Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thị trường phi tập trung (otc) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.67 KB, 10 trang )

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT


















THỊ TRƯỜNG PHI TẬP TRUNG (OTC) Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu tình huống


Huỳnh Thế Du
Vũ Thành Tự Anh




















Tháng 7 năm 2005

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thị trường OTC ở Việt Nam


Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tự Anh 2


THỊ TRƯỜNG PHI TẬP TRUNG (OTC) Ở VIỆT NAM


Ở Việt nam, Luật công ty ra đời vào năm 1990. Kể từ thời điểm này, các công ty cổ phần
bắt đầu được thành lập và hoạt động. Nhưng sau đó 10 năm, trung tâm giao dịch chứng
khoán đầu tiên ở Việt nam mới đi vào hoạt động. Sau 5 năm khai trương, tính đến thời
điểm tháng 6 năm 2005, mới có 26 công ty chính thức niêm yết tại trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Hay nói cách khác, thị trường chứng khoán Việt

Nam ở thời điểm này chỉ phục vụ cho 26 công ty.
Nhưng ngoài, 26 công ty nêu trên, còn hàng nghìn cổ phiếu của các công ty khác được
giao dịch trên thị trường phi tập trung (Over The Counter - OTC). Việc tồn tại thị trường
OTC ở Việt Nam là một thực thể khách quan. Nhưng câu hỏi đặt ra là quy mô, phương
thức hoạt động của thị trường OTC ở Việt Nam như thế nào? Đây cũng chính là câu hỏi
mà nhóm của ông Reform – nhóm chuyên gia nghiên cứu về hệ thố
ng tài chính Việt Nam
đang tìm cách trả lời.
Sau một thời gian tìm hiểu, nhóm của ông Reform đã đưa ra một phác thảo sơ bộ về thị
trường OTC ở Việt Nam như sau:
Quy mô thị trường
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về thực trạng doanh nghiệp năm 2001-
2003, tính đến cuối năm 2002, cả nước có 2.829 công ty cổ phần. Trong đó 557 công ty
nhà nước được cổ phần hoá, 2.272 công ty c
ổ phần không có vốn nhà nước. Tổng vốn tự
có của các doanh nghiệp này là 20.937 tỷ đồng, gấp 20 lần tổng vốn điều lệ và 10 lần vốn
hoá của các công ty niên yết tại thời điểm đó. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, cả
nước có gần 2000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và trên 3000 công ty cổ phần.
Tổng vốn điều lệ của các công ty này hơn hơ
n rất nhiều lần khối lượng vốn hoá trên thị
trường chính thức
1
. Đây chính là nguồn cung của thị trường OTC. Hay nói theo cách của
một số người thường nói là thị trường OTC ở Việt Nam rất nhiều tiềm năng.
Không phải cổ phiếu của tất cả các công ty cổ phần đều được mua bán, trao đổi thường
xuyên mà chỉ có một ít trong số đó được giao dịch. Có những loại cổ phiếu gần như
không bao giờ được giao dịch, nhưng có những loại c
ổ phiếu tuy chưa được niêm yết trên
thị trường chính thức trên sàn, nhưng chúng được giao dịch rất sôi động như cổ phiếu của
các ngân hàng cổ thương mại cổ phần Á Châu, Sài Gòn Thương Tín, Bánh kẹo Kinh đô,

Vinamilk. Đây chính là những cổ phiếu mà các nhà đầu tư có tổ chức, nhất là các quỹ đầu
tư rất quan tâm.
Thị trường phi tập trung ở Việt Nam đang tồn tại là một thực th
ể khách quan. Chỉ có thể
nói rằng hoạt động của thị trường này còn manh mún, rời rạc, tổ chức của thị trường này
chưa được chặt chẽ, chưa có người tạo lập và dẫn dắt thị trường chứ không thể nói là Việt


1
Tổng hợp từ Internet và các báo
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thị trường OTC ở Việt Nam


Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tự Anh 3
nam chưa có thị trường OTC và Việt nam đang đặt mục tiêu xây dựng đến năm 2010 sẽ
có thị trường này như một số người thường nói.
Quy định về mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu của các công ty cổ phần
Theo Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp năm 1999, cổ phiếu của các công ty
cổ phần được quyền chuyển nhượng tự do
2
. Như vậy, cổ phiếu của các công ty cổ phần
được giao dịch tự do và không bị hạn chế bởi bất kỳ một quy định nào. Vấn đề đặt ra là
khi một người nào đó muốn bán hoặc mua cổ phiếu của một công ty cổ phần nào đó thì
họ phải làm như thế nào?
Nhà đầu tư và tổ chức của các nhà đầu tư
Việc tham gia thị trường OTC rất
đơn giản, tất cả mọi người đều có thể tham gia mua bán
chứng khoán. Tuy nhiên, hoạt động của các nhà đầu tư trên thị trường không phải là độc
lập mà họ thường lập thành các nhóm, hội, diễn đàn để trao đổi thông tin với nhau. Hiện
nay, phương thức trao đổi được các nhà đầu tư tự do ưa thích là trao đổi qua diễn đàn trên

