Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN VAY CỦA NÔNG HỘ Ở HUYỆN KẾ SÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.06 KB, 11 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN VAY CỦA NÔNG
HỘ Ở HUYỆN KẾ SÁCH - TỈNH SÓC TRĂNG
3.1.GIỚI THIỆU VỀ ĐỊA BÀN TỈNH SÓC TRĂNG
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1Vị trí địa lý
Tỉnh Sóc Trăng thuộc vùng châu thổ sông Cửu Long, nằm cuối sông Hậu, tiếp giáp
Biển Đông với 72 km bờ biển; diện tích tự nhiên 3.223,3 km
2
gồm 1 thị xã, 8 huyện và 105
xã, phường, thị trấn. Tỉnh Sóc Trăng là trung tâm hành chính của tỉnh, dân số toàn tỉnh là
1.243.982 người theo thống kê năm 2003, trong đó thành thị chiếm 18,44%, nông thôn
81,56%, nữ chiếm 51,29%. Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 386 người/km
2
, thấp hơn
mức trung bình ở ĐBSCL (401 người/km
2
). Dân số phân bổ không đều, tập trung đông
ở vùng ven sông Hậu và các giồng đất cao, nơi có điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế.
Cơ cấu này sẽ thay đổi theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chiến lược phát triển
của tỉnh trong tương lai. Ở Sóc Trăng, ngoài người Kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,28% dân
số còn có nhiều dân tộc khác cùng chung sống, trong đó người Khmer chiếm 28,85%,
người Hoa chiếm 5,86%. Thêm vào đó còn có người Nùng, Thái, Chăm...nên đời sống và
sinh hoạt văn hóa của người dân Sóc Trăng rất đa dạng và phong phú.
Sóc Trăng giáp tỉnh Cần Thơ ở phía Bắc và Tây Bắc, giáp Bạc Liêu ở phía Tây
Nam, giáp Trà Vinh ở phía Đông Bắc và giáp biển Đông ở phía Nam. Sóc Trăng nằm trên
tuyến Quốc lộ 1 nối liền các tỉnh Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng
với các tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang. Vùng cung cấp 50% sản lượng thóc của cả nước, nơi có
sản phẩm xuất khẩu dồi dào và đa dạng, đặc biệt là gạo và hàng thủy sản, nông sản thực
phẩm chế biến. Đây là vùng có nhiều tiềm năng kinh tế để phát triển sản xuất, đồng thời
cũng là nơi tiêu thụ hàng hóa và cung cấp dịch vụ lớn cho cả nước.
Trong những năm qua, vận dụng đường lối đổi mới của Đảng; nhân dân tỉnh Sóc


Trăng với tinh thần vượt khó vươn lên, năng động; sáng tạo, kinh tế Sóc Trăng có bước
phát triển khá, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển nuôi trồng và chế biến thủy, hải sản xuất
khẩu và đây lĩnh vực mũi nhọn của tỉnh hiện nay và trong thời gian tới. Hiện nay toàn tỉnh
có 6 nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu năm 2002 đạt trên 230 triệu USD thu hút được
nhiều nguồn vốn đầu tư và đang từng bước được mở rộng cả về kết cấu hạ tầng lẫn công
nghệ; bộ mặt đô thị và nông thôn của tỉnh từng bước được thay đổi.
