Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1988 - 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.11 KB, 81 trang )

Thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài
( giai đoạn 1988 – 2010)-
Lời Mở Đầu
1.Sự cần thiết của đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, xây dựng một nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò
hết sức quan trọng. Trong những năm qua hoạt động kinh tế này đã đóng góp
không nhỏ vào những thành tựu chung của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Đầu tư nước ngoài như một mốc quan trọng đánh dấu quán trình mở cửa trong chính
sách đổi mới được khởi sướng từ năm 1986 với nội dung cốt lõi là chuyển từ nền
kinh tế đơn ngành sang đa phần, từ cơ chế quản lý tập chung quan liêu sang kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nền kinh tế kín sang nền kinh tế mở, chủ
động hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Vốn FDI chiếm tỉ trọng ngày càng tăng trong
GDP. Từ năm 1991 – 2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc độ tăng bình
quân mỗi năm 7,56%. Mức đóng góp trung bình 6,3% của GDP trong giai đoạn
1991 – 1995, khu vực doanh nghiệp có vốn FDI đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm
(1996 – 2000). Trong thời kỳ 2001 – 2005 tỷ trọng đạt trung bình là 14,6 %. Trong 2
năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đóng góp trên 17% GDP. Khu vực
FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và
là khu vực phát triển năng động nhất . Năm 2008 và năm 2009 tốc độ gia tăng GDP
tương ứng là 6,23% và 5,32%. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên
quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường
tiềm năng trên thế giới. Xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu khí) năm 2009 nếu
1
không tính dầu thô xuất khẩu 23,6 tỷ USD, chiếm 41,7 % tổng xuất khẩu và bằng 98
% so với năm 2008. Nhập khẩu của khu vực FDI năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD, bằng
89,2 % so với năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập khẩu cả nước. Trong năm 2009,
khu vực FDI xuất siêu 5,03 tỷ USD. Xuất khẩu của khu vực FDI 6 tháng năm 2010
đạt 7,2 tỷ USD, tăng 26,2% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu khác của khu
vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 14,6 tỷ USD, tăng 39,5% so với cùng kỳ. Giá trị


kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI gia tăng mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm
2010 do nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi. Nhập khẩu của khu vực FDI ước đạt 16 tỷ
USD, tăng 48,9% so với cùng kỳ. Trung bình hàng năm có khoảng 170 – 200 doanh
nghiệp ĐTNN mới đi vào hoạt động ( tăng bình quân là 22,7%/năm) , tạo việc làm
thêm cho khoảng 100 – 150 nghìn người ( tăng bình quân 30,2%). Số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI cũng tăng lên qua từng giai đoạn, từ 21 vạn
người vào cuối năm 1995 đã tăng lên 37,9 vạn người vào cuối năm 2000, tăng 80%
so với 5 năm trước. Đến cuối năm 2005 đã tăng gấp 2,5 lần so với 2 năm trước thể
hiện số lượng các doanh nghiệp đi vào triển khai dự án tăng lên. Năm 2008, khu vực
có vốn FDI đã tạo ra trên 200 nghìn việc làm mới, nâng tổng số lao động làm việc
trong các dự án FDI lên 1,467 triệu người.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006 tạo ra những điều kiện thuận lợi
hơn trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có những
bước tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng. Theo cục đầu tư nước ngoài, Bộ
KH&ĐT,trong năm 2007 nước ta thu hút được 20,3 tỷ USD mức cao nhất trong các
năm trước đó. Số vốn đăng ký năm 2008 ước đạt trên 74,5 tỷ USD, tăng hơn 200%
so với năm 2007, vốn giải ngân đạt 11,5 tỷ USD, tăng 4,32% so với năm 2007.
Trong năm 2009 ,vốn đăng ký vào Việt Nam ước đạt 21,48 tỷ USD, vốn giải ngân
10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008.
2
Những thành tựu phát triển nền kinh tế trong giai đoạn qua đã khẳng định vai trò
hoạt động đầu tư trựu tiếp nước ngoài, cùng với quá trình hội nhập ngày càng xâu
vào nền kinh tế quốc tế, hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI đóng góp vào quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư theo các ngành và vùng
lãnh thổ…Đồng thời , hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy quá trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong nước với khu
vực và quốc tế. Tạo điều kiện cho quá trình đổi mới, cải cách cơ chế kinh tế diễn ra
hiệu quả và mạnh mẽ hơn.Tuy nhiên Quá trình triển khai thu hút FDI đã bộc lộ
những hạn chế về định hướng, chính sách, cơ chế và giải pháp thực hiện.
Xuất phát từ ý tưởng nêu trên, việc nghiên cứu về đề tài “Thu hút và sử dụng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam” là một vấn đề cần thiết, và có ý nghĩa khoa học về mặt
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với sự hiện diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam năm
1986, các Nghiên cứu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài rất phong phú và đa dạng,
thực hiện bởi các cơ quan, quản lý Nhà nước và các cá nhân. Cụ thể bao gồm các tác
phẩm như sau: Tạo việc làm cho người lao động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam – Nxb thống kê năm 2000;TS. Trần Xuân Tùng: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp; TS Trần Nguyễn Trọng Xuân: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb
khoa học xã hội, Hà nội, 2002; PGS.TS.Trần Quang Lâm – TS An Như Khải: Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp (2005); khóa luận tốt nghiệp: Tác động của
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới nền kinh tế ở Việt Nam – Bùi Thị Thu Hà, 2009;
3
Luận văn thạc sĩ: Thu hút nguồn vốn nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập của Nguyễn Quang Vinh;
Đồng thời, các đề tài nghiên cứu khoa học về ĐTNN của Các bộ Ngành phục vụ
công tác quản lý nhà nước cũng tương đối đầy đủ tập trung vào các vấn đề: phân cấp
quản lý nhà nước trong công tác quản lý ĐTNN, xây dựng các doanh mục thu hút
ĐTNN, Dự báo nguồn vốn ĐTNN quốc tế và khu vực, khảo sát Nghiên cứu nguồn
vốn FDI các khu vực EU, Nhật Bản, Mỹ…
Với một số công trình quan trọng như:
- TS. Đinh Văn Ân: “ Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình công nghiệp hóa , hiện
đại hóa ở Việt Nam”, Báo cáo hội thảo về tác động của Hội nhập kinh tế tháng 6
năm 2004.
- TS. Lê Xuân Bá “ Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trường kinh
tế của Việt Nam.
- Th.s Nguyễn Anh Tuấn: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở
Việt Nam”.

