Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.76 KB, 33 trang )

Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh
I. lý luận chung về tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai
chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử
dụng trong thời gian nhất định, đồng thời nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn
trả theo thời gian đã thoả thuận.
1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại theo những tiêu
thức khác nhau.
1.2.1. Theo thời hạn sử dụng:
Cho vay có kỳ hạn là khoản vay mà thời hạn hoàn trả và thời điểm hoàn
trả được xác định một cách cụ thể ngay từ khi ký hợp đồng tín dụng. Có ba loại:
 Cho vay ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn không quá một năm, dùng để
bổ sung cho phần vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp hay phục vụ tiêu dùng đối với nhu cầu cá nhân.
 Cho vay trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 12 đến 60 tháng.
 Cho vay dài hạn là loại tín dụng có thời hạn từ 5 năm đến thời hạn được
phép tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp đi vay.
Cho vay không kỳ hạn là khoản cho vay không quy định thời điểm hoàn
trả cụ thể khi ký hợp đồng vay mà thay vào đó là những điều kiện cụ thể về trả
nợ của người vay và việc thu hồi tiền cho vay của NH. Điều kiện ở đây là người
đi vay sẽ hoàn trả khi không có nhu cầu sử dụng hay khi có nguồn khác bù đắp.
SV: Thái Phương Linh 1 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Còn Ngân hàng phải báo trước để người vay tìm nguồn khác trả nợ cho ngân
hàng. Loại hình cho vay này sẽ góp phần tạo điều kiện chủ động cho khách
hàng trong việc sử dụng tiền vay, giảm chi phí còn đối với Ngân hàng sẽ có kế
hoạch điều chỉnh khả năng cho vay, đồng thời tiết kiệm chi phí trong quá trình


xét duyệt.
1.2.2. Theo phương thức bảo đảm
 Cho vay có bảo đảm là các khoản vay mà Ngân hàng sẽ nắm giữ các tài sản
thuộc sở hữu trực tiếp của người đi vay, thuộc tài sản sở hữu người bảo lãnh với
mục đích xử lý các tài sản đó để thu hồi tiền cho vay khi người vay vi phạm
HĐTD. Các loại tài sản nói trên thường là bất động sản và động sản, ngoài ra
còn phụ thuộc vào quy định của cho vay.
 Cho vay không có bảo đảm (tín chấp). Ngân hàng không nắm giữ một loại tài
sản nào của người vay để thanh lý tài sản nhằm thu hồi khoản vay, mà thay vào
đó những điều kiện khắt khe:
- Khách hàng không được thiết lập mối quan hệ với bất kỳ một Ngân hàng khác
nhằm giúp Ngân hàng quản lý được mọi biến động trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
- NH đã hoặc đang góp một phần vốn với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Phương án kinh doanh của DN được NH đánh giá có tính khả thi cao, khả năng
đem lại lợi nhuận cao.
1.2.3. Theo ngành kinh tế
Tín dụng được phân cấp thành tín dụng cấp cho ngành công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp dịch vụ.. ..Vì hướng cho vay khác nhau nên điều kiện và
SV: Thái Phương Linh 2 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
phương thức cho vay rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành mà có
quy định riêng.
1.2.4. Theo thành phần kinh tế
Tín dụng phân cấp cho thành phần kinh tế quốc doanh
Tín dụng phân cấp cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
1.2.5. Theo phương thức trả góp:
 Cho vay trả góp cho tiêu dùng.
 Cho vay hoàn trả một lần khi đến hạn thường áp dụng đối với những khoản cho

