Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài điểm 9 Nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu thế nào? Phân tích các quy định trong Luật Ngân sách Nhà nước 2015 để chứng minh nguyên tắc ngân sách thăng bằng được thể hiện trong luật Ngân sách Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.8 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...................................................................................................4
1.

Khái niệm về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, xung đột pháp luật về

quan hệ sở hữu. Cho ví dụ...............................................................................................4
1.1. Khái niệm xung đột pháp luật...............................................................................4
1.2. Khái niệm về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài............................................5
1.3. Xung đột pháp luật về sở hữu................................................................................6
2.

Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu bằng quy phạm xung đột :

phân tích Điều 678 BLDS 2015.......................................................................................8
3.

Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu bằng quy phạm thực chất :

phân tích quy định của Luật đầu tư, Luật Nhà ở 2014 , Nghị quyết 19/2008 NQQH12,...............................................................................................................................11
4.

Đánh giá thực tiễn thi hành quy định của pháp luật và phương hướng hoàn

thiện.................................................................................................................................17
4.1. Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật........................................................17
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật...........................................................................20
KẾT LUẬN.....................................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................24

0




Đề 8. Bình luận về các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam trong việc giải
quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản.
1. Khái niệm về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, xung đột pháp luật về
quan hệ sở hữu. Cho ví dụ
2. Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu bằng quy phạm xung đột :
phân tích Điều 678 BLDS 2015
3. Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu bằng quy phạm thực chất :
phân tích quy định của Luật đầu tư, Luật Nhà ở 2014 , Nghị quyết 19/2008
NQ-QH12,...
4. Đánh giá thực tiễn thi hành quy định của pháp luật và phương hướng hoàn
thiện.

1


MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã và đang tồn tại nhiều chế độ sơ
hữu khác nhau. Dựa trên các chế độ sơ hữu khác nhau, chế định về quyền sơ hữu của
mỗi hệ thống pháp luật cũng có những quy định khác nhau. Ngoài ra, sự khác nhau của
hệ thống pháp luật về quyển sơ hữu còn do tác động bơi các yếu tố quan trọng như:
Trình độ phát triển về kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, vị trí địa lý, của
từng nước. Bơi vậy, việc hình thành các quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài cũng
thường làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sơ hữu. Vấn đề đặt ra là khi phát sinh
xung đột pháp luật về quyền sơ hữu thì pháp luật của các nước giải quyết như thế nào.
Trong quan hệ này thì Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Do đó trong bài tập nhóm
lần này, nhóm chúng em xin chọn đề tài 08 “Bình luận về các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam trong giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sở hữu tài sản”
để làm rõ hơn về vấn đề này.


2


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1.

Khái niệm về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài, xung đột pháp luật về

1.1.

quan hệ sở hữu. Cho ví dụ
Khái niệm xung đột pháp luật

Thuật ngữ “xung đột” bắt nguồn từ chữ Latinh Collisio, đó là hiện tượng khi mà
cùng một vấn đề nhưng các quy phạm pháp luật khác nhau lại quy định một cách khác
nhau, hoặc giữa các hệ thống pháp luật khác nhau quy định một cách khác nhau." 1
Theo Từ điển Luật học, xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ
thống pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể, do có sự khác nhau
giữa pháp luật của các quốc gia hoặc do tính chất đặc thù của chính đối tượng điều chỉnh
của tư pháp quốc tế.”
Đối tượng điều chỉnh của TPQT là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài. Vì vậy, các quan hệ TPQT thường liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật.
Nếu các quốc gia hữu quan chưa ký kết với nhau điều ước quốc tế về nguyên tắc áp
dụng pháp luật thì có thể phát sinh hiện tượng là cùng một quan hệ TPQT sẽ có nhiều hệ
thống pháp luật tham gia điều chỉnh. Hiện tượng này, trong khoa học TPQT được gọi là
xung đột pháp luật.
Tóm lại, khi xảy ra một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, thì
sẽ có ít nhất là hai hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể tham gia điều chỉnh quan

hệ đó, mà pháp luật của các nước khác nhau thì luôn có sự khác nhau. Như vậy, xung
đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật cũng có thể được áp dụng
để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
1.2.

Khái niệm về quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài

1 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam, tr. 101

3


Quan hệ sơ hữu trong tư pháp quốc tế là quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài, là tổng
hợp các quyền năng của chủ thể được pháp luật thừa nhận trong quá trình chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản. Căn cứ vào quy định tại Điều 663 Bộ luật dân sự 2015, thì yếu
tố nước ngoài trong quan hệ sơ hữu được thể hiện ơ những điểm sau:
-

Chủ thể tham gia quan hệ sơ hữu là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, nhà

nước nước ngoài, người Việt Nam định cư ơ nước ngoài.
-

Khách thể của quan hệ sơ hữu là tài sản tồn tại ơ nước ngoài.

-

Sự kiện pháp lý làm phát sinh thay đổi chấm dứt quan hệ sơ hữu xảy ra ơ nước


ngoài.
Khi quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát sinh hiện tượng xung
đột pháp luật. Vì vậy vấn đề được đặt ra là cần xác định hệ thống pháp luật cần áp dụng
để điều chỉnh quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể.
. Ví dụ: Một công ty xuất nhập khẩu Việt Nam kí một hợp đồng mua bán ngoại
thương với một pháp nhân nước ngoài về việc nhập khẩu linh kiện máy móc về Việt
Nam. Hợp đồng này được kí trên lãnh thổ nước ngoài và đã phát sinh hiệu lực pháp lý,
hàng hóa đang tồn tại trên lãnh thổ nước ta. Vậy trong trường hợp này, quyền sơ hữu của
công ty Việt Nam sẽ được xác định như thế nào sẽ dựa vào các quy phạm tư pháp quốc
tế. Quan hệ sơ hữu này cũng được gọi là quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài2
 Ví dụ 1:


Nhà đầu tư (Mỹ) mang vốn đầu tư vào Việt Nam.



