Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Chương 4: ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.4 KB, 15 trang )

Chương IV
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. LÃNH ĐẠO TRONG TỔ CHỨC
1. Khái niệm về lãnh đạo:
Theo quan niệm chuyên chế, lãnh đạo là điều khiển công việc
theo ý muốn của mình để đạt mục tiêu do mình đặt ra. Trong trường
hợp này, người lãnh đạo thường dùng những biện pháp cưỡng bức
như dọa nạt, trừng phạt, mà không chú trọng đến nguyện vọng, nhu
cầu của người dưới quyền.
Theo quan niệm dân chủ: lãnh đạo là dìu dắt và điều khiển công
việc để đạt mục tiêu mong muốn. Như vậy lãnh đạo là hoạt động có
ảnh hưởng tới người khác để tạo ra tinh thần hợp tác, sự tự nguyện
vui vẻ đảm đương nhệm vụ và đặt mục tiêu mà mọi người đều công
nhận là hấp dẫn.
Hai quan niệm tuy nhấn mạnh những sắc thái khác nhau của
lãnh đạo nhưng đều nói lên hai nhân tố chung của nó là hiện tượng
nhóm và quá trình ảnh hưởng của nhóm. Lãnh đạo là một hiện tượng,
phải có ít nhất là hai người trở lên mới xuất hiện sự lãnh đạo. Lãnh
đạo liên quan đến quá trình ảnh hưởng, người lãnh đạo trước hết có
ảnh hưởng tới người dưới quyền, để đạt mục đích là tập hợp mọi
người và động viên thức đẩy họ đạt được những mục tiêu chung.
+ Có thể nói lãnh đạo là sự ảnh hưởng và cách xử sự của một số
người trong mỗi nhóm hoặc tổ chức, đặt ra mục tiêu, vạch ra con
đường để đạt tới những mục tiêu đó và tạo ra những qui tắc xã hội
trong nhóm
+ Lãnh đạo là sự tác động vào con người với tư cách là những
cá nhân hoặc những tập hợp người nhất định nhằm thiết lập,củng cố,
duy trì và phát triển các quan hệ và thể chế đảm bảo cno cá nhận và
các tập hợp nguời ấy hoạt động có hiệu quả nhất
Phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý


Cán bộ lãnh đạo
+ Khả năng đề ra đường lối chính sách.
+ Khả năng xác định mục tiêu lâu dài
+ Khuyến khích cỗ vũ gây ảnh hưởng đến con người.
+ Gắn liền với thay đổi tìm hướng đi mới
Cán bộ quản lý
+ Khả năng tổ chức thực hiện
+ Xác định mục tiêu ngắn hạn kế hoạch tác nghịệp cụ thể hóa
+ Giám sát kiểm tra đánh giá việc thực hiện.
+ Sử dụng con người.
+ Gắn liền với sự ổn định, hiệu lực thực thi kêt quả cụ thê
Lãnh đạo được hiểu là sự tác động như một nghệ thuật hay một
quá trình đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu
để đạt được các mục tiêu của tổ chức.
Chức năng chủ yếu của lãnh đạo là động viên thúc đẩy nhằm
khai thác tiềm năng của con người vì mục tiêu của tổ chức.
Phân biệt giữa thủ lĩnh và lãnh đạo theo các khía cạnh sau đây:
- Thủ lĩnh: thực hiện sự điều hoà quan hệ giữa cá nhân trong
nhóm không chính thức, còn lãnh đạo thực hiện sự điều chỉnh quan hệ
xã hội chính thức của nhóm với tư cách là một tổ chức xã hội.
- Thủ lĩnh thường xuất hiện một cách tự phát, còn lãnh đạo được
bổ nhiệm hoặc bầu ra. Hoạt động của lãnh đạo có mục đích dưới sự
kiểm soát của các cơ cấu khác nhau của xã hội.
- Tính ổn định: Lãnh đạo có tính ổn định cao hơn thủ lĩnh.
- Lãnh đạo điều hành các quan hệ xã hội bằng quy chế, hệ thống
pháp luật…còn thủ lĩnh thường đặt lệ, theo lệ do nhóm ước lệ.
- Lãnh đạo có thể là một nhóm người, còn thủ lĩnh là một cá nhân.
Như vậy thủ lĩnh và lãnh đạo đều có chức năng điều khiển hoạt
động chung của nhóm và điều chỉnh mối quan hệ trong nhóm nhưng
bằng các phương thức khác nhau . Một bên là bắt buộc, một bên là tự