vay nhỏ hay ngắn hạn.
 Cho vay từng món được phát sinh khi doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu
được tiền không có giấy tờ để chiết khấu hay thấu chi, khi mở rộng chu kỳ kinh
doanh có tính chất nhất thời không vĩnh viễn, có thể xác định được lượng tiền
cần vay và thời hạn sử dụng.
 Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay mà khách hàng và Ngân
hàng thoả thuận xác định lượng tín dụng tối đa theo đó trong một khoảng thời
gian nhất định thì khách hàng có thể toàn quyền được vay trong điều kiện tổng
dư nợ tại thời điểm đó không vượt quá số quy định.
 Cho vay hợp vốn là hình thức nhiều tổ chức tín dụng khác nhau đồng tài trợ cho
một đối tượng đi vay. Có ưu điểm là san sẻ rủi ro, song nhược điểm là lơi lỏng
trong việc kiểm soát tiền vay của khách hàng.
1.2.6. Theo nguồn gốc hình thành các khoản cho vay.
 Cho vay trực tiếp là những cơ sở hình thành trực tiếp giữa Ngân hàng và nguời
vay diễn ra ở Ngân hàng hoặc doanh nghiệp. Hiện nay, phần lớn các khoản cho
vay của Ngân hàng là cho vay trực tiếp.
SV: Thái Phương Linh 3 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
 Cho vay gián tiếp được thực hiện thông qua mua lại những khoản cho vay của
Ngân hàng khác hoặc thông qua mua lại những khoản cho vay của Ngân hàng
khác hoặc thông qua trái phiếu của công ty, chính phủ.
1.2.7. Theo kỹ thuật cung cấp tín dụng được phân thành:
 Bảo lãnh là hình thức Ngân hàng dùng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho
người mua trước người bán. Hình thức bảo lãnh rất đa dạng và phong phú như
bảo lãnh ký quỹ dự thầu, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh đối
ứng…
 Tín dụng thuê mua là hình thức mà người thuê sau một thời gian sử dụng tài sản
thuê có thể mua lại tài sản đó với mức giá thoả thuận.
 Tín dụng chiết khấu là nghiệp vụ mà theo đó Ngân hàng cấp cho khách hàng
một số tiền bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu trừ đi một khoản lệ phí chiết

khấu. Khi chứng từ chiết khấu đến hạn Ngân hàng nhận lại toàn bộ số tiền bằng
mệnh giá chứng từ chiết khấu, chứng từ chiết khấu có thể là kỳ phiếu thương
mại, hối phiếu đã được chấp nhận.
II. Tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1. Tín dụng trung – dài hạn
1.1.1 Khái niệm
 Tín dụng Ngân hàng (cho vay) trung- dài hạn là các khoản cho vay của
Ngân hàng có thời hạn trên một năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao
cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay.
 Tín dụng trung – dài hạn còn góp phần đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình
sản xuất được liên tục, đồng thời góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế. Trong
điều kiện kinh tế phát triển cao như hiện nay, thừa thiếu vốn tạm thời thường
xuyên xảy ra tại các doanh nghiệp. Việc phân phối tín dụng trung – dài hạn đã
SV: Thái Phương Linh 4 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện cho quá trình sản xuất
được diễn ra liên tục, ngoài ra nó còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư đồng
thời là phương tiện đáp ứng vốn cho nhu cầu phát triển.
 Tín dụng trung – dài hạn còn thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất: Hoạt động của Ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử
dụng hiện đang nằm phân tán trong nền kinh tế, trên cơ sở đó cho doanh nghiệp
vay. Tuy nhiên quá trình đầu tư không phải rải đều cho mọi chủ thể mà được
thực hiện một cách tập trung cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy
đây là cách thức buộc các doanh nghiệp phải cố gắng hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách hiệu quả để được Ngân hàng xem xét cho vay vốn.
 Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn: Tín
dụng trung dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của doanh
nghiệp làm kích thích sản xuất phát triển. Khi đó các doanh nghiệp cần nhiều
vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất, điều đó tạo ra thị trường sử
dụng vốn ngắn hạn. Tốc độ phát triển sản xuất càng cao nhu cầu vốn lưu động

càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát
triển.
 Tín dụng trung dài hạn góp phần thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá: Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn,
Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng với sự phát triển của ngành này, cũng có thể
hạn chế đối với một số ngành kinh tế khác. Công nghiệp hoá không chỉ đơn
giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà
là cả quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
SV: Thái Phương Linh 5 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Nhờ có vốn đầu tư tín dụng trung dài hạn mà các doanh nghiệp có thể
nhập khẩu máy móc trang thiết bị công nghệ. Đối với những nước đang phát
triển như Việt Nam thì việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu là một điều tốt,
đây là con đường ngắn nhất để chúng ta đuổi kịp các nước về mặt công nghệ.
Ngoài ra nhờ việc nhập máy móc thiết bị, năng lực sản xuất của doanh nghiệp
được tăng lên, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, mẫu mã đẹp đáp ứng
yêu cầu của thị trường nước ngoài, để có thể tăng khả năng cạnh tranh và xuất
khẩu.
 Tín dụng trung – dài hạn góp phần tiết kiệm được lượng tiền mặt trong lưu
thông, tạo điều kiện cho việc quản lý và điều hoà lưu thông tiền tệ, góp phần
kiểm soát các hoạt động trong nền kinh tế, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng sử
dụng vốn trong hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện
tốt chế độ hạch toán kinh doanh.
 Tín dụng trung dài hạn góp phần tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách.
Tín dụng trung dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế theo chiều sâu, do đó khi
sản xuất phát triển sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá để tiêu thụ trong nước
cũng như xuất khẩu, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, do đó
trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ với khối lượng lớn, ổn

định sẽ tạo ra nguồn thu cho ngân sách từ thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế sử
dụng tài nguyên. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì nhà nước còn
có khoản thu từ thuế thu nhập. Trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được
xuất khẩu sang các nước thì chúng ta sẽ thu được ngoại tệ đảm bảo duy trì cho
nhu cầu nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
 Tín dụng trung – dài hạn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển
và ngành kinh tế mũi nhọn: Thông qua hệ thống Ngân hàng, Nhà nước sẽ tài trợ
cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp,
SV: Thái Phương Linh 6 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
thời gian dài, mức hồi vốn lớn. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tập trung vốn để tài
trợ cho các ngành mũi nhọn, các ngành này phát triển sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn
thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo.
 Tín dụng trung – dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với nước
ngoài: Trong điều kiện hiện nay, phát triển kinh tế một nước luôn gắn liền với
kinh tế thế giới, kinh tế “đóng” nhường bước cho kinh tế “mở” vì vậy tín dụng
trung – dài hạn đã trở thành một phương tiện nối liền các nền kinh tế với nhau.
 Trong thời gian qua tín dụng trung – dài hạn của Ngân hàng đã có những đổi
mới tích cực, cơ chế lãi suất tín dụng đã bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường,
từ lãi suất thực âm trước đây sang lãi suất thực dương và đang thực hiện tự do
hoá lãi suất, xoá bỏ được sự phân biệt đối với các hình thức sở hữu. Quá trình
đổi mới đó đã chuyển hoạt động của các Ngân hàng thương mại sang chế độ
hạch toán kinh doanh, góp phần quan trọng để kiềm chế và đẩy lùi làm phát,
thúc đẩy các doanh nghiệp củng cố lại chế độ hạch toán kinh doanh, sử dụng
vốn có hiệu quả khai thác tối đa tiềm năng về vốn trong nền kinh tế quốc dân.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, bên cạnh các nguồn vốn vật tư,
kỹ thuật, đất đai, lao động, tri thức khoa học, tín dụng trung – dài hạn là một
kênh vốn quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH –
HĐH. Trước hết đó là công cụ đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế
hàng hoá, hình thành góp phần giữ ổn định nền kinh tế thị trường.