mạng Internet hoặc trao đổi tại các điểm “café chứng khoán”.
Việc m
ột nhà đầu tư tham gia đầu tư vào tất cả các lình vực, các nơi là rất hiếm. Các nhà
đầu tư, nhóm các nhà đầu tư tập trung vào một số ngành, lĩnh vực trong một khu vực địa
lý (TP.HCM, Hà Nội ...) là chủ yếu.
Ngoài ra, với lợi thế của của mình, các công ty chứng khoán còn tham gia trên trên thị
trường này với tư cách là các nhà môi giới.
Hàng hoá của thị trường
Hàng hoá của thị trường OTC chính là các loại cổ phiếu của cách doanh nghiệp ho
ạt động
kinh doanh hiệu quả, có triển vọng phát triển trong tương lai hoặc có những lợi thế
thương mại riêng biệt (có một vị trí mặt bằng thuận lợi…). Có hai loại cổ phiếu chính
được các nhà đầu tư quan tâm gồm:
- Cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Đối với các doanh
nghiệp loại này, các loại cổ phiếu được mua bán bán gồm:
o Cổ phi
ếu lần đầu tiên phát hành khi cổ phần hoá: Việc mua được, được
mua cổ phiếu của một số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá là vấn
đề mà các nhà đầu rất quan tâm. Vì rất nhiều công ty sau khi cổ phần hoá,
giá của cổ phiếu gia tăng rất cao.
o Cổ phiếu sau khi cổ phần hoá (cổ phiếu này được mua bán thông thường
như cổ phiếu của các công ty cỏ phần khác).
- Cổ phi
ếu của các công ty cổ phần thông thường: Đối với loại này, cổ phiếu của
các công ty hoạt động kinh doanh hiệu quả, dẫn đầu một lĩnh vực kinh doanh nào


2
Luật công ty năm 1990 quy định, chỉ cổ phần không ghi danh mới được chuyển nhượng tự do, cổ phần ghi
danh muốn chuyển nhượng phải có một số điều kiện kèm theo như được sự cho phép của đại hội cổ đông

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thị trường OTC ở Việt Nam


Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tự Anh 4
đó là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư. Cổ phiếu của Kinh đô, ACB,
Sacombank thuộc loại này.
Cơ chế mua bán
Việc mua bán các loại cổ phiếu trên thị trường OTC được thực hiện theo phương thức
“thuận mua, vừa bán” mà không bị bất cứ một lực bên ngoài (giới hạn giá, lượng cổ
phiếu…) nào tác động. Tuy nhiên, nhiều khi cũng xảy ra vấn đề bất cân xứng về thông tin
trong quá trình mua bán, giao dịch các loạ
i chứng khoán trên thị trường này. Nói chung,
cơ chế mua bán các loại chứng khoán trên thị trường OTC theo đúng cơ chế thị trường.
Mặc dù thực hiện theo cơ chế thuận mua vừa bán, nhưng thực tế, việc giao dịch mua bán,
nhất là mua bán các laọi cổ phiếu của các công ty cổ phàn hoá lần đầu không phải lúc nào
cũng tuôn theo cơ chế này.
Phương thức mua bán, giao dịch
Để có thể mua bán cổ phiếu trên thị trường OTC, nhà đầ
u tư có thể thực hiện theo một
trong hai phương thức sau
- Bên mua và bên bán trực tiếp gặp nhau để thương lượng, quyết định việc mua bán
chứng khoán. Đây là phương thức phổ biến hiện nay.
- Bên mua và bên bán có thể giao dịch thông qua các nhà môi giới chứng khoán.
Hiện nay, phương thức này ít phổ biến hơn, nhưng xu hướng phát triển của thị
trường thì phương thức này sẽ chiếm ưu thế h
ơn so với phương thức trực tiếp mua
bán nêu trên trong tương lai.
Thu thập thông tin của các loại cổ phiếu
Để có thể mua một loại chúng khoán nào đó trên thị trường, các nhà đầu tư cần phải có
thông tin về loại cổ phiếu đó. Để có thông tin này, nhà đầu tư có thể tìm kiếm từ các