Những nền tảng cơ sở , phân tích khoa học trên là cơ sở rất quan trọng trong việc
nghiên cứu vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ mới. Cần đánh
giá đẩy đủ những hiệu ứng tích cực và tiêu cực có thể tạo ra những định hướng giải
pháp mới cho công tác điều hành hoạt động ĐTNN trong điều kiện Việt Nam tham
gia đầy đủ vào các khuân khổ kinh tế song phương.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài trên, tác giả đã có những đóng góp như sau:
4
- Tổng kết tình hình thu hút và sử dụng FDI trong những năm qua để Đánh giá
thành công và những hạn chế trong hoạt động thu hút và sử dụng FDI.
- Tác động của đầu tư nước ngoài tới nền kinh tế Việt nam.
- Trên có sở mục tiêu phát triển của thời kỳ mới, xác định rõ mục tiêu, định hướng
thút và đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn FDI sau khi gia nhập WTO.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tập chung vào hoạt động thực tiễn thu hút và sử dụng đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
- phạm vi nghiên cứu của đề tài: là hoạt động thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 1988 – 2010
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích tổng hợp, thống kê,
so sánh. Logic, lịch sử cụ thể…
6. Kết cấu của đề tài
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Chương II: Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam
Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
5
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đầu tư trực

tiếp nước ngoài
1.1Cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài
6
1.1.1 Nguyên nhân hình thành và phát triển của đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment – FDI) ngày càng có quan
trọng với nước tiếp nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Chính vì vai trò quan trọng của
nó mà có rất nhiều quan điểm của các nhà kinh tế học nhằm lý giải nguyên nhân
hình thành và phát triển của hiện tượng này. Hiện nay, chủ yếu có 2 trường phái lý
giải sự hình thành và phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là quan
điểm của các nhà kinh tế học tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của các nhà kinh tế học, đại diện là Adam smith (năm 1776), Thomas
Malthus (năm 1798) David Ricardo ( năm 1817) và sau này là Vernon ( năm 1966),
Kojima ( năm 1973), Hymer (năm 1976), Dunning ( năm 1988) … cho rằng hoạt
động đầu tư quốc tế được hình thành và phát triển do một số nguyên nhân chủ yếu
sau:
+ Xuất phát từ học thuyết về phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh và
thương mại quốc tế, các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng khởi nguyên của quan hệ
kinh tế giữa các quốc gia bắt nguồn từ hoạt động thương mại quốc tế. Bằng học
thuyết “Lợi thế so sánh – Comparative advantages”, Adam smith ( năm 1776) và
David Ricardo ( năm 1817) cho rằng mỗi quốc gia trên thế giới đều chuyên môn hoá
sản xuất ra một hoặc một nhóm sản phẩm với chi phí sản xuất thấp hơn so với quốc
gia khác và tiến hành xuất khẩu hàng hoá này sang quốc gia đó. Đồng thời, quốc gia
này cũng giành cơ hội để quốc gia khác sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có chi phí
sản xuất thấp hơn chi phí sản xuất do nước mình tiến hành mà không phụ thuộc vào
quy mô sản xuất và trình độ phát triển . Lợi thế so sánh chính là nguyên nhân hình
thành, phát triển quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia với nhau và cũng cho
thấy trình độ phát triển về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia cơ bản là rất khác
7
nhau. Như vậy, thương mại quốc tế là quan hệ đầu tiên, cơ bản và làm phát sinh quan

hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia sau này. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch về lực
lượng sản xuất giữa các quốc gia và những trở ngại trong hoạt động thương mại
quốc tế đã hình thành và phát triển quan hệ đầu tư giữa các quốc gia. Dưới góc độ
nước tiếp nhận đầu tư, để phát triển một số ngành sản xuất với điều kiện chưa cho
phép hoặc sản xuất với chi phí cao thay vì phải nhập khẩu, quốc gia tiếp nhận đầu tư
đã kêu gọi đầu tư từ những quốc gia có thế mạnh về những ngành công nghiệp đó.
Dưới góc độ của nước đi đầu tư, từ những nước này mong muốn đầu tư tại những
nước có trình độ phát triển thấp hơn để tận dụng chi phí sản xuất rẻ và khai thác tài
nguyên thiên nhiên.
Tại những nước công nghiệp phát triển, do phải đối mặt với môi trường cạnh tranh
gay gắt nên tỷ xuất lợi nhuận của các doanh nghiệp của những quốc gia này là rất
thấp. Do vậy, các doanh nghiệp thường có xu hướng chuyển vốn, công nghệ và tài
sản ra những nước có môi trường cạnh tranh kém hơn so chi phí sản xuất rẻ hơn
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đạt được tỷ xuất lợi nhuận cao hơn.
Các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thường đối mặt với vấn đề thiếu vốn, công
nghệ tiên tiến và trình độ quản lý. Chính vì những nhu cầu này đã tạo điều kiện cho
việc di chuyển vốn, công nghệ và trình độ quản lý từ các nước công nghiệp phát
triển sang các nước phát triển.
Xu hướng bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng nên đầu tư nước ngoài là một biện pháp
hữu hiệu nhằm xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường ; tránh được hàng rào bảo hộ thuế
quan; giảm chi phí sản vận chuyển hàng hoá.
Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa mà đại diện là Lênin cho rằng sự phát triển của
đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên xuất khẩu tư bản. Khi nghiên cứu giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã nêu ra một trong năm đặc trưng quan trọng của
chủ Nghĩa đế quốc đó là xuất khẩu của đó là xuất khẩu tư bản. Theo Lênin: “Điểm
8
điển hình của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó sự cạnh tranh tự do còn hoàn toàn thống
trị, là việc xuất khẩu hàng hoá . Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản mới nhất, trong đó tổ
chức độc quyền thống trị là việc xuất khẩu tư bản”(Lênin : tác phẩm “chủ nghĩa đế

quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”). Xuất khẩu tư bản là một nhu cầu tất
yếu khách quan. Bởi vì, tại một số nước phát triển đã tích luỹ được một số lượng tư
bản kếch sù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do không tìm được nơi có tỷ
xuất lợi nhuận cao ở trong nước. Các nước phát triển muốn xuất khẩu tư bản của
mình để tranh thủ lao động, nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên rẻ…Ở các nước
kém phát triển, thiếu tư bản.
Bên cạnh việc lý giải nguyên nhân của đầu tư nước ngoài thông qua xuất khẩu
tư bản, các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thiết lập
quan hệ đầu tư quốc tế từ các nước tư bản phát triển sang các nước thuộc địa nhằm
tìm kiếm lợi nhuận, khai thác tài nguyên thiên nhiên và duy trì sự áp bức bóc lột tại
hệ thống do mình quản lý.
1.1.2 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước
ngoài
1.1.2.1Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Gần đây, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức kinh tế quốc
tế đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về
FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế và
phân loại, sử dụng trong công tác thống kê quốc tế. Quỹ tiền tệ thế giới
( International Moneytary Fund – IMF), trong báo cáo cán cân thanh toán hàng năm
đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
9
“ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại
một nước khác( nước nhận đầu tư – hosting country, không phải tại nước mà doanh
nghiệp đang hoạt động( nước đi đầu tư – source cuontry) với mục đích quản lý một
cách có hiệu quả doanh nghiệp”
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( Organisation for Economic
Cooperation and development – OECD) cũng đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp
nước ngoài tương tự như IMF. Tuy vậy, OECD có quan niệm rất rộng về nhà đầu tư
nước ngoài. Theo quan điểm của OECD, nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc tổ
chức có thể thuộc cơ quan chính phủ hoặc không thuộc cơ quan chính phủ đầu tư tại

nước ngoài.
(1)

Uỷ ban thương mại và phát triển của Liên hợp quốc ( USCTAD), trong báo
cáo đầu tư thế giới năm 1996
(2)
đã đưa ra định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài như
sau:
“ đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ lợi ích và sự kiểm soát lâu dài
của một pháp nhân hoặc thể nhân ( nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ)
đối với một doanh nghiệp có một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh
nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)”.
UNCTAD còn đưa ra một số khái niệm khác có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, dòng vốn FDI ra và dòng vốn FDI vào là vốn được nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào doanh nghiệp FDI tại nước tiếp nhận đầu tư.
Cùng với khái niệm này, có ba khái niệm sau:
- Vốn đầu tư cổ phần là cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua từ doanh
nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư, không phải cổ phần của doanh nghiệp trong nước tại
nước đi đầu tư.
- lợi nhuận tái đầu tư là cổ tức không được chuyển cho nhà đầu tư nước ngoài mà
được giữ lại nhằm mục đích tái đầu tư.
10
- Các giao dịch vay và nợ bên trong công ty là các khoản vay ngắn hạn và dài hạn
giữa công ty mẹ và công ty thành viên.
Thứ hai, vốn cổ phần đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign – Direct – Investment
Istock) là giá trị cổ phần và vốn dự trữ ( bao gồm cả lợi nhuận giữ lại) thuộc về công
ty mẹ cộng thêm các khoản nợ ròng của các công ty thành viên.
Hoa Kỳ là một trong những nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành đầu tư lớn nhất trên
thế giới cũng đưa ra định nghĩa về FDI: “FDI là bất kỳ dòng vốn nào thuộc sở hữu

đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu tư có được từ việc cho vay hoặc
dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp nước ngoài” và Hoa Kỳ coi việc sở hữu đa
phần chỉ cần chiếm 10% giá trị của doanh nghiệp nước ngoài. Có thể nhận biết FDI
theo quan điển Hoa Kỳ theo ví dụ sau ( bảng 1.1). (OECD Benchmark Deffinition of FDI, page 5)
Quan điểm về FDI của Việt Nam theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật đầu tư nước
ngoài được sửa đổi bổ xung năm 2000: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn hoặc bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này.”
trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam.
Bảng 3. Ví dụ về định nghĩa FDI của Hoa Kỳ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Công ty Alcoa của Hoa Kỳ mua 50%
cổ phần của một công ty khai khoáng
của Jamaica.
Công ty Alcoa của Hoa Kỳ mua 5%
cổ phần của một công ty khai khoáng
Jamaica
Công ty Ford của hoa kỳ cho một chi
nhánh ở Canada vay, trong đó Ford
chiếm 55% cổ phần
Công ty Ford của Hoa Kỳ cho một
chi nhanh ở Canada vay, trong đó
Ford chiếm 8% cổ phần.
11
Nguồn: International Economics
Peter H.Lindert and Thomas A.pugel
Qua các định nghĩa về FDI, có thể rút ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài
như sau: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc
bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc

kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi”.
1.1.2.2Các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
-
Xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân làm 2 loại: đầu tư theo chiều ngang và đầu
tư theo chiều dọc.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang ( horizontal FDI): là việc một công
ty tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi
thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm lợi nhuận cao
hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này
dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát
triển.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều dọc (vertical FDI): khác với các hình thức
đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đích khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào rẻ như lao động đất đai và các
nước nhận đầu tư. Do các nhà đầu tư thường chú ý khai thác cạnh tranh của các yếu
tố đầu vào giữa các khâu trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân
công lao động quốc tế, nên các sản phẩm thường được hoàn thiện qua lắp ráp ở các
nước nhận đầu tư. Sau đó các sản phẩm này lại được nhập khẩu về nước đầu tư hay
12
xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển.
- Xét về hình thức sở hữu đầu tư trực tiếp nước ngoài thường thường có các hình
thức sau:
+ Hình thức doanh nghiệp liên doanh: đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài,
qua đó pháp nhân mới được thành lập gọi là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp
mới do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng
liên doanh, hình thức này có đặc trưng: pháp nhân mới được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ
nhà. Mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân riêng. Nhưng
doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Khi các bên

đã đóng góp đủ số vốn đã quy định vào liên doanh thì dù một bên có phá sản, doanh
nghiệp liên doanh vẫn tồn tại. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với
doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của
tổ chức cá nhân nước ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ
chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự quản lý điều hành và hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp này được hình thành dưới dạng
các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Vốn pháp định cũng như vốn đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài đóng góp, vốn
pháp định ít nhất bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp.
+ Hình thức hợp tác kinh doanh dựa trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là
hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa
hai hay nhiều bên ( gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một hoặc nhiều
hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần lập xí nghiệp liên
13
doanh hoặc pháp nhân mới hình thức này không làm hình thành một công ty hay một
xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách là pháp nhân độc lập của mình và
thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nhà nước.
 Ngoài ba hình thức cơ bản trên, theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây
dựng còn có hình thức:
+ Hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao ( BOT) và một phương pháp đầu tư
trực tiếp dựa trên cơ sở được ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài ( có thể là tổ
chức cá nhân nước ngoài đầu tư nước ngoài ( có thể là tổ chức cá nhân nước ngoài)
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời gian nhất định, hết thời gian nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
không bồi hoàn công trình cho các nước chủ nhà.
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao thường được thực hiện bằng 100%
vốn nước ngoài, cũng có thể được thực hiện bằng vốn nước ngoài và phần vốn góp

của chính phủ hoặc các tổ chức, cá nhân của nước chủ nhà. Trong hình thức đầu tư
này, các nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền tổ chức xây dựng kinh doanh công
trình trong một thời gian đủ thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có
nghĩa vụ chuyển giao cho nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền
nào.
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh và phương thức đầu tư dựa trên
văn bản ký kết giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kinh doanh kết cấu hạ tầng. Sau khi xây
dựng song nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước
chủ nhà có thể dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời
gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý
+ Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT): là một phương thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ
nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây
14
dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà.
Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án
khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
1.1.2.3) Bản chất của FDI:
Bản chất của FDI thể hiện rõ hơn qua việc xem xét nó dưới góc độ khác nhau dưới
đây:
- Đối với nhà đầu tư: việc theo đuổi lợi nhuận dựa trên cơ sở phát huy lợi thế cạnh
tranh là động cơ xuyên suốt của các nhà đầu tư nước ngoài thúc đẩy họ tìm đến các
quốc gia khác có những yếu tố thuận lợi hơn có thể khai thác tạo ra luồng đầu tư ra
khỏi biên giới quốc gia. Ngoài việc tận dụng lợi thế so sánh như nhân công rẻ, nguồn
tài nguyên vật liệu rồi rào, địa điểm tiêu thụ thuận lợi, nhà đầu tư còn quan tâm tranh
thủ chính sách khuyến khích tạo thuận lợi của nước tiếp nhận đầu tư để tăng lợi
nhuận, mở rộng thêm thị phần và tăng sức cạnh tranh. Đối với nhà đầu tư, FDI là
công cụ, phương tiện thực hiện chiến lược kinh doanh của mình. Nhưng cũng chính
thông qua FDI mà các công ty đa quốc gia mở rộng hoạt động của mình ra quốc tế