1.2. Tín dụng trung – dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
(DNNQD)
1.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1.1. Khái niệm:
SV: Thái Phương Linh 7 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Xét về hình thức sở hữu thì doanh nghiệp nước ta chia thành 2 loại:
Doanh nghiệp quốc doanh thuộc sở hữu của Nhà nước, còn doanh nghiệp ngoài
quốc doanh mang hình thức sở hữu phi nhà nước. Trước năm 1986 kinh tế
ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể
về tư liệu sản xuất. Từ sau năm 1986 nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích mở rộng các doanh
nghiệp có tính chất tư hữu bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác xã.
1.2.1.2. Phân loại:
- Doanh nghiệp tư nhân:
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Công ty hợp danh
- Hợp tác xã
1.2.1.3.Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất đa dạng và phong phú
với nhiều ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ là một Ngân hàng,
chúng ta nhìn nhận đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này trên một số giác
độ sau:
• Hình thức sở hữu:
Hình thức sở hữu của các DNNQD là sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp.
Song chủ yếu là sở hữu hỗn hợp với các loại hình chủ yếu sau: Công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu
SV: Thái Phương Linh 8 TCDN – 44D

Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
chủ, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó, tư cách
pháp lý của loại hình doanh nghiệp này là:
Đối với các doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp FDI chịu trách nhiệm trên phần vốn góp vào
công ty, tức là chịu trách nhiệm hữu hạn.
Đối với các doanh nghiệp: Công ty tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ, công
ty hợp danh thì phải chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của công ty
bằng toàn bộ tài sản của mình, tức là chịu trách nhiệm vô hạn.
• Ngành nghề kinh doanh:
Các DNNQD phần lớn tập trung ở các thành phố lớn và các trung tâm
kinh tế xã hội. Phần nhiều các doanh nghiệp được thành lập mang tính tự phát,
không có sự chỉ định của chính quyền. Đa số họ hoạt động trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ, khách sạn; lĩnh vực công nghiệp thường chiếm tỷ trọng
nhỏ hơn; lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác và phân phối điện, tài chính
Ngân hàng … chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Sở dĩ có sự mất cân đối trong lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp này
đối với nền kinh tế là họ thượng ưa thích đầu tư vào nhứng ngành nghề có khả
năng quay vòng vốn nhanh, vốn đầu tư ít như thương mại, dịch vụ… Bởi vì như
thế là phù hợp với khả năng tài chính và năng lực quản lý của họ. Các lĩnh vực
khác như xây dựng, tài chính, Ngân hàng … yêu cầu về vốn và trình độ quản lý
rất cao, trong khi đó, việc quay vòng vốn lại lâu gây khó khăn cho họ, chỉ
những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về kinh tế thì mới có đủ điều kiện đầu tư.
• Môi trường kinh doanh
Trước hết là về thông tin thị trường. Đây là khối kinh tế năng động, phản
ứng nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường, nhưng đối với những nước đang
SV: Thái Phương Linh 9 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
phát triển còn thiếu nhiều yếu tố của một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh.
Chính vì vậy, họ thường gặp nhiều khó khăn trong vấn đề nắm bắt thông tin thị

trường về giá cả, sản phẩm đối thủ cạnh tranh … Đây là những khó khăn chung
mà doanh nghiệp phải gánh chịu trong nền kinh tế chưa hoàn chỉnh. Những
thông tin như vậy chỉ có thể có một cách đầy đủ tại nhứng nước phát triển
• Vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là một vấn đề đang được các DNNQD rất quan tâm. Trước hết là
vốn chủ sở hữu. Phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ
hẹp. Nguồn vốn này lại được tập trung chủ yếu vào đầu tư cơ sở hạ tầng và
trang thiết bị, bao gồm cả mặt bằng kinh doanh. Từ đó, khả năng thanh toán
ngắn hạn của vốn chủ sở hữu còn nhiều hạn chế.
Nguồn vốn này có khả năng tăng lên trong quá trình kinh doanh từ việc
trích một phần lợi nhuận hoặc huy động thông qua phát hành cổ phiếu. Song
việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu từ việc trích lợi nhuận để lại phải mất một
thời gian tương đối dài mới hình thành lượng vốn lớn. Với vốn sở hữu nhỏ như
vậy, sẽ gây nhiều khó khăn trong quá trình kinh doanh vì ít có khả năng cạnh
tranh.
Ngoài vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp có thể huy động từ nhiều nguồn
khác nhau. Đối với huy động thông qua vay mượn bạn bè, người thân hoặc
thông qua tín dụng thương mại, đây là những khoản vay hoặc là nhỏ hoặc là
ngắn hạn không đủ đáp ứng về quy mô, thời gian và các mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp. Nguồn vốn Ngân hàng được coi là nguồn vốn chủ yếu của các
doanh nghiệp. Nhưng do quy mô vốn chủ sở hữu thường nhỏ, các DNNQD khó
tiếp cận được với nguồn vốn lớn của các NHTM và các tổ chức tài chính khác
bởi các tổ chức này thường có quy định về tỷ lệ vốn chủ sở hữu nhất định trong
các dự án, phương án sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy đang tồn tại sự bất
SV: Thái Phương Linh 10 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
bình đẳng giữa các DNNN và DNNQD trong việc tiếp cận nguốn vốn tín dụng
Ngân hàng. Đây chính là nhân tố dẫn đến họ thường bị thiệt thòi khi trực tiếp
phải cạnh tranh với các DNNN.
Nhiều doanh nghiệp thành lập cũng có nghĩa là số vốn doanh nghiệp cần

