PHÁT HUY TINH THẦN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ,
ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ MỚI
Nông Đức Mạnh, Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam
(Phát biểu tại Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 15/5/2003)
Thưa các đồng chí,
Hôm nay, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 113 Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890-19-
5-2003), tôi rất vui mừng đến thăm Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Trong thời
gian này, toàn Đảng đang triển khai thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư "Về đẩy mạnh nghiên
cứu, tuyên truyền, giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" nhằm tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tư tưởng, lý
luận. Học viện các đồng chí cũng đang tích cực chuẩn bị tổng kết hơn 10 năm nghiên cứu
và giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
quyết tâm phấn đấu làm cho Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin
ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta, được quán
triệt sâu sắc vào các hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thời kỳ mới.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), trong văn kiện của mình, Đảng ta đã xác định vai
trò, ý nghĩa, giá trị to lớn của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong
cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đến Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng
định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đó là một quyết định có tầm lịch
sử quan trọng thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong
thế kỷ XX, tiếp tục có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng, Nhà nước và
xã hội Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng đinh: "Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Đại hội Đảng chỉ
rõ: "Tư tưởng Hồ chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại"(1). Đại hội đã nêu
lên những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh, nổi bật nhất là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước
thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; về chăm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về sây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân...
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã trình bày một cách ngắn ngọn, khá toàn diện từ khái niệm,
cơ sở hình thành đến những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một kho tàng hết sức sâu rộng, phong phú. Hôm nay, trong khuôn khổ cuộc
gặp này, tôi xin đề cập một số vấn đề cơ bản trong tư tưởng của Người, những vấn đề có ý
nghĩa thiết thực, trực tiếp chỉ đạo tư tưởng và hành động của chúng ta trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước những biến động phức tạp của tình hình thế
giới hiện nay.
Thưa các đồng chí,
Vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là ý chí "không có gì quý hơn độc lập
tự do", là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, thể hiện trước hết trong
việc hoạch định đường lối, chính sách, phương pháp, bước đi của con đường cách mạng
nước ta.
Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, ngay đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất Pháp,
Người đã nói "Tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn"(2);
về sau Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân tộc đã tự cường, tự lập"(3).
Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp thụ chủ nghĩa
Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng
đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường đó đã được vạch ra từ
mùa xuân năm 1930, trong những văn kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba
tổ chức cộng sản thông qua, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó,
những nét lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của
Việt Nam đã được khẳng định.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Từ những năm 20 của thế kỷ trước, trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã
nêu rõ rằng ở phương Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà thời mình Mác
chưa có điều kiện nghiên cứu, đồng thời mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng.
Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác khởi thảo,
một tư tưởng cơ bản được nêu lên là: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải do bản
thân giai cấp công nhân tự giành lấy"(4). Hơn sáu mươi năm sau, trong Tuyên ngôn của
Hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi
xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự
nỗ lực của bản thân anh em"(5). Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc địa đối
với cách mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức
thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ
hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại
của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn"(6). Người đã chỉ ra để mỗi người Việt
Nam hiểu rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải phóng mình, không nên chỉ
trông chờ "công nông Pháp cách mệnh thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ được tự do"
mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ". Chính những luận điểm
sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử. Tháng 8-1945, khi
thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.
Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(7). Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng
tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần "dựa
vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính quyền, Người đòi hỏi phải
"đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng
ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh,
trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh,
cần kiệm xây dựng nước nhà"(8).
Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến
câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Người
nhấn mạnh: "Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự
do"(9).
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ
không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ trương:
"Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai"(10). Người đề cao
việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi
sự sao chép, giáo điều.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo.
Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, Đảng
ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc biệt là vào thời điểm chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con
đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngay trong lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học
tập bạn bè, những nước đi trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao
chép, dập khuôn; đã xác định đường lối đổi mới với các bước đi thích hợp. Thắng lợi của
17 năm đổi mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trong
giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên.
Hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước tình hình thế giới
diễn biến phức tạp, nhanh chóng, trên cơ sở những quan điểm có tính nguyên tắc, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ hết, càng phải phát huy cao độ tinh thần độc lập,
tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang tận dụng mọi khả năng để thu hút ngày
một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng cần khẳng định rằng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản thân nhân dân ta, do trí tuệ và sức lực của dân ta.