B (công dân Việt Nam) mua nhà tại Mỹ.



A (công dân Mỹ) tranh chấp tài sản chung với vợ là chị B (công dân Việt Nam).

2 ngày truy cập 25/10/2019
4


 Ví dụ 2 về bản án có quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài
“BẢN ÁN 172/2018/DS-PT NGÀY 29/06/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU
NHÀ”3

“Bà Lưu Kim Y được cha mẹ cho căn nhà đất tại số 543C LVS, Phường 14, Quận
3, Thành phố Hồ Chí Minh, đã được ủy ban nhân dân cách mạng cứng nhận ngày
07/10/1975. Đến năm 1980 bà Y bàn giao nhà và toàn bộ các giấy tờ nhà cho bà NLQ1
(người giúp việc) giữ để đưa cha mẹ sang Pháp chữa bệnh. (Nay bà định cư tại Mỹ và
trở thành công dân Mỹ)
Sau khi bệnh tình cha mẹ ổn định bà trở về Việt Nam thì biết gia đình ông Lê
Đình Đ, bà Lê Ngọc B đã ở trong căn nhà này.
Đại diện của ông Lê Đình Đ trình bày: căn nhà 534C LVS, Phường 14, Quận 3,
TPHCM do cha mẹ ông Đ mua bằng giấy viết tay và có đủ giấy tờ bản chính của căn
nhà do bà NLQ1 lập, kê khai năm 1999, các giấy tờ đóng thuế.
Nay bà Y yêu cầu Tòa Án công nhận quyền sở hữu cho bà Y đối với căn nhà này, yêu
cầu ông Đ, bà B phải giao trả nhà cho bà Y sau khi án có hiệu lực pháp luật.”
1.3.

Xung đột pháp luật về sở hữu

Quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát sinh xung đột pháp luật.
Đó là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể
được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài.
Nguyên nhân làm phát sinh xung đột pháp luật về quyền sơ hữu đối với tài sản trong
tư pháp quốc tế sơ dĩ xuất phát từ sự đa dạng về quy định về quyền sơ hữu trong pháp

3 Đọc bài viết “ Thống kê bản án” trên trang web vienphapluat.

5


luật dân sự của mỗi quốc gia, mỗi nước có một quan điểm và quy định khác nhau về vấn
đề này.
Giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài, theo kinh

nghiệm và thực tiễn tư pháp của nhiều nước cho thấy, được tiến hành trên cơ sơ sự kết
hợp hai phương pháp cơ bản là phương pháp xung đột (dùng quy phạm xung đột) và
phương pháp thực chất (dùng quy phạm thực chất).
Dưới góc độ lý luận về xung đột pháp luật trong TPQT thì xung đột pháp luật về sơ
hữu là hiện tượng trong cùng một quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài có sự tham gia
điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Khi xung đột pháp luật phát
sinh thì tất yếu đòi hỏi phải có sự giải quyết xung đột pháp luật, với mục đích giải quyết
được vấn đề là cơ sơ pháp lý nào sẽ được áp dụng đối với quan hệ sơ hữu đang có phát
sinh xung đột pháp luật.
Từ đó, có thể hiểu: “Giải quyết xung đột pháp luật sở hữu là việc xác định cơ sở
pháp lý điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài. Việc xác định cơ sở pháp lý
dựa vào phương pháp thực chất để trực tiếp áp dụng quy định hoặc dựa vào phương
pháp xung đột để xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu có yếu tố nước
ngoài”.
Khi quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát hiện tượng xung
đột pháp luật. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần xác định hệ thống pháp luật cần áp dụng để
điều chỉnh quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể4.
2.

Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu bằng quy phạm xung đột :
phân tích Điều 678 BLDS 2015

4 Hướng dẫn môn học Tư pháp quốc tế, TS. Vũ Thị Phương Lan ( chủ biên), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CTQG- ST,
trang 124

6


Khi có xung đột pháp luật, việc điều chỉnh quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài có
nhiều điểm khác biệt so với điều chỉnh quan hệ sơ hữu không có yếu tố nước ngoài.

Theo pháp luật và thực tiễn các nước hiện nay, tài sản hữu hình được chia thành hai loại
là động sản và bất động sản. Và để giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sơ hữu có
yếu tố nước ngoài, hầu hết pháp luật các nước hiện nay đều thống nhất áp dụng nguyên
tắc luật nơi có tài sản.
Khi giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài, Việt Nam
sử dụng phương pháp xung đột là phương pháp chủ yếu. Và Bộ luật dân sự Việt Nam
cũng dựa trên nguyên tắc luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột về quan hệ sơ hữu tại
sản, quy định cụ thể tại Điều 678, Bộ luật dân sự 2015 như sau:
“Điều 678. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản
1. Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài
sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này.
2. Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển được
xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.”
Như vậy, khoản 1 điều trên quy định rằng, không phụ thuộc vào đối tượng của
quan hệ sơ hữu là động sản hay bất động sản, quyền sơ hữu và các quyền tài sản khác sẽ
do luật nơi có tài sản điều chỉnh. Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae) được hiểu đơn giản là
tài sản hiện đang tồn tại ơ nước nào thì sẽ do pháp luật của nước đó điều chỉnh, áp dụng.
Trường hợp tài sản đang có tại Việt Nam, thì việc xác định quyền sơ hữu đối với tài sản
đó phải tuân theo pháp luật Việt Nam, không phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch, nơi cư trú
của chủ sơ hữu. Căn cứ vào quy định này, pháp luật Việt nam cũng thừa nhận quyền sơ
hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng như tổ chức, cá nhân Việt Nam đối với những
7