để đầu tư sản xuất, do đó nhu cầu tín dụng của những doanh nghiệp này cũng
tăng lên, tuy nhiên do một số hạn chế của mình khiến nhiều Ngân hàng vẫn còn
e ngại trong việc cho những doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay. Những hạn
chế và ưu điểm gồm những điểm như sau:
1.2.2. ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
1.2.2.1. Ưu thế:
 Có khả năng hướng tới lợi nhuận cao nhất: Đây là điều dễ nhận thấy do các
DNNQD có tính tư hữu cao. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp luôn gắn với
lợi ích của người lao động và quyền lợi của chủ sở hữu. mặt khác, họ phải trực
tiếp cạnh tranh với DNNN vốn có thế mạnh do được Nhà nước bảo trợ. Chính
vì vậy, họ luôn phải tập trung, tìm cách tận dụng tối đa những thế mạnh, nhất là
yếu tố nguồn lực để đẩy mạnh sản xuất nhằm đạt ưu thế nhất định về thương
hiệu như tài chính.
 Hiệu quả sử dụng vốn của các DNNQD cao: Do các doanh nghiệp này thường
đầu tư vào những ngành nghề có vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, có
lợi nhuận tương đối cao như ngành thương mại du lịch … có vốn đầu tư ban
đầu là rất ít. Cũng chính vì quy mô nhỏ nên cũng có thể coi đây là một lợi thế vì
nó dễ dang thay đổi chiến lược kinh doanh thích ứng với sự thay đổi của thị
trường, cơ chế chính sách của Nhà nước.
 DNNQD có khả năng tận dụng triệt để lợi thế để kinh doanh: Xuất phát từ mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các thành phần này lại không được sự hỗ trợ về tài
SV: Thái Phương Linh 11 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
chính của Nhà nước hoặc tổ chức khác. Nguồn lao động là nguồn được khai
thác triệt để nhất vì đây là nguồn lực dồi dào, họ lại áp dụng cách thức quản lý
rất chặt chẽ theo khu vực, địa phương, gia đình. Nguồn khoa học công nghệ
cũng được tận rất cao. Dù rằng trình độ khoa học công nghệ không được đánh
giá cao như DNNN, song họ biết tận dụng một cách tối đa khả năng của các loại
thiết bị máy móc hiện có để phát triển sản xuất.
 Các DNNQD thường có bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh gọn nhẹ: Xuất phát