Văn kiện Đại hội IX viết: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để
phát triển đất nước"(11).
Học tập, vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần vận dụng tinh thần
cách mạng và khoa học của Người để giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi
mới hiện nay, luôn luôn gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm
phong phú thêm lý luận, trước hết về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta và
công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
Thưa các đồng chí,
Một trong những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh là "lấy dân làm gốc", xác
định mọi quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân; Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ,
công chức phải tôn trọng, lắng ghe ý kiến nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hết
lòng chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, thật sự là người lãnh dạo và là người đày tớ
trung thành của nhân dân. Phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách lược trong một thời kỳ, một giai đoạn
cách mạng mà là chiến lược cơ bản lâu dài xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, là
nguồn sức mạnh vô tận của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta"(12). Người đòi hỏi mỗi người,
trước hết là đảng viên, phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất như "giữ gìn con ngươi của
mắt mình". Đoàn kết là sức mạnh. Với truyền thống đoàn kết, sức mạnh sẽ được nhân lên,
trở thành nhân tố hàng đầu để giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới xã hội
chủ nghĩa, thể hiện trong câu nói nổi tiếng của Người:
Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết
Thành công, Thành công, Đại thành công
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết là "điểm mẹ". "Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ
ra con cháu đều tốt". Người nhấn mạnh: "Công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành
một khối"(13). Người còn chủ trương đoàn kết với tất cả những ai có tài, có đức, có sức, có
lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết
toàn dân, Người chăm chú tìm kiếm, nâng niu, trân trọng những điểm tương đồng, hạn chế,
giảm dần những điểm khác biệt. Nguyên tắc được Người nêu lên từ năm 1946 là: "Năm
ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong
mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu
Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường,
ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết
thì tương lai chắc sẽ vẻ vang"(14).
Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối, chiến lược đại
đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội IX của Đảng, đại hội đầu tiên trong thế kỷ
XXI, đã nêu rõ: "Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn
cờ đại đoàn kết toàn dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu để tăng cường và mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức làm nền tảng, Lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về
quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới
tương lai. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng"(15).
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) vừa qua đã ra các nghị quyết
về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh", về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo. Các nghị quyết đó đã
cụ thể hóa tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Đại hội IX, đồng thời làm sáng
tỏ thêm bằng những luận điểm mới, cách luận giải mới và giải pháp mới. Nghị quyết Trung
ương 7 là sự vận dụng, phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh phù hợp với thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách của sự
nghiệp xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho khối đại đoàn kết
toàn dân tộc "trường xuân bất lão"(16) như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách đây hơn
nửa thế kỷ.
Thưa các đồng chí,
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc tới công
tác xây dựng Đảng. Trong Di chúc, Người viết: "trước hết nói về Đảng". Người rất quan
tâm xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Người cho rằng muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém, "cán bộ là gốc của mọi công việc". Người luôn đòi hỏi mỗi
người, nhất là người cán bộ cách mạng, phải có đạo đức cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ
phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài, trong đó đức là gốc.
Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, bất kỳ khó khăn nào cũng kiên quyết làm đúng chính
sách, nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng, hòa mình với quần chúng thành
một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, thực hiện
cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Từ quan niệm về đạo đức cách mạng nêu trên, Người
coi đạo đức là cội nguồn của người cách mạng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân"(17).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, từ bản chất của mình con người luôn hướng tới sự hoàn
thiện, hướng tới chân, thiện, mỹ. Đạo đức định hướng việc hình thành nhân cách, mục tiêu,
động cơ, ý chí phấn đấu của mỗi con người. Đạo đức là nhân tố quyết định giúp người
cách mạng hoàn thành nhiệm vụ được giao; đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức phải
được xem xét toàn diện trong mọi lĩnh vực hoạt động, từ đời công đến đời tư như sinh
hoạt, học tập, lao động, chiến đấu, lãnh đạo, quản lý... Người chỉ rõ: "Làm cách mạng để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một
nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"(18).
Từ truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc và đức là gốc của người cán bộ trong Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương: "đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý
luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp và các
chuyên gia, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị; coi trọng cả đức
và tài, đức là gốc"(19).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi "xây" phải đi đôi với "chống", nâng cao đạo đức cách mạng
đi đôi với quét sạch chủ nghĩa cá nhân.