tài sản tồn tại ơ nước ngoài nếu quyền đó hình thành trên cơ sơ pháp luật của nước ngoài
– nơi có tài sản. Khi tài sản được đưa vào Việt Nam một cách hợp pháp thì Việt Nam
vẫn thừa nhận quyền sơ hữu của chủ tài sản đó.
- Ví dụ : A ( công dân Việt Nam ) sang Mỹ du lịch và mua 1 chiếc máy ảnh tại Mỹ

. Như vậy , quyền sơ hữu của A đối với chiếc máy ảnh được xác lập hợp pháp tại Mỹ .
Do đó , khi A mang chiếc máy ảnh về Việt Nam , quyền sơ hữu của A đối với chiếc máy
ảnh sẽ được pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo hộ . Tuy nhiên , phạm vi và nội dung
các quyền mà A được hương đối với chiếc máy ảnh sẽ do pháp luật Việt Nam điều
chỉnh , ví dụ A không được phép dùng chiếc máy ảnh đó chụp ảnh ơ nơi cấm chụp ảnh
như khu vực quân sự hoặc một số bảo tàng . . .
Ví dụ: Trong hợp đồng dân sự có YTNN, các bên thỏa thuận áp dụng pháp
luật của Anh, Pháp luật Anh sẽ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng với nhau theo hợp đồng, xác định thời gian, địa điểm mà các bên phải thực hiện
nghĩa vụ với nhau trong việc chuyển giao quyền sơ hữu theo hợp đồng nếu các bên
không thỏa thuận cụ thể... Nếu tài sản là đối tượng của hợp đồng ơ Việt Nam, pháp luật
áp dụng với quyền sơ hữu tài sản này không phải là pháp luật Anh mà là pháp luật Việt
Nam. Pháp luật Việt Nam sẽ xác định hợp đồng đó có phải là căn cứ làm phát sinh
quyền sơ hữu hay không, khi nào thì quyền sơ hữu được xác lập trên cơ sơ hợp đồng có
hiệu lực với người thứ ba không phải là một bên trong hợp đồng (ngay từ thời điểm các
bên thỏa thuận trong hợp đồng hay sau khi đã chuyển giao tài sản hoặc làm thủ tục đăng
ký)...
Tuy nhiên, có một vấn đề nảy sinh đó là cùng một loại tài sản nhưng quốc gia này
coi nó là động sản, quốc gia khác coi là bất động sản, vậy khi có xung đột xảy ra sẽ giải
quyết thế nào? Việc xác định tài sản là động sản hay bất động sản là tiền đề cho việc giải
quyết xung đột về quyền sơ hữu có yếu tố nước ngoài. Pháp luật của đa số các nước
trong đạo luật và các điều ước quốc tế thường ghi nhận luật nơi có tài sản là hệ thuộc để
8


giải quyết xung đột về định danh tài sản. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng quy định việc
phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước
nơi có tải sản (Điều 677 Bộ luật dân sự 2015).
Để bảo quyền lợi của người thủ đắc trung thực (người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình) trước yêu cầu đòi lại tài sản từ phía chủ sơ hữu của chúng,

pháp luật của các nước thường áp dụng pháp luật của nước hiện đang có tài sản hoặc
pháp luật của nước nơi có tài sản vào thời điểm thụ đắc. Do đó, khoản 1 Điều Bộ luật
dân sự 2015 quy định có thể áp dụng pháp luật của nước nơi có tài sản tranh chấp để bảo
hộ người thủ đắc trung thực. Tuy nhiên, có thể thấy ngay trong khoản 1 Điều 678 có quy
định trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc này đó chính là khoản 2 về quyền sơ hữu và
quyền khác đối với động sản trên đường vận chuyển.
Khoản 2 Điều này quy định, pháp luật Việt Nam áp dụng hệ thuộc pháp luật của
nước nơi tài sản được chuyển đến hoặc hệ thuộc luật do các bên thỏa thuận lựa chọn để
xác định quyền sơ hữu và quyền khác đối với tài sản đang trên đường vận chuyển.
Nhưng tại sao lại là hệ thuộc luật nơi tài sản được chuyển đến mà không phải là
hệ thuộc luật khác , ví dụ , hệ thuộc luật nơi tài sản được chuyển đi . Lý giải điều này có
thể là do Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới cũng vẫn là một nước nhập siêu . Việt
Nam nhập khẩu nhiều hơn là xuất khẩu nên giá trị hàng hóa tới Việt Nam sẽ lớn hơn giá
trị hàng hóa từ Việt Nam đi , lựa chọn hệ thuộc luật nơi tài sản được chuyển đến là cơ
hội mơ rộng hơn phạm vi áp dụng pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này . 5
So với quy định tại Điều 766 BLDS năm 2005 thi Điều 678 BLDS năm 2015
thiếu đi hai khoản quy định về phân loại tài sản hay định danh tài sản và điều chỉnh về
quyền sơ hữu đối với tàu bay , tàu biển . Với quy định về định danh tài sản là động sản
5 Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 / Nguyễn Minh Tuấn chủ
biên ; Vương Thanh Thúy, ...