và trở thành công ty xuyên quốc gia; như vậy giữa FDI và các công ty xuyên quốc
gia có mối quan hệ gắn bó với nhau như “hình với bong”. Trong bối cảnh hiện nay
các công ty xuyên quốc gia tăng cường hoạt động và tăng cường cạnh tranh với nhau
trong việc đặt địa điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh nước ngoài, đồng thời nó cũng là
yếu tố chính làm cho các dòng vốn FDI ngày càng phát triển hơn.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư: FDI là nguồn lực đầu tư từ bên ngoài có ý nghĩa
trong phát triển kinh tế, đối với cả các nước đang phát triển và các nước công nghiệp
đã phát triển.
 Đối với các nước phát triển, nhu cầu bổ xung vốn không phải là chủ yếu, yếu tố
gia tăng phân công lao động và hợp tác quốc tế nhằm tăng năng xuất, hiệu quả sử
15
dụng nguồn lực có ý nghĩa quan trọng hơn. Nhưng đối với các nước đang phát triển,
do quy mô và tỷ lệ tích lũy trong nước còn thấp thu hút FDI là hình thức huy động
nguồn lực bên ngoài quan trọng có nhiều ưu điểm để bổ xung vốn đầu tư, cải tiến
công nghệ, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. Đối với một số nước
nghèo chậm phát triển FDI không chỉ đơn thuần là nguồn lực bổ xung từ bên ngoài,
mà còn có thể được coi như một lối thoát nhằm tạo ra “cú hích” từ bên ngoài, và phá
vỡ “ vòng luẩn quẩn của đói nghèo”. Như nhà kinh tế học P.A. Samuelson và nhiều
nhà kinh tế học khác từng đề cập. Tuy nhiên không phải tất cả các nước nghèo đều
có thể đi lên, thoát nghèo rút ngắn được khoảng cách về trình độ phát triển bằng con
đường thu hút FDI, vì thu hút FDI có những đòi hỏi nhất định và có tính 2 mặt. Để
thu hút được nhiều vốn FDI, nước tiếp nhận phải tạo được môi trường ổn định về
chính trị, kinh tế, xã hội , có hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư nước ngoài cởi
mở, hấp dẫn có kết cấu hạ tầng được chuẩn bị tương đối tốt, có đội ngũ lao động
được đào tạo phù hợp, có nền hành chính hữu hiệu, thực hiện đúng cam kết quốc tế,
đảm bảo uy tín đối với nhà đầu tư… Kinh nghiệm cho thấy khi các dự án đầu tiên đã
triển khai thuận lợi, đạt hiệu quả cao thì có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích
và lôi kéo các nhà đầu tư tiềm năng khác, thậm chí còn tạo ra sự cạnh tranh giữa các
nhà đầu tư. Mặt khác khi đã thu hút được FDI, việc sử dụng nó để kết hợp với đầu tư
trong nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy phát triển hợp lý, bền vững cũng là

vấn đề then chốt đối với nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI với tư cách là một dòng vốn quốc tế: trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế
giới, đi kèm các luồng hàng hóa, dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia, châu lục là
những dòng tiền quốc tế, FDI là một trong những dòng tiền quốc tế, gắn bó với nó là
hoạt động đầu tư để sản xuất, kinh doanh lâu dài tại nước tiếp nhận đầu tư, tức là nó
thuộc vào dòng chu chuyển vốn, có thời hạn tương đối dài.
Dòng vốn này gắn với quá trình tự do hóa đầu tư, phân biệt với dòng tiền quốc tế
ngắn hạn thường gắn với quá trình tự do hóa thương mại hoặc kinh doanh, đầu cơ
16
tiền tệ ngoại hối và cũng có tính chất khác biệt so với hoạt động đầu tư gián tiếp
( mua, bán trứng khoán) hoặc các giao dịch vay nợ giữa các quốc gia, các doanh
nghiệp trên thế giới, thường gắn với quá trình tự do hóa tài chính. Do đi tiền với
công trình dự án đầu tư tại một địa điểm cụ thể. FDI có tính ổn định tương đối cao,
dễ theo dõi, dễ kiểm soát, không biến động quá bất thường như các dòng tiền ngắn
hạn hoặc các khoảng đầu tư gian tiếp. Quá trình phát triển, mở rộng cả về quy mô và
không gian hoạt động của dòng vốn FDI góp phần thúc đẩy quá trình tự do hóa đầu
tư, thông qua đó thúc đẩy hợp tác và phân công lao động quốc tế, làm cho kinh tế
các nước liên kết với nhau chặt chẽ hơn, tùy thuộc vào nhau nhiều hơn và góp phần
thúc đẩy toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
1.1.2.4) Đặc điểm của FDI
1.1.2.4.1 Những mặt tích cực
So với những hình thức đầu tư nước ngoài khác đầu tư trực tiếp nước ngoài có có
những ưu điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: FDI không để lại gánh nặng nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như
hỗ trợ phát triển chính thức như (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác
như cho vay thương mại, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…Bởi vì, chính xác nhà
đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, làm ăn lâu dài ở các nước sở tại, hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về kết
quả đầu tư. Nước tiếp nhận FDI ít phải chị những rằng buộc của người cung ứng vốn
như tiếp nhận ODA, kể cả kèm theo những điều kiện về chính trị, có ảnh hưởng đến