từ ngành nghề kinh doanh thường là những ngành đơn giản, dễ quản lý, có chu
kỳ kinh doanh ngắn. Mặt khác, nguồn vốn kinh doanh bắt đầu thường thất điều
đó dẫn tới bộ máy quản lý gọn nhẹ. Vì vậy, các quyết định về quản lý hoặc kinh
doanh được thực hiện nhanh chóng. Công tác kiểm tra được thực hiện trực tiếp
đã góp phần đáng kể trong việc giảm chi phí quản lý doanh nghiệp.
 Các DNNQD có tính linh động cao, có khả năng chuyển hướng kinh doanh
nhanh chóng, dễ dàng. Đó là vì họ có cơ cấu vốn thấp và thường chủ yếu là vốn
tự có, lại kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Họ có thể
dễ dàng chuyển hướng kinh doanh sang mặt hàng khác khi thấy cần thiết và có
lợi. Ngoài ra, các DNNQD cũng có thể dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu được
những tiến bộ khoa học, kỹ thuật mới giúp họ có thể tiến nhanh trong quá trình
phát triển, đón đầu những công nghệ mới.
1.2.2.2. Hạn chế:
Tuy có nhiều ưu thế như đã trình bày ở trên. Song các DNNQD cũng còn
nhiều hạn chế khó tránh khỏi sau:
 Về quy mô vốn đầu tư thường là nhỏ, tuy đây cũng là một ưu thế song đây cũng
là một hạn chế lớn cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác,
việc tìm nguồn tài trợ của các doanh nghiệp này thường là khó khăn hơn so với
các DNNN bởi uy tín của họ dường như chưa có gì. hơn nữa do vốn bé trong
SV: Thái Phương Linh 12 TCDN – 44D
Chuyên đề Tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
khi dự án đầu tư lại yêu cầu vốn phải đủ lớn nên không đáp ứng được yêu cầu
về tỷ lệ tài trợ vốn tối thiểu của Ngân hàng khi vay. Tiếp cận được nguồn vốn
Ngân hàng đã khó. để có được nguồn vốn đủ cho phương án sản xuất kinh
doanh thì lại càng khó hơn. Đây cũng chính là vấn đề nan giải nhất hiện nay mà
hầu hết các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính hết sức quan tâm.
 Một hạn chế dễ nhận thấy là thiết bị công nghệ cho sản xuất kinh doanh của một
bộ phận doanh nghiệp còn yếu và lạc hậu. Xuất phát từ nguyên nhân là vốn kinh
doanh ít, lại tập trung chủ yếu vào những ngành nghề đòi hỏi ít vốn, khả năng
thu hồi vốn nhanh, không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Do đó, nhiều doanh

nghiệp đã cố gắng tận dụng những thiết bị máy móc cũ để sản xuất nhằm giảm
chi phí đầu tư vào công nghệ mới đắt tiền.
 Có nhiều doanh nghiệp có chất lượng lao động còn thấp, trình độ tay nghề của
các lao động chưa cao, đặc biệt là trình độ quản lý nói chung còn hạn chế do ít
được đào tạo căn bản. Vì thế, nó chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền
kinh tế. Điều này cũng lý giải vì sao một số doanh nghiệp trong thị trường khi
làm ăn nhỏ thì có hiểu quả và rất phát đạt, nhưng khi chuyển sang kinh doanh
lớn, mở rộng sản xuất thì lại thua lỗ, thậm chí dẫn đến hậu quả phá sản. Bởi khi
đã chuyển sang làm ăn lớn thì đòi hỏi về trình độ quản lý rất cao và chặt chẽ,
không thể áp dụng như cũ, trình độ quản lý phải tương đương với trình độ phát
triển của doanh nghiệp thì mới tồn tại được.
 Từ hàng loạt những hạn chế trên dẫn đến một hạn chế tất yếu nữa là khả năng
cạnh tranh của nhiểu DNNQD thấp, bị nhiều hạn chế, thường bị động trong các
quan hệ thị trường. Đặc biệt là khi phải trực tiếp cạnh tranh với các DNNN có
vốn lớn, trình độ quản lý tương đối hiện đại. Mặt khác, khả năng tiếp thị của
doanh nghiệp này lại yếu do trình độ chưa đạt yêu cầu và thiếu kinh phí đầu tư,
nguy cơ phá sản cao.
SV: Thái Phương Linh 13 TCDN – 44D

×