nguồn sau:
Thông tin từ các báo cáo tài chính
Theo quy định của Nghị định về kiểm toán độc lập, trừ một số loạ
i hình doanh nghiệp
phải thực hiện kiểm toán như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp nhà nước, số còn lại (chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động theo
luật doanh nghiệp), nhà nước chỉ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán các
báo cáo tài chính. Như vậy, nhìn chung các công ty cổ phần chưa niêm yết không có báo
cáo tài chính được kiểm toán.
Do những mục đích khác nhau mà nhiều doanh nghiệp có nhiều hệ thống s
ổ sách kế toán,
báo cáo tài chính (báo cáo thuế, vay vốn ngân hàng, điều hành nội bộ...).
Mặt khác, việc có được một bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đối với một người
bình thường là điều không hề đơn giản, nhất là trong điều kiện mà ngay bản thân các
doanh nghiệp không biết thông tin nào nên công bố, thông tin nào không nên công bố. Do
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Thị trường OTC ở Việt Nam


Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tự Anh 5
đó, việc thu thập thông tin từ bản thân doanh nghiệp qua còn đường chính thức là điều
không hề đơn giản nếu nhà đầu tư, nhất là những người không có những mối liên hệ nhất
định với công ty đó.
Thu thập thông tin qua các cơ quan chức năng
Theo quy định, doanh nghiệp phải báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh
doanh (Sở Kế hoạch Đầu tư). Tuy nhiên việc tuân thủ quy định này của các doanh nghiệp
không thực s
ự nghiêm túc. Mặt khác, nếu có nộp báo cáo cho cơ quan chức năng thì các
thông tin cũng rất chung chung. Nhưng các cơ quan chức năng không có tránh nhiệm và
nghĩa vụ công bố các thông tin của doanh nghiệp. Vì vậy, việc có được thông tin từ các
cơ quan này gần như là nhiệm vụ là bất khả thi đối với các nhà đầu tư.

Ngoài ra, còn có một tổ chức lưu trữ thông tin về các doanh nghiệp đó là trung tâm thông
tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trung tâm này lưu trữ các thông tin cơ
bản của các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tính
cập nhật của các thông tin này không cao.
Thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng
Khi không thể thu thập thông tin về doanh nghiệp từ các đầu mối thông tin nêu trên, nhà
đầu tư có thể thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, nhược
điểm của nguồn dữ liệu này là rời rạc, tính tin cậy không cao.
Hiện nay, có những nguồn thông tin đề cập nhiều
đến các doanh nghiệp là tạp chí chứng
khoán (trang 13), mà một số trang web như www.vietstock.com
, www.vnn.vn các công
ty chứng khoán ….
Thu thập thông tin từ các nguồn khác
Nhìn chung, các nguồn thông tin nêu trên không đủ để các nhà đầu tư ra quyết định của
mình. Nhưng trong thực tế, các chứng khoán vẫn được mua bán, chuyển nhượng, thậm
chí có nhiều loại chứng khoán được mua bán, chuyển nhượng rất sôi động. Như vậy câu
hỏi đặt ra là các nhà đầu tư lấy thông từ đâu?
Có hai nguồn thông tin quan trọng nhất làm cơ sở cho việc ra quyết định củ
a các nhà đầu
tư. Loại thứ nhất là thông tin từ những hội, nhóm kinh doanh chứng khoán. Trên thực tế,
có những địa điểm (café chứng khoán) mà ở đó các nhà đầu tư tự do gặp gỡ, trao đổi
thông tin về các loại chứng khoán, tình hình doanh nghiệp. Loại thứ hai là thông tin được
lấy không chính thức từ bên trong doanh nghiệp. Đối với thông tin này, nhà đầu tư bằng
sự quen biết, hay bằng những kỹ thuật, chiến thuậ
t riêng mà họ có thể lấy được từ những
đầu mối quan trọng, phản ánh một cách chính xác tình hình, những biến cố xảy ra bên
trong doanh nghiệp. Đây là những thông tin hết sức quan trọng để nhà đầu tư đưa ra quyết
định của mình.
Với những thông tin như trên, không phải là căn cứ thật sự vững chắc, để đưa ra quyết

định đầu tư. Thực tế, nhiều quyết định mua bán
được dựa trên cảm giác của nhà đầu tư.
Chính điều này, nhiều loại chứng khoán được mua bán trên cơ sở tin đồn (tâm lý bầy đàn
“herd behavior”) xuất hiện trong trường hợp này. Với những trường hợp như vậy, rủi ro

×