giáo dục và đào tạo; phát huy sức mạnh tổng hợp trong
nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của các
đảng ủy HV,TSQ quân đội hiện nay.


19

1.2.2. Các công trình liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và sự
lãnh đạo của Đảng, cấp ủy, tổ chức đảng đối với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
Lê Thị Thanh Chung (2005), Biện pháp nâng cao chất lượng NCKH
giáo dục của sinh viên đại học sư phạm [13]. Trên cơ sở làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn, tác giả đã đề xuất ba nhóm giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng NCKH giáo dục của sinh viên Đại học Sư phạm: nhóm giải
pháp tác động tâm lý, ý thức cho sinh viên NCKH giáo dục; nhóm giải
pháp bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng NCKH giáo dục; nhóm giải pháp bảo
đảm điều kiện cho sinh viên thực hành NCKH giáo dục. Luận án đã khẳng
định vai trò quan trọng của nâng cao chất lượng NCKH giáo dục của sinh
viên đại học sư phạm, tuy nhiên chưa bàn về vai trò quyết định sự lãnh đạo
của đảng đối với hoạt động này.
Phạm Xuân Thụ (2005), Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động

NCKH quân sự ở Học viện Chính trị hiện nay [80] đã làm rõ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn của hoạt động NCKH quân sự, đề xuất một số giải pháp nâng
cao chất lượng NCKH quân sự ở các khoa quân sự tại Học viện Chính trị.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động NCKH quân sự ở Học
viện Chính trị, Đề tài đã rút ra một số kinh nghiệm, trong đó khẳng định phải
thường xuyên coi trọng việc giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
cấp ủy đảng, chỉ huy các cấp. Tuy nhiên, Đề tài chưa đề cập đến vai trò lãnh
đạo xuyên suốt, có tính chất quyết định của Đảng ủy Học viện.
Hoàng Thị Nhị Hà (2009), Quản lý NCKH ở các trường đại học sư
phạm [71]. Tác giả khẳng định, NCKH trong các trường đại học vó vai trò
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển khoa học và
nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội; từ lý
luận và thực tiễn Luận án đề xuất năm giải pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng NCKH ở các trường đại học sư phạm: hoàn thiện cơ chế, chính
sách quản lý NCKH; hoàn thiện tổ chức, bộ máy quản lý hoạt động NCKH;
cải tiến quy trình xây dựng kế hoạch, tiêu chí đánh giá và quản lý đề tài
NCKH; bảo đảm các điều kiện cho hoạt động NCKH; nâng cao năng lực


20

NCKH cho giảng viên ở các trường đại học sư phạm. Những giải pháp
được tác giả đề xuất chủ yếu là những tác động trên phương diện công tác
quản lý NCKH, song cần đặt công tác này dưới sự lãnh đạo của các đảng ủy
trường đại học sư phạm để có những định hướng, chủ trương, biện pháp tổ
chức thực hiện thống nhất, xuyên suốt, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
trong nâng cao chất lượng quản lý NCKH.
Nguyễn Sĩ Lộc, (1997), Quản lý KH&CN [96]. Trong cuốn sách này, tác
giả đã trình bày khái quát về khoa học quản lý, nội dung và đặc điểm quản lý
KHCN, chiến lược phát triển và chính sách KHCN; các nội dung về quản lý hoạt

động, các nguồn lực KHCN. Đây là cơ sở để nghiên cứu sinh tiếp cận, vận dụng
gắn công tác quản lý NCKH với hoạt động lãnh đạo nhiệm vụ NCKH.
Tô Xuân Sinh (2007), Nâng cao chất lượng công tác đảng công tác chính
trị ở các cơ quan, viện NCKH công nghệ của Quân đội hiện nay [144]. Cuốn sách
gồm ba phần: một số vấn đề lý luận và thực tiễn chất lượng CTĐ,CTCT ở các cơ
quan, viện nghiên cứu KHCN của Quân đội; thực trạng chất lượng CTĐ,CTCT ở
các cơ quan, viện nghiên cứu KHCN của Quân đội; dự báo tình hình và giải pháp
chủ yếu nâng cao chất lượng CTĐ,CTCT ở các cơ quan, viện nghiên cứu KHCN
của Quân đội trong thời kỳ mới. Các tác giả đã đề cập đến mối quan hệ giữa
CTĐ,CTCT với hoạt động NCKH và các mặt công tác khác và khẳng định vai trò
của CTĐ,CTCT trong xây dựng đảng bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo; xác
định các giải pháp nâng cao chất lượng CTĐ,CTCT ở các cơ quan, viện nghiên
cứu KHCN của Quân đội cần làm cho các tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo có nhận
thức đúng đắn về vị trí vai trò của CTĐ,CTCT, nâng cao trách nhiệm đối với hoạt
động CTĐ,CTCT ở cơ quan, viện nghiên cứu.
Trần Thái Bình (2011), Đẩy mạnh công tác NCKH, phát triển nghệ
thuật quân sự đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc [9]. Bài viết đã khái quát một
số đặc điểm, tình hình dẫn đến yêu cầu phải đẩy mạnh công tác NCKH, phát
triển nghệ thuật quân sự, đồng thời chỉ ra những hạn chế của công tác này, từ
đó tác giả đề xuất năm giải pháp: tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng trong công tác NCKH, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam


21

trong tình hình mới; bám sát đặc điểm, yêu cầu của chiến tranh nhân dân bảo
vệ tổ quốc trong điều kiện mới; NCKH, phát triển nghệ thuật quân sự cần lựa
chọn nội dung tập trung, trọng điểm, có tính đột phá cao; không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học và các hội đồng khoa
học trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự; tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế

về NCKH, phát triển nghệ thuật quân sự.
Cao Tiến Hinh (2011), Đẩy mạnh hoạt động khoa học, công nghệ và
môi trường trong quân đội dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
[74]. Trong bài viết, tác giả khẳng định Khoa học, công nghệ và môi trường là
những vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đặc biệt là trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Cùng với giáo dục và đào tạo, KH&CN còn
được Đảng ta xác định là quyết sách hàng đầu để phát triển, đồng thời khái quát
một số kết quả đạt được trong thực hiện hoạt động khoa học, công nghệ và môi
trường trong quân đội từ đó đề xuất một số giải pháp như: Quán triệt sâu sắc và cụ
thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ và bảo
vệ môi trường vào hoạt động thực tiễn trong quân đội; tiếp tục đổi mới công tác
quản lý và nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách về phát triển, ứng dụng
KHCN&MT quân sự; chú trọng phát triển nguồn lực khoa học, công nghệ quân
sự; tăng cường hợp tác trong hoạt động KHCN&MT quân sự.
Trường Sĩ quan Chính trị (2016), Đào tạo cán bộ chính trị cấp phân
đội dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng [137] có một số bài viết
bàn về nhiệm vụ NCKH ở Trường Sĩ quan Chính trị. Tiêu biểu như:
Vũ Văn Thường, Gắn kết NCKH với đổi mới giáo dục, đào tạo ở
Trường Sĩ quan Chính trị dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
[137, tr.173-181]. Tác giả đã khái quát những kết quả NCKH của Nhà
trường đã đạt được và khẳng định những kết quả của hoạt động NCKH đã
trực tiếp góp phần phát triển những vấn đề mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
giáo dục đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội và giáo viên KHXHNV quân
sự, đồng thời đề xuất một số giải pháp gắn kết hoạt động NCKH với đổi
mới giáo dục đào tạo.


22

Phạm Hồng Quân, Nâng cao chất lượng ứng dụng kết quả nghiên cứu

vào quá trình học tập của học viện Trường Sĩ quan Chính trị dưới ánh sáng
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng [137, tr.182-190]. Bài viết tiếp cận trên cơ
sở các quan điểm của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng để khẳng định vai trò,
ý nghĩa của việc ứng dụng kết quả NCKH vào trong quá trình học tập của học
viên; trình bày đánh giá khái quát chất lượng ứng dụng kết quả NCKH vào
quá trình học tập của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị, nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế và đề xuất 04 giải pháp nâng cao chất lượng ứng dụng kết
quả nghiên cứu vào quá trình học tập của học viện Trường Sĩ quan Chính trị.
Tuy nhiên, các tác giả không đề cập đến vai trò lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, nhất là vai trò quyết định của sự lãnh đạo của Đảng ủy Nhà trường đối
với nhiệm vụ NCKH.
Phạm Quốc Trung với bài viết Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng [137, tr.9-21] khẳng định: Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Sĩ quan Chính trị
đã lãnh đạo chỉ đạo đổi mới mạnh mẽ giáo dục, đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xứng đáng
là trường trọng điểm của Quân đội; Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường đã
xác định và có quyết tâm cao trong giải quyết sự thiếu hụt đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục; thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu quả
phối hợp của các cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị học viên trong đổi mới
phương pháp dạy học.
Một số bài viết khác của các tác giả Nguyễn Văn Sơn, Đinh Quang
Tuấn, Nguyễn Văn Chung, Nguyễn Văn Đủ, Lê Nguyên Đương tuy tiếp cận
trên nhiều phương diện khác nhau về công tác giảng dạy, hoạt động dạy - học,
phát triển đội ngũ nhà giáo, đào tạo nguồn nhân lực, song đều bám sát vào các
quan điểm, chủ trương của Đảng, nhất là tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
từng nhiệm vụ, ở từng đơn vị nói riêng, trong đó có các HV,TQS quân đội.