9


hay bất động sản thì không phải BLDS năm 2015 bỏ đi mà là tách riêng cho rõ ràng
( Điều 677 ), để áp dụng chung cho các quan hệ liên quan đến tài sản nói chung chứ
không chỉ áp dụng đối với các quan hệ về sơ hữu , như đã phân tích tại Điều 677 . Riêng
vấn đề về sơ hữu đối với tàu bay , tàu biển , thì BLDS năm 2015 đã cắt bỏ quy định đó .
Lý do cho sự cắt bỏ đó là quy định tại khoản 4 Điều 766 BLDS năm 2005 không phải là
một quy phạm xung đột , hay không phải là quy phạm xác định pháp luật áp dụng , trong

khi cả Phần thứ năm BLDS năm 2015 ngay từ tiêu đề của Phần này đã xác định đây là
phần quy định về Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài . Vì
vậy nếu để quy định như khoản 4 Điều 766 BLDS năm 2005 là không phù hợp với cả
tiêu chí của Phần này . Thêm nữa , khoản 1 Điều 663 BLDS năm 2015 đã quy định rõ
những vấn đề luật chuyên ngành đã điều chỉnh thì áp dụng luật chuyên ngành mà BLDS
không điều chỉnh nữa . Như vậy , khi mà Luật hàng không và Luật hàng hải đã quy định
thì đương nhiên sẽ áp dụng các quy định của các luật đó nên BLDS cắt bỏ vừa không
trùng lặp vừa đảm bảo sự thống nhất trong toàn Bộ luật và vì vậy sự cắt bỏ này hoàn
toàn không ảnh hương đến việc điều chỉnh khi quan hệ phát sinh .
Có thể nói, trong Bộ luật dân sự 2015, hệ thuộc luật nơi có tài sản là hệ thuộc chủ
yếu được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sơ hữu và hoàn toàn phù
hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, đây không phải là hệ thuộc luật duy nhất để giải
quyết vấn đề này.
3.

Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu bằng quy phạm thực
chất : phân tích quy định của Luật đầu tư, Luật Nhà ở 2014 , Nghị quyết
19/2008 NQ-QH12,...

Hiện nay, vấn đề quyền sơ hữu của người nước ngoài tại Việt Nam được quy định rải
rác trong nhiều điều ước quốc tế cũng như các văn bản pháp luật khác nhau như : Hiệp
định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và một số nước , Hiến pháp năm 2013 , Bộ luật
Dân sự năm 2015 , Luật Nhà ơ năm 2014 , . . .
10


Căn cứ vào Điều 673 Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể xác định , người nước ngoài có
năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam , trừ trường hợp pháp
luật Việt Nam có quy định khác . Trong khi đó , theo Điều 48 Hiến pháp năm 2013 : “
Người nước ngoài cư trú ơ Việt Nam ( . . . ) ; được bảo hộ tính mạng , tài sản và các

quyền , lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam ” . Bên cạnh đó , trong nhiều điều
ước quốc tế giữa Việt Nam và các nước cũng ghi nhận quyền sơ hữu của người nước
ngoài tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ trên cơ sơ chế độ đối
xử quốc gia . . . Đối với các tài sản là động sản , người nước ngoài được quyền sơ hữu
tương tự như công dân Việt Nam . Tuy nhiên , đối với tài sản là bất động sản , quyền sơ
hữu của người nước ngoài bị hạn chế hơn .
Trong việc điều chỉnh lĩnh vực này , Việt Nam chủ yếu sử dụng các quy phạm thực
chất thông thường,là các quy phạm quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham
gia quan hệ và được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia , trực tiếp điều chỉnh các
quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài . 6
 Nghị quyết 19/2008 NQ-QH12
Về quyền sơ hữu nhà ơ của người nước ngoài tại Việt Nam , Nhà nước Việt Nam trong
thời gian qua đã có những quy định đảm bảo và mơ rộng hơn quyền sơ hữu nhà ơ của
người nước ngoài tại Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu sơ hữu nhà ơ của người nước ngoài,
góp phần khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế đất nước, Quốc hội đã thông qua Nghị
quyết số 19/2008/QH12 ngày 03/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước
ngoài mua và sơ hữu nhà ơ tại Việt Nam; Chính phủ ban hành Nghị định số
51/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết số
19/2008/QH12, qua đó cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép sơ hữu nhà tại
Việt Nam không nhằm mục đích kinh doanh, đồng thời ban hành các quy định hết sức
6 Trường Đại học Luật Hà Nội , Giáo trình Tư pháp quốc tế , Nxb . Công an nhân dân , Hà Nội , 2012