3.1.1.2Đặc điểm - địa hình
Điều kiện tự nhiên hình thành 3 vùng sinh thái ngọt, lợ, mặn, đất đai màu mỡ, ruộng
đồng phì nhiêu, địa chất phù hợp, khí hậu ôn hoà; có nền sản xuất chủ yếu là nông nghiệp,
ngư nghiệp và chế biến hàng nông, hải sản xuất khẩu; có nền văn hoá đặc thù với nếp sinh
hoạt của 3 dân tộc Kinh - Khmer - Hoa từ bao đời nay vẫn sống hoà thuận và hội nhập đã
tạo nên bản sắc độc đáo qua các lễ hội; giao thông thủy, bộ đều thuận lợi nhờ địa tỉnh nằm
trên trục quốc lộ 1A và quốc lộ 60 nối các tỉnh phía Nam và phía Bắc trong đó có cả thành
phố Hồ Chí Minh; bên cạnh đó thông qua sông Hậu có thể tới các tỉnh ĐBSCL và các nước
Camphuchia, Lào; Bờ biển dài là một lợi thế so sánh của Sóc Trăng so với các tỉnh
ĐBSCL các cảng Trần đề, và sắp tới là cảng biển nước sâu sẽ rất thuận lợi cho việc giao
thương từ Sóc Trăng đến mọi miền của đất nước và quốc tế,.... Những nhân tố “thiên thời,
địa lợi” đó đã và đang được chính quyền và nhân dân địa phương thực hiện để phát triển
kinh tế, nhằm đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.
Sóc Trăng có 72 km bờ biển với 3 cửa sông lớn Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh hình
thành lưu vực rộng lớn thuận lợi cho giao thông, nuôi trồng thủy hải sản, làm muối... Đặc
biệt, Sóc Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách và Long Phú chạy dài ra tận cửa
biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Cù lao Dung là
địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Hệ thống kinh rạch của tỉnh chịu ảnh hường của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2
lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 mét đến 1 mét. Thủy triều vùng biển không
những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, mà còn mang
lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng
tự nhiên.
3.1.1.3 Khí hậu

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu Sóc Trăng chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung
bình hàng năm khoảng 27
0
C, độ ẩm trung bình là 83%. Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng
sông Hậu đổ ra biển Đông Nam Bộ, vùng có nhiều trữ lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều
kiện thuận lợi để cũng như phát triển kinh tế biển tổng hợp.
3.1.2Tài nguyên thiên nhiên
3.1.2.1 Tài nguyên đất
Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước,
cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, bắp, các loại rau màu như: hành, tỏi và các
loại cây ăn trái như: nhãn, xoài, sầu riêng... Hiện đất sử dụng cho nông nghiệp chiếm
77,28%, đất lâm nghiệp 4,36%, đất chuyên dùng và các loại đất khác 18,36%. Trong tổng
số 249.088 ha đất nông nghiệp có 188.067 ha sử dụng cho canh tác lúa, 20.815 ha dùng
trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày, 40.206 ha dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái.
Với cấu tạo địa chất trẻ hình thành trong quá trình lấn biển của châu thổ sông Cửu
Long, tính chất địa hình nơi đây thể hiện rõ nét bằng những giồng cát hình cánh cung đồng
phương với bờ biển từ Sóc Trăng đến Vĩnh Châu.
Toàn tỉnh Sóc Trăng có 40 đơn vị đất tập trung vào 3 nhóm chính:
• Nhóm đất phù sa: 184.184 ha, chiếm 37%. Đây là vùng đất có địa hình trung bình
và cao, gần nguồn nước ngọt, điều kiện thoát nước dễ dàng.
• Nhóm đất phèn: 47.892 ha, trong đó đất phèn mặn chiếm 78,16%.
• Nhóm đất giồng: 9.914 ha, chiếm 4%, tập trung ở 2 huyện Vĩnh Châu, Mỹ Xuyên
và thị xã Sóc Trăng.
Mặc dù còn một số hạn chế về điều kiện tự nhiên như thiếu nước ngọt và bị xâm
nhập mặn trong mùa khô, một số khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc
Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và trên cơ sở đó
hình thành những khu du lịch sinh thái phong phú. Ngoài ra, Sóc Trăng còn có nguồn tài
nguyên rừng với diện tích 16.015 ha với các loại cây chính: tràm, bần, giá, vẹt, dừa nước
phân bố ở 2 huyện Vĩnh Châu và Long Phú. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn

ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn.