23

Với những cách tiếp cận khác nhau, song các bài viết đều khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với từng nhiệm vụ, từng mặt công tác trong
hoạt động đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội. Tuy nhiên các tác giả chưa
khai thác trên phương diện lãnh đạo nhiệm vụ NCKH, đây là cơ sở để nghiên
cứu sinh khẳng định vấn đề nghiên cứu đã chọn là mới và vận dụng vào trong
quá trình nghiên cứu.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học “Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý khoa học đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới” [76]. Cuốn sách đã đề cập tới nhiều nội dung liên quan đến lý
luận và thực tiễn hoạt động quản lý khoa học, trong đó có bàn về vai trò của
hoạt động quản lý khoa học, những đặc điểm chi phối của quản lý khoa học
đến công tác giáo dục đào tạo, trình bày những giải pháp đổi mới, nâng cao
chất lượng quản lý khoa học ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
trong đó khẳng định bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý khoa học là một trong
những giải pháp quan trọng, cấp thiết.
Các tác giả đã luận giải một cách khá toàn diện về tính cấp thiết, làm
rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn quản lý hoạt động khoa học,
trong đó có bàn đến xây dựng và hoạt động của cơ quan quản lý khoa học ở
các học viện, nhà trường. Các công trình đều cho rằng, để nâng cao chất
lượng hoạt động của cơ quan quản lý khoa học phải thường xuyên giáo dục
nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các tổ chức, các lực lư ợng, trước hết
là cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì, mọi cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý khoa học; thường xuyên bám sát thực
tiễn, kịp thời bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý khoa học và hệ thống các
văn bản hướng dẫn, mẫu biểu đi kèm để khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực khoa học phục vụ mục tiêu công tác giáo dục đào tạo, đáp ứng

yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động hoạt động quản lý KHCN; tổ chức
tốt việc bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực công tác của đội
ngũ cán bộ làm công tác quản lý KHCN.


24

Trần Đắc Hiên (2005), Để phát triển nguồn nhân lực KH&CN [73].
Tiếp cận trên cơ sở phân tích những hạn chế sự đóng góp của đội ngũ nhân
lực KH&CN thể hiện qua các kết quả KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, tác giả đã chỉ rõ nguyên nhân của những
hạn chế đó và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực KH&CN là
phải có hệ thống chính sách về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử
dụng nhân lực KH&CN hợp lý và đồng bộ; Tổ chức thực hiện nghiêm túc
Quy hoạch phát triển nhân lực ngành KH&CN giai đoạn 2011-2020 theo
Quyết định số 4009/QĐ-Bộ KH&CN ngày 29-12-2011 của Bộ trưởng Bộ
KH&CN, bảo đảm phát triển đồng bộ nhân lực trong các lĩnh vực KH&CN.
Tăng quy mô, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN, nhất là trong
các lĩnh vực công nghệ ưu tiên, công nghệ cao. Có chính sách khuyến khích,
động viên các nhà khoa học trẻ say mê phấn đấu theo đuổi và gắn bó lâu dài
với sự nghiệp KH&CN; Thực hiện có hiệu quả các chính sách, đề án về đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN đã được ban hành; Đổi mới chính sách thu
hút, đãi ngộ, sử dụng, trọng dụng, tôn vinh cá nhân hoạt động KH&CN; Tạo
lập môi trường, điều kiện làm việc chuyên nghiệp, dân chủ theo thông lệ
quốc tế, phù hợp với đặc thù của hoạt động sáng tạo KH&CN để thu hút và
giữ chân được các nhà khoa học giỏi ở trong nước và nước ngoài; Đổi mới
chính sách tuyển dụng, đánh giá và bổ nhiệm vào vị trí công tác, chức danh
khoa học một cách xứng đáng dựa trên những kết quả, đóng góp thực tế
trong NCKH và phát triển công nghệ nhằm tạo động lực nghiên cứu sáng tạo
cho các nhà khoa học tài năng; Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động có hiệu quả

các nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước, nhất là từ doanh nghiệp cho
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
Nguyễn Phương Đông (2009), “Gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ ở
Học viện Chính trị” [69, tr.44-47] Tác giả đã tiếp cận và lý giải khá sâu sắc
về mối quan hệ biện chứng giữa NCKH với đào tạo tiến sĩ ở Học viện
Chính trị và khẳng định: “Chất lượng của hai hoạt động này có quan hệ
gắn bó mật thiết với nhau, trong đó chất lượng NCKH có vai trò trực tiếp
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo”.