11


chặt chẽ để đảm bảo chính sách vừa có thể đáp ứng nhu cầu về chỗ ơ cho người mua
nhà, hạn chế tối đa việc lợi dụng chính sách để đầu cơ, hoặc vào các mục đích khác ảnh
hương đên thị trường bất động sản và nền kinh tế, xã hội của đất nước .
Theo đó, người nước ngoài muốn sơ hữu nhà ơ tại Việt Nam phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép cư trú từ một năm trơ lên và không thuộc diện được

hương quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết số 19/2008/QH12,cá nhân nước ngoài chỉ được
mua và sơ hữu một căn hộ chung cư hoặc một số căn hộ chung cư đối với tổ chức nước
ngoài trong dự án phát triển nhà ơ thương mại của Việt Nam. Thời hạn tối đa sử dụng
nhà là 50 năm. Họ được quyền bán, tặng cho nhà ơ thuộc sơ hữu của mình sau thời hạn
12 tháng, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận quyền sơ hữu nhà ơ.
 Luật Nhà ở 2014
Luật nhà ơ 2014 đã mơ rộng hơn quyền sơ hữu bất động sản của người nước ngoài
tại Việt Nam. Các quy định của Luật nhà ơ 2014 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
nước ngoài tham gia đầu tư, các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà quản lí giỏi có điều
kiện sinh sống ổn định, yên tâm làm việc lâu dài tại Việt Nam, góp phần thúc đẩy thị
trường nhà ơ và bất động sản phát triển . Theo Điều 159 Luật nhà ở 2014, đối tượng tổ
chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm : tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam , doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư
nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, cá nhân
nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam.”7
Tuy nhiên, quyền sơ hữu nhà ơ của người nước ngoài: bị hạn chế ơ một số điểm như :

7 Luật nhà ở 2014

12


+ Về số lượng: mua ,thuê mua, nhận tặng cho và nhận thừa kế nhà ơ sơ hữu không
quá 30% số lượng căn hộ trong một tòa nhà chung cư và không quá hai trăm năm mươi
căn nhà riêng lẻ bao gồm biệt thự, nhà ơ liền kề trong một đơn vị hành chính cấp
phường .
+ Thời hạn sơ hữu: theo thỏa thuận trong các giao dịch hợp đồng mua bán ,thuê
mua ,tặng cho, nhận thừa kế nhà nhưng tối đa không quá 50 năm, kể từ ngày được cấp

hương chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định của Chính phủ. Trước khi
hết hạn sơ hữu nhà ơ, chủ sơ hữu có thể tặng cho hoặc bán nhà ơ này cho các đối tượng
thừa hương được sơ hữu nhà ơ tại Việt Nam. Nếu quá thời hạn được sơ hữu nhà ơ mà
chủ sơ hữu không thực hiện bán, tặng cho thì nhà ơ đó thuộc sơ hữu của Nhà nước.
Điều 160 Luật nhà ở 2014 quy định về điều kiện tổ chức , cá nước ngoài được sơ
hữu nhà ơ tại Việt Nam : Đối với tổ chức - nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ơ theo
dự án tại Việt Nam thì phải có giấy chứng nhận đầu tư và có nhà ơ được xây dựng trong
dự án theo quy định của Luật nhà ơ và pháp luật có liên quan .
Đối với tổ chức nước ngoài thì phải có giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ có
liên quan đến việc được phép hoạt động tại Việt Nam do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam cấp; đối với cả nhân nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào
Việt Nam và không thuộc diện được hương ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy
định của pháp luật .
Trường hợp cá nhân nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam hoặc kết hôn với
người Việt Nam định cư ơ nước ngoài thì được hữu nhà ơ ổn định, lâu dài và có các
quyền của chủ sơ hữu nhà ơ công dân Việt Nam .
 Luật đầu tư 2014

13


Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định việc đảm bảo, thừa nhận và bảo vệ quyền sơ
hữu của nhà đầu tư ngoài tại Việt Nam. Theo khoản 3 Điều 5 của Luật Đầu tư 2014 sửa
đổi, bổ sung năm 2016, 2017, “nhà đầu tư ngoài có quyền sở hữu đối với tài sản mà họ
đưa vào Việt Nam một cách hợp pháp để đầu tư, thu nhập từ hoạt động đầu tư hoặc từ
các nguồn hợp pháp khác cũng như quyền sở hữu đối với bất động sản là nhà máy, xí
nghiệp, các công trình xây dựng khác, và có quyền duy trì quyền sở hữu đối với các bất
động sản đó trong suốt thời gian hoạt động của dự án đầu tư”8 .
- Ngoài ra, Điều 11 Luật Đầu tư năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017 cũng
cho phép nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài vốn đầu tư, thu nhập từ hoạt

động đầu tư và các tài sản khác thuộc sơ hữu hợp pháp của nhà đầu tư
Tóm lại , khi các quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ làm phát sinh hiện
tượng xung đột pháp luật. Để giải quyết xung đột pháp luật từ quan hệ sơ hữu có yếu tố
nước ngoài, tư pháp quốc tế các nước và Việt Nam chủ yếu sử dụng nguyên tắc luật nói
có tài sản. Bên cạnh việc sử dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản, tư pháp quốc tế các
nước và Việt Nam còn sử dụng một số hệ thuộc luật khác để giải quyết xung đột pháp
luật về quyền sơ hữu đối với động sản đang trên đường vận chuyển, tàu bay, tàu
biển,...Bên cạnh việc chuyển dịch quyền sơ hữu, việc chuyển dịch rủi ro đối với tài sản
cũng được điều chỉnh trong pháp luật các nước và các điều ước quốc tế. Trên cơ sơ
nguyên tắc đối xử quốc gia và luật nơi có tài sản, pháp luật Việt Nam đã quy định quyền
sơ hữu tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam tương tự như công dân Việt Nam với
một số trường hợp ngoại lệ.
 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2016 sửa đổi , bổ sung năm 2013 ,
2014
“Điều 4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật
8 Luật Đầu tư 2014