công việc nội bộ, chủ quyền của đất nước đi vay.
17
Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong
nước có thể giảm được rui ro về tài chính, trong tình uống sấu nhất khi gặp rủi ro thì
các đối tác nước ngoài cũng là người cùng chia sẻ với công ty của nước sở tại.
Do vậy mà thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước
tiếp nhận đầu tư. Đây là điều nhiều nước đang phát triển quan tâm, vì khả năng trả
nợ của họ, nhất là phải trả nợ bằng ngoại tệ mạnh thường là yếu kém.
Thứ hai: do đặc điểm và bản chất của FDI, nhà đầu tư không rễ ràng rút vốn ra khỏi
nước sở tại như đầu tư gián tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính –
khu vực năm 1997 cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của cuộc khủng
hoảng thường là nước tiếp nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, ngược lại
những nước thu hút nhiều FDI thường chịu tác động của cuộc khủng hoảng ít hơn,
nhẹ hơn. Kinh nghiệm của một số nước lâm vào khủng hoảng tài chính – tiền tệ như
Meehico ( 1984) và Arghentina (2001) cũng đã nhận định tương tự. Chính vì vậy,
sau các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, các nước đang phát triển được khuyến
cáo nên thay đổi chính sách theo hướng thận trọng hơn với đầu tư gián tiếp, chú
trọng hơn đến việc thu hút, sử dụng FDI. Đối với FDI, nhà đầu tư thường tính
chuyện làm ăn lâu dài, không mang tính đầu cơ như đầu tư gián tiếp. Trong trường
hợp không muốn làm ăn tiếp, nhà đầu tư cũng không thể rút vốn dễ dàng nhanh
chóng như đầu tư gián tiếp, vì vốn đầu tư của họ nằm trực tiếp trong nhà xưởng,
thiết bị trên đất nước tiếp nhận đầu tư, phải chuyển đổi bằng cách bán lại hoặc thanh
lý nhà máy mới thu hồi vốn và chuyển về nước được.
Thứ ba, FDI không chỉ đơn thuần là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật
phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm tiên tiến, cho phép
tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới… cho nước tiếp nhận đầu tư. Đây
là điểm hấp dẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển trình độ
18
phát triển có trình độ và khoa học công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật
mới được phát minh trên thế giới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát

triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước côn nghiệp phát triển, các
nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với kỹ thuật mới. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể
của mình, mỗi nước có cách đi riêng để nâng cao trình độ công nghệ của mình thông
qua FDI là cách tiếp nhận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Thực tế cho thấy FDI là một
kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển,
điều này có ý nghĩa rất lớn đối với nước cần thiếu vốn vừa có trình độ phát triển thấp
công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo đầy đủ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trong nhiều phương diện: chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu
vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động…
Tuy nhiên không chỉ có các nước đang phát triển và chậm phát triển quan tâm đến
yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI mà cả các nước công nghiệp phát triển cũng
đang tim cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hóa sản xuất, tận dụng lợi
thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh
tế.
Thứ tư, thông qua tiếp nhận FDI, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thuận lợi để gắn
kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối trao đổi quốc tế thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước này. Chủ thể chủ yếu của hoạt động
FDI trên thế giới hiện nay là các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới
chân rết toàn cầu; thông qua tiếp nhận đầu tư, của các công ty tập đoàn này, nước sở
tại có điều kiện để thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm
quen với tập quán, thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những thay đổi
trên thị trường thế giới…Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập
19
kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu
hóa kinh tế thế giới.
Thứ năm, FDI có một lợi thế nữa so với ODA là nó có thể được sử dụng lâu dài, từ
khi một nền kinh tế còn mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển
rất cao. Vốn ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển ( có