25

Để gắn kết NCKH với đào tạo tiến sĩ ở Học viện trong giai đoạn tới, theo
tác giả cần: nâng cao trình độ, khả năng và phương pháp NCKH của đội ngũ
giảng viên, cán bộ khoa học và nghiên cứu sinh ở Học viện; tăng hàm lượng khoa
học vào hoạt động giảng dạy, tổ chức tốt NCKH của nghiên cứu sinh; tăng cường
liên kết trong đào tạo tiến sĩ và NCKH giữa Học viện với các cơ sở đào tạo,
NCKH trong và ngoài quân đội... Những nội dung trong bài báo của tác giả
Nguyễn Phương Đông là cơ sở có giá trị để nghiên cứu sinh nghiên cứu luận giải
mối quan hệ giữa NCKH với giáo dục - đào tạo ở các HV,TQS quân đội.
Tô Lâm (2017), Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu dự báo chiến
lược nhằm chủ động bảo vệ vững chắc an ninh, trật tự trong tình hình mới [92].
Tác giả khẳng định: dự báo chiến lược là một nhiệm vụ rất quan trọng, thường
xuyên của Đảng, Nhà nước và của các cấp, các ngành. Nhiệm vụ này thường
được giao cho các viện nghiên cứu chiến lược, các cơ quan tham mưu tổ chức
nghiên cứu, phân tích, dự báo tình hình, làm cơ sở để tham mưu, đề xuất việc
hoạch định đường lối, chính sách, biện pháp ứng phó kịp thời với các tình huống
xảy ra. Bên cạnh việc khẳng định những kết quả đã đạt được, tác giả đã chỉ ra
những hạn chế trong công tác nghiên cứu dự báo chiến lược của lực lượng công
an nhân dân, từ đó, đề xuất một số nội dung cần tập trung thực hiện tốt là: tiếp tục

quán triệt thực hiện quan điểm, đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng được nêu
trong Văn kiện Đại hội XII và Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25-10-2013, của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới”; tập trung chỉ đạo công tác tổ chức, nắm và phân tích, tổng hợp tình
hình, dự báo tình hình quốc tế và khu vực; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan nghiên cứu chiến lược chuyên trách; đẩy mạnh quan hệ quốc tế về nghiên
cứu dự báo chiến lược; kiện toàn tổ chức, nâng cao trình độ, năng lực và hiệu quả
hoạt động của cơ quan chuyên trách nghiên cứu chiến lược về an ninh, trật tự.
Huỳnh Minh Chiến (2017), Các mạng công nghiệp 4.0 và những thách
thức đặt ra đối với giáo dục - đào tạo, NCKH tại Học viện Phòng không - Không
quân [11], tác giả đã chỉ ra những đặc trưng của các mạng công nghiệp 4.0 và
những cơ hội và thách thức từ đó mang lại, đồng thời chỉ ra một số vần đề về


26

NCKH của Học viện Phòng không - Không quân là chú trọng những định hướng
và giải pháp phát triển NCKH trong Học viện, nhiệm vụ NCKH gắn liền với
nhiệm vụ đào tạo của giảng viên; xây dựng chiến lược phát triển nghiên cứu phù
hợp với đặc điểm của Học viện, của Quân chủng; xác định những lĩnh vực ưu tiên
phát triển; xây dựng cơ chế đánh giá cán bộ, đánh giá năng lực nghiên cứu đi kèm
với các chính sách khuyến khích đãi ngộ phù hợp; tạo môi trường NCKH thuận
lợi.
Ngô Văn Giao (2019), Đẩy mạnh công tác khoa học, công nghệ và môi
trường quân sự trong tình hình mới [70, tr.8-11]. Tác giả đã khái quát những kết
quả đạt được, đồng thời phân tích những khó khăn cơ bản trong công tác khoa
học, công nghệ và môi trường trong quân đội, từ đó đề xuất 03 nội dung cơ bản
cần thực hiện trong toàn quân, đó là: tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
người chỉ huy các cấp đối với hoạt động khoa học, công nghệ và môi trường
quân sự; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học,

đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; đẩy mạnh đầu tư xây dựng, phát triển nguồn lực
khoa học, công nghệ và môi trường quân sự. Tuy nhiên, tác giả chưa đặt các nội
dung, biện pháp đó là những nội dung cụ thể cần được thực hiện thống nhất về
mặt đường lối, phương hướng, chủ trương dưới sự lãnh đạo của Đảng
Tóm lại, các công trình khoa học trên đã đề cập đến những vấn đề liên
quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động lãnh đạo của đảng trên
nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, về nâng cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH
của các đảng ủy HV,TQS quân đội, nhất là các quan niệm, các yếu tố quy
định và tiêu chí đánh giá cũng như hệ thống các giải pháp nâng cao chất
lượng lãnh đạo nhiệm vụ NCKH của các đảng ủy HV,TQS quân đội vẫn chưa
được các tác giả nghiên cứu một cách đầy đủ, chặt chẽ, logic.
1.3. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công
bố và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
1.3.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình khoa học đã công bố
Một là, các công trình tiếp cận nhiệm vụ NCKH là đối tượng của hoạt
động tổ chức, quản lý khoa học nói chung gắn với công tác giáo dục đào tạo;


×