14


1. Pháp luật của quốc gia đăng ký quốc tịch tàu bay được áp dụng đối với quan hệ xã
hội phát sinh trong tàu bay đang bay và áp dụng để xác định các quyền đối với tàu
bay”9
 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015
“Điều 3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật
1. Trường hợp quan hệ pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu biển,
hợp đồng thuê tàu biển, hợp đồng thuê thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành
khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ giữa chủ tàu cứu hộ và thuyền bộ
của tàu cứu hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở vùng biển quốc tế, các vụ việc xảy ra
trên tàu biển khi tàu đang ở vùng biển quốc tế thì áp dụng pháp luật của quốc gia

mà tàu biển mang cờ quốc tịch.”10
Quyền sơ hữu đối với tài sản là tàu bay , tàu biển theo khoản 1 Điều 4 Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam năm 2016 sửa đổi , bổ sung năm 2013 , 2014, Điều 3 Bộ luật
Hàng hải Việt Nam năm 2015, quyền sơ hữu đối với tài sản là tàu bay, tàu biển sẽ được
xác định theo luật của nước mà tàu bay, tàu biển đăng ký quốc tịch .
Tóm lại, những quy định về quan hệ sơ hữu tài sản có yếu tố nước ngoài tại Việt nam
hiện nay so với trước đây đã có những điểm tiến bộ, phù hợp với sự phát triển về kinh
tế–xã hội cũng như sự giao lưu hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Quyền sơ hữu tài
sản của cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng như người Việt Nam định cư ơ nước ngoài đã
được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những điểm hạn chế
nhất định:

9 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2016
10 Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015

15


Đối với quy phạm xung đột: Hệ thống các quy phạm mà chủ yếu là quy phạm xung
đột nằm rải rác ơ nhiều văn bản khác nhau, từ luật cho đến văn bản dưới luật, pháp luật
quốc gia cũng như điều ước quốc tế. Việc quy định một cách tản mạn, rải rác không
tránh khỏi sự lặp lại, chồng chéo.
Đối với quy phạm thực chất: Về vấn đề sơ hữu bất động sản, pháp luật điều chỉnh
chưa đầy đủ cũng như những chính sách để tạo điều kiện cho đối tượng thuê hoặc mua
và sơ hữu nhà ơ vẫn chưa thông thoáng nên dẫn tới việc mua bán bất động sản trái pháp
luật, gây ra nhiều tranh chấp, khiếu kiện phức tạp. Chính điều này đã tạo ra nhiều bất lợi,
không kiểm soát được tình hình mua bán bất động sản gây bất ổn cho sự phát triển kinh
tế cũng như mất ổn định về an ninh, trật tự xã hội. Hơn nữa, chưa có sự tách bạch về một
số tài sản, từ đó khó xác định hệ thuộc luật cần phải áp dụng. Về hôn nhân gia đình, vẫn
chưa có sự hài hòa giữa các quy định của Luật hôn nhân gia đình về tài sản người Việt

Nam và người nước ngoài khi xác lập quan hệ hôn nhân.
4.

Đánh giá thực tiễn thi hành quy định của pháp luật và phương hướng

4.1.

hoàn thiện.
Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật.

Các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột về quyền sơ hữu tài sản
chưa được quy định cụ thể, rõ ràng dẫn đến các cách hiểu không thống nhất, gây khó
khăn cho việc áp dụng: ví dụ như tài sản vô chủ hay di sản không có người thừa kế sẽ
thuộc về “Nhà nước” vậy Nhà nước ơ đây là Nhà nước nào. Vì vậy nhà làm luật cần quy
định cụ thể. Các quy định là giải quyết xung đột pháp luật về quyền sơ hữu tài sản nằm
giải rác ơ nhiều văn bản khác nhau: BLDS, Luật đất đai, Luật nhà ơ, Luật đầu tư…dẫn
đến khó khăn cho việc giải quyết xung đột.
Theo khoản 1 Điều 678 BLDS 2015 thì “việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt
quyền sơ hữu và quyền khác với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài

16


sản…”. Tuy nhiên, hiện nay còn có một số vướng mắc khi áp dụng nguyên tắc luật nơi
có tài sản.
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh những khía cạnh mới
pháp sinh trong vấn đề quyền sơ hữu của người nước ngoài đối với loại tài sản mới xuất
hiện-tài sản ảo. Hiện nay chưa có khái niệm chính thống về tài sản ảo, theo nghĩa rộng
tài sản ảo bao gồm: tên miền, địa chỉ email, các đối tượng ảo trong thế giới ảo. Về mặt
pháp lí thì chưa có quy định nào về tài sản ảo mặc dù thực tế tài sản ảo có thể có giá trị

rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ơ đây là khi tài sản ảo nay liên quan đến yếu tố nước
ngoài thì việc xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ này sẽ như thế nào và có chọn
luật nơi có tài sản để giải quyết xung đột pháp luật đối với quyền sơ hữu tài sản ảo được
không?
Thứ hai, đối với tài sản của pháp nhân nước ngoài khi hết hạn đầu tư hoặc giải thể,
phá sản. Theo quy định thì pháp nhân nước ngoài khi hoạt động tại Việt Nam thì các
quyền của pháp nhân, trong đó cả các quyền sơ hữu tài sản tuân theo quy định của nước
mà pháp nhân mang quốc tịch. Nhưng theo quy định của Luật đầu tư, khi hết hạn đầu tư
hay bị giải thể, phá sản thì nhà ơ của doanh nghiệp được xử lí theo quy định của pháp
luật về đầu tư, pháp luật về phá sản và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, vậy
chọn hệ thống pháp luật nào áp dụng-hệ thống pháp luật việt nam hay hệ thống pháp luật
nơi pháp nhân mang quốc tịch? Cơ quan nào có thẩm quyền thụ lý giải quyết? làm thế
nào để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp phá sản, chủ nợ của doanh nghiệp và chính lợi
ích của Nhà nước Việt Nam trong tình huống này.
Thứ ba, tuy pháp luật Việt Nam quy định áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản,
nhưng trên thực tế, do một số nguyên nhân mà việc triển khai áp dụng nguyên tắc này
còn nhiều bất cập, chậm chạp, đặc biệt là trong vấn đề sơ hữu nhà ơ tại Việt Nam của
người nước ngoài tại Việt Nam chưa đảm bảo cho việc thực hiện quyền sơ hữu và chưa
có quy định cụ thể nào rõ ràng về việc thực hiện.
17


Luật Nhà ơ năm 2014 có hiệu lực từ tháng 7-2015 đã mơ rộng đối tượng được sơ hữu
nhà ơ tại Việt Nam, nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào đầu tư,
làm việc, sinh sống tại Việt Nam, trong đó có kiều bào, được sơ hữu nhà; góp phần tạo
môi trường đầu tư hấp dẫn, kích thích nền kinh tế phát triển, phù hợp với xu hướng toàn
cầu hóa hiện nay. Luật Nhà ơ năm 2014 đã mơ thêm lối ra cho thị trường bất động sản,
với khung pháp lý cho người nước ngoài mua nhà ơ tại Việt Nam khá hoàn thiện. Đối
tượng mua nhà ơ được mơ rộng. Theo đó, cá nhân nước ngoài chỉ cần được phép nhập
cảnh vào Việt Nam và không thuộc diện được hương quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao,

lãnh sự, là được phép mua nhà ơ tại Việt Nam. Loại nhà ơ được sơ hữu cũng mơ rộng, từ
căn hộ chung cư đến nhà ơ riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ơ. Thời gian sơ hữu
nhà ơ tối đa 50 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận, và có thể được gia hạn thêm
nếu có nhu cầu, thay vì không được gia hạn như quy định cũ.... Được đánh giá là thông
thoáng hơn, song cho đến nay số lượng người nước ngoài và kiều bào về nước mua nhà
ơ chưa được như kỳ vọng, tính đến cuối năm 2016, mới chỉ có hơn 700 người nước
ngoài mua và được sơ hữu nhà ơ tại Việt Nam. Việc cho người nước ngoài mua nhà ơ tại
Việt Nam là một chủ trương, chính sách đúng của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, sau 2
năm triển khai, chủ trương này vẫn gặp phải một số vướng mắc nhất định về thủ tục, hồ
sơ…. Nhà ơ mà người nước ngoài sơ hữu chủ yếu tập trung ơ các thành phố lớn như
TP.HCM, Hà Nội…. Do đầy là những nơi tập chung nhiều dự án nhà ơ với diệ tích rộng,
thị trường làm việc sôi động với số lượng người nước ngoài đến làm việc, sinh sống.
Trong những năm gần đây, để khuyến khích đầu từ nước ngoài vào Việt Nam, nhà
nước ta đã ban hành và sửa đổi nhiều chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài. Pháp
luật Việt Nam càng hoàn thiện hơn khi các đạo luật quan trọng luần lượt ra đời Hiến
pháp 2013, Luật nhà ơ 2014, Luật đầu tư 2014, Luật đất đai 2013, Luật kinh doanh bất
động sản 2014… đáp ứng yêu cầu của thời kì hội nhập quốc tế. Trên cơ sơ các quy định
của pháp luật, quyền sơ hữu của người nước ngoài thuộc diện đầu tư ơ Việt Nam không

18


chỉ được công nhận, bảo hộ mà còn được thực thi trên thực tế. Nhờ đó mà họ yêu tâm
đầu từ, kinh doanh vào Việt Nam. Với hệ thống các văn bản pháp luật về đầu tư không
ngừng hoàn thiện, nhà đầu tư nước ngoài đã được tham gia hầu hết các hoạt động đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam. Quyền sơ hữu của nhà đầu tư nước ngoài được mơ rộng hơn
trước với các quy định của luật đất đai và nhà ơ. Người nước ngoài thuộc diện đầu tư ơ
Việt Nam là chủ thể có quyền quyền sử dụng đất, quyền sơ hữu nhà ơ và các tài sản khác
gắn liền với đất. Đồng thời, có quyền kinh doanh các loại bất động sản đó.
Trong những năm qua, việc thực thi các quy định về chính sách áp dựng với người

nước ngoài nói chung, quy định quyền sơ hữu của người nước ngoài nói riêng đã đem lại
những hiệu quả, góp phần vào sự tăng trương kinh tế nước nhà và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho người dân.
4.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Đối với các quy phạm xung đột: hệ thống quy phạm xung đột cần được quy định cụ
thể, rõ ràng tại một văn bản pháp luật nhất định để tránh sự chồng chéo, sự lặp, hơn thế
nữa cần đưa ra các giải pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề pháp sinh trong tư pháp
quốc tế.
Đối với các quy phạm thực chất: sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành
điều chỉnh quan hệ sử hữu mang yếu tố nước ngoài. Cần xác đinh các hệ thuộc luật áp
dụng phù hợp cho từng quan hệ sơ hữu có yếu tố nước ngoài của các nhân, pháp nhân,
nhà nước (đối với động sản, bất động sản, tài sản đang trên đường vận chuyển). Cần tách
bạch một số loại tài sản với nguyên tắc sơ hữu khác nhau, từ đó xác định các hệ thuộc
tương ứng với một loại tài sản đó. Thứ hai, cần bản đảm sự hài hòa giữa các quy định
của luật hôn nhân và gia đình về quan hệ sơ hữu tài sản giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài khi tham gia quan hệ hôn nhân, với nguyên tắc công nhận quyền sơ
hữu tài sản (là bất động sản).