giác.
2. Ê kíp lãnh đạo
Thuật ngữ ê kíp dùng để chỉ tập hơp người cùng thực hiện công
việc chung với sự tương hợp tâm lý cao.
“Ê kíp là một nhóm người làm việc ăn ý với nhau”
Tâm lý học lãnh đạo quản lý xác định: Ê kíp là một nhóm người
cùng nhau tiến hành một hoạt động chung trong đó các thành viên có
chức năng và trách nhiệm rõ ràng, có sự tương hợp tâm lý cao và phối
hợp hành động chặt chẽ.
Ê kíp lãnh đạo thực chất là một nhóm người lãnh đạo, quản lý,
điều hành công việc và các quan hệ xã hội trong nhóm. Hoạt động của
Ê kíp lãnh đạo dựa trên nền tảng nhiệm vụ chính trị của tổ chức, mục
đích và lợi ích của nhóm, của sự tương hợp tâm lý và phối hợp hành
động chặt chẽ ở mức độ cao.
Để nhận diện là một êkíp lãnh đạo, người ta thường căn cứ vào
một số dấu hiệu sau đây:
- Thống nhất về động cơ, mục đích hoạt dộng ; đây là sự biểu hiện
cơ bản của tương đồng về tâm lý của các thành viên trong một êkíp
lãnh đạo. Có cùng mục đích chung nhưng quan trong hơn phải có hệ
thống động cơ nhằm đạt mục đích thống nhất với nhau.
- Thống nhất cao về lợi ích : Lợi ích là hạt nhân của bất kỳ ê kíp
lãnh đạo nào Lợi có thể là tinh thần, có thể là vật chất song phải có sự
điều hoà phù hợp và thống nhất. Sự điều hoà về lợi ích không công
bằng thường là nguyên nhân dẫn đến trình trạng không hình thành ê
kíp, ê kíp hỏng và tổ chức tan rã.
- Thống nhất về nhu cầu thành đạt;
Nhu cầu thành đạt sẽ trở thành động lực thúc đẩy các thành viên
trong lãnh đạo phối hợp hành động, giúp họ năng động tìm tòi các
biện phápquản lý chuyên môn một cách có hiệu quả.
- Thống nhất trong tìm tòi và sử dụng các biện pháp và phương

pháp quản lý nhằm đảm bảo cho các tác động của lãnh đạo đến đối
tượng quản lý thể hiện được ý chí chung của ban lãnh đạo phù hơp
với quy luật khác quan.
- Có sự phân công nhiệm vụ và bố trí công việc khoa học phù
hợp với năng lực sở trường của mỗi thành viên trong êkíp. Điều này
cho phép mỗi thành viên phát huy tối đa tiềm năng của mình và tạo
điều kiện cho sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cá nhân trong êkíp
lãnh đạo, tạo sức mạnh tổng hợp của lãnh đạo.
- Vai trò thủ trưởng trong êkíp lãnh đạo được đề cao:
Thủ trưởng trong ê kíp lãnh đạo có vai trò tổ chức, điều khiển,
kiếm tra, đánh gía hoạt động của các thành viên một cách công bằng
và khách quan. Khi vai trò của thủ trưởng được đề cao, được coi là
linh hồn của một êkíp lãnh đạo thì ê kíp lãnh đạo hoạt động đồng bộ và
có hiệu quả.
- Êkíp không tồn tại vĩnh viễn:
Sự tồn tại của êkíp lãnh đạo phụ thuộc vào mục tiêu hoạt động
chung và người đứng đầu êkíp. Khi mục tiêu hoạt động thay đổi thì,
thủ trưởng thay đổi, êkíp mới lại được hình thành. Khi thay đổi người
lãnh đạo cao nhất, bộ máy quản lý sẽ có những xáo trộn. Đây là điều
hợp lý.
Trong thực tế có ê kíp lãnh đạo tích cực và ê kíp lãnh đạo tiêu
cực. Điều đó phụ thuộc vào động cơ của ê kíp. Động cơ ê kíp lãnh đạo
tiêu cực thì nhằm thoả mãn nhu cầu lợi ích cá nhân, cụa bô của các
thành viên , động cơ ê kíp lãnh đạo tích cực không chỉ dừng ở chỗ đáp
ứng nhu cầu cá nhân của các thành viên mà còn đáp ứng đòi hỏi cả
tập thể và của xã hội.
II.NĂNG LỰC TỔ CHỨC CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1.Khái niệm:
Năng lực là khái niệm dùng để chỉ những đặc điểm tâm lý, nhân
phẩm của cá nhân nào đó đảm bảo cho cá nhân ấy họat động được