thu nhập bình quân đầu người dưới một mức nhất định) sẽ giảm đi và chấm dứt khi
nước tiếp nhận thoát ra khỏi tình trạnh kém phát triển, trở thành nước công nghiệp,
tức là bị giới hạn trong một thời kỳ nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này. Nó
có thể được sử dụng rất lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế
của nước tiếp nhận. Với những ưu thế quan trọng như trên ngày càng có nhiều nước
coi trọng FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư
nước ngoài khác trong chiến lược phát triển của mình. Trong thực tế, một số nước đã
áp dụng mô hình phát triển sau dây: giai đoạn đầu sử dụng ODA của các nước lớn
để tạo “cú hích” hoặc vay nợ để có vốn đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu; sau
đó chuyển giao sang thu hút FDI để đổi mới công nghệ, nâng cao năng xuất, sức
cạnh tranh và khi đã có vị thế nhất định có công nghệ tiên tiến thì các doanh nghiệp
trong nước vươn ra đầu tư nước ngoài, thu lợi nhuận chuyển về nước.
1.1.2.4.2 Một số hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho nước tiếp nhận,
cần phải lưu ý. Đó là:
- Việc sử dụng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng có thể dẫn
đến việc thiếu chú trọng huy động và sử dụng vốn tối đa trong nước, gây ra sự mất
cân đối trong cơ cấu đầu tư( giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài), có thể gây nên
sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn nước ngoài, vào nhà đầu tư nước ngoài ( kể cả
bí quyết kỹ thuật, công nghệ đầu mối cung cấp vật tư, nguyên liệu, tiêu thu sản phẩm
20
…) do đó tỷ trọng FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì tính độc
lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ thuộc bên ngoài,
thiếu vững chắc ( nhất là khi dòng vốn FDI có sự biến động, giảm sút lớn…).
- Các nhà đầu tư thường sử dụng lợi thế của mình đối với doanh nghiệp ở nước tiếp
nhận, nhất là trong trường hợp liên doanh, để thực hiện biện pháp “chuyển giá”
( transfer pricing) thông qua cung ứng nguyên vật liệu, chi tiết , linh kiện, bộ phận
sản phẩm dở dang với giá cao, thu lợi ngay từ khâu này, làm cho giá thành cao một
cách giả tạo, giảm lợi nhuận, thậm chí gây ra “lỗ giả, lãi thật” gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và giảm thu ngân sách của nước sở tại ( nhất là trong trường hợp

chính sách và trình độ quản lý của nước chủ nhà chưa chặt chẽ, hoàn chỉnh). Đôi khi
doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài thực hiện các chính sách cạnh tranh bằng
con đường bán phá giá, chịu lỗ trong giai đoạn đầu và các hình thức cạnh tranh
không bình đẳng khác để loại trừ đối thủ cạnh tranh khác độc chiếm hoặc khống chế
thị trường, lấn át các doanh nghiệp trong nước, làm cho một ngành hoặc một số
ngành trong nước khôn phát triển được.
- Lợi dụng trình độ công nghệ thấp và quản lý yếu kém của nước chủ nhà, một số
nhà đầu tư nước ngoài thông qua con đường đầu tư FDI để tiêu thụ những máy móc
thiết bị lạc hậu, thậm chí đã loại sang nước tiếp nhận FDI. Thực tế ở nhiều nước cho
thấy khi đã thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài đã tranh thủ góp
vốn bằng các thiết bị và vật tư lạc hậu, đã qua sử dụng (được tân trang) hoặc nhiều
khi đã hết hạn thanh lý. Nếu không có những quy định và sự kiểm soát chặt chẽ,
nước nhận FDI dễ trở thành “ bãi thải công nghiệp” của các công ty xuyên quốc gia,
gây thiệt hại to lớn cho nền kinh tế.
Thông qua sức mạnh hơn hẳn về tiềm lực tài chính, sự có mặt của các doanh nghiệp
có vốn nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ra một số ảnh
21
hưởng bất lợi về kinh tế - xã hội như làm tăng chênh lệch về thu nhập, làm gia tăng
sự phân hóa trong tầng lớp nhân dân, tăng mức độ chênh lệch trong một vùng hoặc
giữa các vùng… So với các hình thức đầu tư nước ngoài khác nước chủ nhà khó chủ
động trong việc điều phối, phân bổ sử dụng nguồn vốn FDI vì về cơ bản, quyết định
đầu tư ( cả về quy mô, địa điểm hình thức đầu tư, sản phẩm công nghệ, phân phối
sản phẩm…) thuộc về nhà đầu tư.
1.2. Kinh nghiệm thu hút và sử dụng FDI của một số nước và
tác động của FDI đến kinh tế Việt Nam
1.2.1. Kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn FDI của Một số nước
1.2.1.1Kinh nghiệm thu hút vốn FDI của Trung Quốc
Nhận thức được vai trò to lớn của FDI trong quá trình phát triển của nền kinh tế
nói chung và nông nghiệp nói riêng, chính phủ Trung Quốc đã có nhiều chiến lược
và chính sách thu hút đầu tư FDI một cách có Hệ thống vào ngành nông nghiepj

ngay từ khi mở cửa nền kinh tế. Trọng tâm của chính sách này được thể hiện:
- Đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành nông, lâm, ngư nghiệp,
chính phủ Trung Quốc thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư và các biện pháp
khuyến khích cho đầu tư vào các dự án đầu tư vào ngành này, đặc biệt là các chính
sách ưu đãi về thuế: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài ( các mức thuế cũng được phân chia theo lĩnh vực đầu tư, vùng
lãnh thổ đầu tư, công nghệ sử dụng tỷ lệ lao động, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm… mà
áp dụng các mức thuế xuất, mức miễn giảm thuế khác nhau). Chính sách này có
tác dụng to lớn khi tác động to lớn đến lợi nhuận mong muốn mà nhà đầu tư hi
vọng nhận được, nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào những lĩnh vực
22
mà chính phủ mong muốn phát triển nhưng chưa có điều kiện, ngành nông nghiệp
là ngành có nhiều sự ưu tiên khi mức miễn giảm thuế, đặc biệt đối với các vùng
khó khăn, còn được miễn thuế hoàn toàn. Các chính sách miễn giảm thuế cũng
phụ thuộc vào độ dài của dự án đầu tư, do đó mà làm tăng tính bền vững và hiệu
quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thực hiện nguyên tắc tự do hóa đầu tư. Với chính sách này, chính phủ Trung
Quốc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực mà trước đây vẫn còn chưa
mở cửa. Với chính sách này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ cảm thấy được “đối sử”
công bằng so với các nhà đầu tư trong nước, tạo môi trường tự do lành mạnh.
- Bên cạnh chính sách đấy Trung Quốc vẫn áp dụng một số quy định cấm nhât
định nhằm bảo vệ an ninh Quốc gia và truyền thống văn hóa dân tộc, bảo hộ nền
sản xuất trong nước, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên…Mặc dù thực hiện
chính sách đa dạng hóa các loại hình đầu tư chủ đầu tư, song đối với dự án vào
các lĩnh vực phát triển và sản xuất ngũ cốc (bao gồm cả khoai tây, bông và cây lấy
dầu, các loại thuốc gia truyền) của Trung quốc thì có sự hạn chế của các hình thức
đầu tư: chỉ cho phép đầu tư với hình thức doanh nghiệp liên doanh và và hạn chế
tỷ lệ sở hữu nước ngoài không được chiếm đa số. Chính sách này đảm bảo cho các
sản phẩm nông nghiệp chính, các sản phẩm đặc trưng dân tộc không bị phụ thuộc
vào nước ngoài