19


Về lâu dài, xây dựng một bộ luật chuyên biệt về tư pháp quốc tế là cần thiết, trong đó
nên quy định một cách trực tiếp các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về xác
định quốc tịch cá nhân; vấn đề luật chọn áp dụng để giải quyết xung đột về quyền sơ
hữu tài sản; chọn luật áp dụng trong trường hợp pháp luật hoặc điều ước quốc tế dẫn
chiếu đến pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Xây dựng văn bản
pháp luật tư pháp thống nhất phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Thừa nhận các quan hệ tư

pháp quốc tế trong đời sống pháp luật Việt Nam. Trong thực tế chúng ta thấy còn khá
nhiều quy phạm pháp luật nằm rải rắc trong các văn bản pháp luật khác nhau, đôi lúc nội
dung còn trồng chéo và mâu thuẫn nhau. Do đó, biện pháp mà chúng ta cần thực hiện là
tập hợp các văn bản pháp luật còn nằm rải rác thành một hệ thống văn bản pháp lí mang
tính thống nhất-luật tư pháp để điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài cũng như có quy định cụ thể hơn về nguyên tắc luật nơi có tài sản như
các nước trên thế giới. Với một văn bản pháp luật thống nhất sẽ giải quyết được vấn đề
chồng chéo các quy định giữa các điều luật khi quy định cùng một đối tượng, quan hệ.
Pháp luật về hệ thống những quy tắc xử sự mà nhà nước yêu cầu công dân nước
mình, cũng như công dân nước ngoài đang làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ nước mình
phải thực hiện. Nó điều chỉnh các quan hệ pháp sinh trong thực tế và còn phải có khả
năng điều chỉnh các quan hệ pháp sinh trong tương lai. Bơi vậy, pháp luật phải luôn
hoàn thiện những quy định mới để điều chỉnh những quan hệ với những đối tượng mới
phát sinh, ví dụ như quy định đối với tài sản ảo. Về vấn đề này thì nhiều nước đã có
pháp luật điều chỉnh như Trung Quốc, Hàn Quốc… chúng ta có thể học hỏi họ để xây
dựng quy phạm điều chỉnh quy định này.
Nâng cao trình độ pháp luật của đội ngũ những người làm luật và người thi hành
pháp luật: đầu tiên phải kể đến những người giải thích pháp luật, người áp dụng pháp
luật để giải quyết những vấn đề liên quan đến tư pháp quốc tế bao gồm vấn đề quyền sơ
hữu như các chánh án, thẩm phán của các Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết
20


các vụ liên quan đến yếu tố nước ngoai. Trong nhiều vụ việc thì các các cơ quan có thẩm
quyền trên vẫn còn lũng túng trong việc giải quyết các vụ việc. chính vì thế cần nâng
cao trình độ chuyên môn của họ để giải quyết các vấn đề về quyền sơ hữu có yếu tố
nước ngoài, đặc biệt là trường hợp mà luật áp dụng không phải hệ thống pháp luật Việt
Nam. Sau đó, chính là những người hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ tư vấn,
tranh tụng. Cùng với số lượng các nhà đầu tư vào Việt Nam thì một lượng lớn những
yêu cầu, thắc mắc về chính sách pháp luật Việt Nam được các nhà đầu tư tìm kiến đến

đội ngũ này để thỏa mãn nhưng băn khoan của họ. bơi vậy, cần một đội ngũ luật sư am
hiểu về pháp luật để giải thích một cách chính xác những bảo đảm trong pháp luật Việt
Nam danh cho người nước ngoài. Ngoài ra còn phải hạn chế một cách tối đa cách giải
thích, áp dụng luật một cách không thống nhất giữa các tỉnh thành để có thể đảm bảo
cho người nước ngoài được đối xử công bằng.

KẾT LUẬN
Như vậy để giải quyết xung đột pháp luật về quyền sơ hữu có yếu tố nước ngoài ơ Việt
Nam hiện nay được giải quyết dựa trên hai phương pháp là phương pháp thực chất và
phương pháp xung đột. Trong đó phương pháp xung đột là phương pháp chủ yếu. Trên
đây là bài tìm hiểu nghiên cứu của nhóm, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và các nhóm còn lại. Chúng em xin chân thành cảm ơn !

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Bộ luật dân sự 2015 .
Luật đầu tư 2014
Luật nhà ơ 2014
Luật đất đai 2013
Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2016 sửa đổi , bổ sung năm 2013 ,

2014

6. Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015
7. Nghị quyết 19/2008 NQ-QH12
8. Trường Đại học Luật Hà Nội , Giáo trình Tư pháp quốc tế , Nxb . Công an nhân
dân , Hà Nội , 2012
9. Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015 / Nguyễn Minh Tuấn chủ biên ; Vương Thanh Thúy, ...
10. Đọc bài viết “ Thống kê bản án” trên trang web vienphapluat.
22


23



×