và hoạt động có hiệu quả trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định.
Năng lực lãnh đạo quản lý là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất
tâm lý của cá nhân nhất định, tham gia và đảm bảo cho họ có thể chí
huy, điều khiển, điều hành các công việc tổ chức khác nhau mang lại
hiệu quả. Đó là tòan bộ những đặc điểm và phẩm chất tâm lý cần có
và phải có để người lãnh đạo có thể và đảm nhận tốt vai trò của mình,
có thể và thực hiện tốt chức năng của mình với tư cách là người chỉ
huy, người đứng đầu tổ chức “người họat động chính trị, chuyên môn,
giáo dục”.
Những đặc điểm tâm lý như vậy thường không có sẵn trong cá
nhân, mà phải được tạo ra, hình thành bằng giáo dục, bằng họat động
Nhà quản lý phải thực hiện nhiều chức năng quản lý như tổ chức,
họach định, kiểm tra, trong đó tổ chức là chức năng đặc biệt quan
trọng
Năng lực tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu suất lao
động của người lãnh đạo.Trong điều kiện giống nhau về nguồn lực,
môi trường người lãnh đạo nào có năng lực tổ chức tốt, người đó sẽ
gặt hái nhiều thành công hơn.
2. Cấu trúc của năng lực tổ chức.
Dựa theo quan điểm của tâm lý học nhân cách khi nghiên cứu nhân
cách người lãnh đạo có thể mô tả cấu trúc năng lực tổ chức của người
lãnh đạo như sau

Cấu trúc năng lực tổ chức của người lãnh đạo
- 2.1Các đặc điểm chung.
Đó là những chức năng tâm lý phổ biến của mọi cá nhân.
Đây là những đặc điểm làm cơ sở, nền tảng cho cho sự hình
thành năng lực tổ chức ở người lãnh đạo. Các đặc điểm này bao gồm
xu hướng cá nhân, sự đào tạo về hoạt động tổ chức và những phẩm
chất chung cần thiết.

+ Xu hướng cá nhân:
Nổi bật trước hết ở lý tưởng, lập trường giai cấp, tính tư tưởng và
đạo mới
+ Sự đào tạo về hoạt động tổ chức.
Bao gồm vốn kiến thức văn hóa và khoa học (chuyên môn, và
nhất là khoa học quản lý) cùng kinh nghiệm tương ứng với yêu cầu
của công tác được giao.
+ Một số phẩm chất chung cá nhân:(Gọi là chung vì cả những
người không có năng lực tổ chức cũng có thể có phẩm chất này)
- Sự nhanh trí
Các đặc điểm cá biệt
Các đặc điểm chuyên biệt
Các đặc điểm chung
Nhà tổ
chức giỏi
Nhà tổ
chức
- Tính cởi mở
- Óc suy xét sâu sắc
- Tính tích cực hoạt động
- Óc sáng kiến
- Tính kiên trì
- Tính tự kiềm chế
- Khả năng làm việc bền lâu
- Tính Tổ chức, tính tự lập
Những phẩm chất kể trên có thể phát triển cao hay thấp ở từng
người, song không thể thiếu được một phẩm chất nào.
Những phẩm chất rất quan trọng trong đặc điểm chung cấu thành
năng lực tổ chức là sự linh hoạt mềm dẻo của trí tuệ,
Tính kiên quyết, sự tự kiềm chế, thể hiện ý chí của nguời lãnh

đạo. Người lãnh đạo có ý chí sẽ có sư hăng hái, có khát vọng mong
muốn thành đạt.
Khả năng quan sát và óc sáng tạo là yếu tố không thể thiếu trong
năng lực tổ chức của người lãnh đạo. Khả năng quan sát giúp người
lãnh đạo thu nhận thông tin qua đó nắm bắt được cái chung, cái toàn
thể để hiểu cái riêng cái cụa bộ một cách sâu sắc.
Óc sáng tạo là yếu tố giúp người lãnh đạo có những giải pháp
trong những tình huống độc đáo xẩy ra. Óc sáng tạo luôn giúp người
lãnh đạo tìm ra cái mới, đổi mới phương thức làm việc để nâng cao
hiệu quả của mình .
2.2. Các đặc điểm chuyên biệt:
Đây là những phẩm chất tâm lý đặc biệt, nếu không có nó thì
không có năng lực tổ chức
Các đặc điểm chuyên biệt của năng lực tổ chức gồm:
+ Sự nhạy cảm về tổ chức (linh cảm tổ chức, hay trực giác tổ
chức)
Thứ nhất: là sự tinh nhạy về tâm lý: Nhận biết được phẩm chất
và năng lực của người khác, đồng cảm với người khác
Thứ hai: sự khéo léo ứng xử về mặt tâm lý
Thứ ba: có đấu óc tâm lý- thực tế, tức là biết đặt mỗi người vào
vị trí thích hợp để đóng góp tốt nhất nhiều nhất cho công việc chung
+ Khả năng lan truyền nghị lực và ý chí khơi dậy ở mọi người
tính tích cực họat động
Thể hiện khơi dậy ở người khác lòng nhiệt tình, yêu cầu cao đối
với bản thân, năng lực thuyết phục cảm hóa mọi người
+ Hứng thú đối với hoạt động tổ chức
Người có hứng thú tổ chức là thường tự mình đứng ra tập hợp, tổ
chức mọi người khi có việc của đòan thể, công tác chuyên môn với bất
kỳ công tác xã hội nào. Trong việc tổ chức này, họ không đòi hỏi lợi lộc
mà chủ yếu là do nhu cầu, có hứng thú tổ chức.