- Chính phủ Tung quốc đặc biệt chú trọng đến các dự án bảo vệ môi trường, đặc
biệt không cấp phép cho những dự án đầu tư có tác động đến nguồn tài nguyên
thiên nhiên và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
1.2.1.2 kinh nghiệm thu hút vốn FDI của Thái Lan.
23
Là một nước có khá nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, ngành nông nghiệp
vẫn là chiếm vị trí quan trọng nhất đối với đất nước này kể về lao động hoạt động,
đóng góp cho GDP và thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu.
- Thái Lan đặc biệt áp dụng chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế nhập khẩu đối
với chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Các dự án
FDI trong nông nghiệp được miễn giảm đến 50% thuế nhập khẩu đối với các loại
máy móc, thiết bị để thực hiện dự án mà được cơ quan quản lý đầu tư công nhận
và thuộc loại thiết bị được khuyến khích đầu tư. Riêng đối với các dự án đầu tư
vào các lĩnh vực đặc biệt khó khăn và có sản phẩm xuất khẩu, được miễn hoàn
toàn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòn 5 năm.
- Đối với các dự án đầu tư và lĩnh vực như trồng lúa, trồng trọt, làm vườn, chăn
nôi gia súc, các dự án về khai thác lâm sản, hải sản, khai thác muối … trong lãnh
thổ Thái Lan thì có biện pháp hạn chế chặt chẽ, chỉ cho phép đầu tư đối với dự án
được hội đồng đầu tư cho phép, trong những dự án này chỉ cho phép với hình thức
liên doanh và các nhà đầu tư nuwos ngoài không được nắm quyền sở hữu đa số.
- Thái Lan cũng hạn chế đầu tư nước ngoài trong những ngành nghề nhất định mà
chưa thực sự sẵn sàng hợp tác với nước ngoài như: sản xuất bột mỳ, đánh bắt thủy
sản, khai thác lâm sản…
1.2.1.3 Kinh nghiệm thu hút vốn FDI của Malaysia
Trong khu vực, Malaysia là nước có tỷ lệ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài khá
cao trong lĩnh vực nông nghiệp và cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Trong
chính sách với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Malaysia đã thực hiện các biện
pháp sau:
- Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với cả thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế nhập khẩu.

24
- giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà phức tạp.
- bên cạnh đó, cũng là những hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài, không
cấp phép hoặc chỉ cấp phép đầu tư khi có điều kiện: phát triển nguồn nguyên liệu,
đầu tư trên địa bàn nhất định, sản phẩm xuất khẩu…
- Malaysia đóng cửa gần như hoàn toán đối với các dự án tinh chế đường. Hạn chế
đối với các ngành tinh chế dầu cọ, sợi mỳ chế biến, nước chấm, gia vị… để bảo vệ
các sản phẩm mang tính chất dân tộc.
1.2.2 Tác động của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển của Việt
Nam
Vốn FDI được giải ngân đúng tiến độ sẽ đem lại lợi ích kinh tế không chỉ đối với
nhà đầu tư mà còn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội đối với nước nhận đầu tư.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam.
1.2.2.1 Vốn FDI là nguồn vốn bổ xung quan trọng cho vốn đầu tư xã hội .
Xét về nhu cầu vốn, vốn FDI được coi là nguồn vốn bổ xung quan trọng cho vốn
đầu tư toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển của Việt Nam, trong
thời gian qua, đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ
tỉ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 30,4% trong năm 1995 và
giảm dần trong các giai đoạn 1996 – 2000 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực và trong 7 năm (2001 – 2008) chiếm khoảng 16% tổng vốn
đầu tư xã hội.
Vốn FDI chiếm tỉ trọng ngày càng tăng trong GDP. Từ năm 1991 – 2000, GDP
tăng liên tục qua các năm với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Mức đóng
góp trung bình 6,3% của GDP trong giai đoạn 1991 – 1995, khu vực doanh nghiệp
có vốn FDI đã tăng lên 10,3% GDP của 5 năm (1996 – 2000). Trong thời kỳ 2001
25

×