2.3. Các đặc điểm cá biệt:
Đây là những phẩm chất tâm lý đảm bảo cho người lãnh đạo thực
hiện chức năng đặc trưng nhất của mình là chỉ huy, Lọai năng lực này
không nhiều và không phải ai cũng có, nó bao gồm:
+ Tầm vực công tác: Là thể hiện ở trên nhiều lĩnh vực. Thể hiện
ba mức độ
Tầm vực chung ( trên nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị,
quan sự, kinh tế)
Tầm vực riêng (Chỉ có thể tổ chức tập hợp người trong một lĩnh
vực nhất định, chẳng hạn chỉ huy quân đội thì giỏi nhưng sang quản lý
kinh tế thì kém)
Tầm vực hẹp (ngay trong một lĩnh vực cũng chỉ tổ chức thực hiện
được ở một mặt nào đó ) Ví dụ: quản lý tổ chức sản xuất thì giỏi
nhưng kinh doanh lại kém.
Trên thực tế người lãnh đạo có có năng lực tổ chức ở tầm vực
chung thường ít hơn so với người lãnh có năng lực tổ chức ở tầm vực
riêng và tầm vực hẹp.
Những hạn chế về tầm vực công tác đếu có thể khắc phục được
thông qua công tác và sự rèn luyện trong thực tế
+ Giới hạn lứa tuổi: Có người lãnh đạo có thể tập hợp tổ chức
được nhiều người thuộc nhiều lứa tuổi, nhưng có người chỉ hợp với
một độ tuổi nào đó. Đó là giới hạn lứa tuổi trong hoạt động tổ chức của
họ tạo ra. Có 3 giới hạn sau:
Không bị hạn chế về lứa tuổi. Đó thường là người đứng tuổi
Bị hạn chế về lứa tuổi. Rơi vào tuổi thanh niên
Có sự lựa chọn về lứa tuổi.Thường thấy người cao tuổi.
Những giới hạn lứa tuổi này có thể khắc phục được
+ Tính cơ động trong tác phong công tác:
Để tập hợp người khác, có người dùng lý luận, quan điểm tư
tưởng của mình, có người dùng hành động, tấm gương của bản thân,

lại có người dùng nhiệt tình, cử chỉ điệu bộ hấp dẫn. Một số kết hợp cả
mấy cach thức này. Điều này phụ thuộc phong thái cá nhân của người
tổ chức
Đặc biệt khí chất in dấu ấn rất rõ rệt lên tính cớ động trong tác
phong cống tác của mỗi người
Có 4 kiểu khí chất cơ bản . Từ đó có bốn kiểu nhà tổ chức sau
đây:
- Người tổ chức – tính nóng .
- Người tổ chức - linh hoạt.
- Người tổ chức - tính đằm.
- Người tổ chức - tính trầm
Mỗi kiểu người tổ chức trên đều có mặt mạnh và mặt hạn chế,
Không có kiểu nào xấu hay tốt cả. Phải tuỳ yêu cầu của công tác tổ
chức, quản lý mà chọn kiểu người cho phù hợp. Rõ ràng có công tác
thì người tổ chức – linh họat là rất phù hợp, nhưng có công tác cần tới
những người tổ chức tính đằm thì hay hơn.
Trong cuộc sống, có một số người lộ rõ năng khiếu tổ chức từ rất
sớm. Nếu biết phát hiện kịp thời, có kế hoạch đào tạo rèn luyện cac
năng khiếu này thì sẽ có một số tài năng tổ chức. Nói chung, năng lực
tổ chức không phải do bẩm sinh, di truyền mà chủ yếu thông qua hoạt
động tổ chức, quản lý thực tế mới có được.
3.Biểu hiện của năng lực tổ chức:
Năng lực tổ chức được biểu hiện qua các hoạt động sau đây:
- Xây dựng kế hoạch toàn diện cho bộ máy:
Bao gồm các hoạt động, các mối quan hệ và các nguồn nhân lực
như: Nhân sự, chuyên môn, cơ sở vật chất, phân công lao động, xác
định các điều kiện thực hiện và thiết lập các quan hệ trong và ngoài,

×