3.1.2.2 Tài nguyên khoáng sản
Trong những năm gần đây kết quả thăm dò bước đầu cho thấy Sóc Trăng có triển
vọng về khai thác dầu và khí đốt tại vùng thềm lục địa ngoài khơi gần Sóc Trăng.
3.1.3 Vị trí địa lý kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Kế Sách
Kế sách là một huyện vùng sâu cách thị xã Sóc Trăng khoảng 21 Km về phía Tây
Nam, giao thông đi lại tương đối khó khăn nhất là vào mùa mưa. Kế Sách với diện tích tự
nhiên 34.161 ha, trong đó đất nông nghiệp là 26.250 ha, diện tích lúa 2 vụ là 16.792 ha,
diện tích cây màu 459 ha, diện tích cây ăn trái 6.125 ha, diện tích vườn tạp 4.026 ha (theo
niên giám thống kê của tỉnh Sóc Trăng năm 2006). Việc sản xuất nông nghiệp còn phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên do hệ thống thuỷ lợi ngày càng được cải thiện.
Hiện nay, huyện Kế Sách có tổng dân số là 158.745 người với 33.282 hộ. Dân cư
trên địa bàn huyện bao gồm 3 dân tộc: Kinh, Hoa và Khmer, trong đó 26.764 hộ là sản xuất
nông nghiệp chiếm 80% dân số toàn huyện, còn lại là sản xuất kinh doanh và sản xuất
ngành nghề khác. Kế Sách có 1 thị trấn và 12 xã, 85 ấp. Trình độ dân trí còn thấp, cuộc
sống còn mang nặng tập quán cũ, đặc biệt là đồng bào dân tộc Khmer. Trong đó hộ nghèo
chiếm khoảng 30%, hộ trung bình chiếm khoảng 56% và hộ khá giàu chiếm khoảng 14%
(theo số liệu điều tra mức sống hộ gia đình năm 2001).
3.2.TỔNG QUAN VỀ CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở ĐBSCL VÀ
HUYỆN KẾ SÁCH
Trước năm 1988, tổ chức tài chính chính thức thì vượt trội bởi sự độc quyền của
ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Vào năm 1990, sự độc quyền của ngân hàng nhà nước
được định hướng để tách ra hệ thống ngân hàng hai cấp bao gồm chức năng nhà nước như
một ngân hàng trung ương truyền thống, và những ngân hàng thương mại chuyên về cung
cấp những dịch vụ ngân hàng. Từ đó, ngân hàng trung ương đã chịu trách nhiệm về chính
sách lưu thông tiền tệ và tư vấn về hệ thống tài chính cho nhà nước và không còn tham gia
vào việc cấp vốn khu vực Nhà nước như trước đây. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng mới đã
được thiết lập cho khu vực tư nhân. Hiện nay, hệ thống tài chính chính thức ở Việt Nam
gồm có những ngân hàng thương mại, những tổ chức tài chính phi ngân hàng và các
chương trình tín dụng khác của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ (NGOs).

Hiện tại ở nông thôn Việt Nam có bốn tổ chức tài chính chính đang hoạt động ở
những vùng nông thôn Việt nam cũng như ĐBSCL. Đó là ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam (trước đây là ngân hàng
Việt Nam cho người nghèo), các ngân hàng cổ phần nông thôn, các Quỹ tín dụng nhân dân
và một số ngân hàng khác. Ngoài ra, còn có nhiều chương trình đặc biệt của chính phủ và
các tổ chức phi chính phủ khác cũng cung cấp tín dụng cho những hộ gia đình nông thôn.
Các tổ chức tín dụng chính thức ở huyện Kế Sách gồm có ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh Kế Sách, phòng giao dịch ngân hàng chính sách
xã hội.
3.2.1 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (VBARD)
Được thành lập vào năm 1988 từ ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, hiện nay
VBARD được xem như một bộ phận của ngân hàng nhà nước Việt Nam với nhiệm vụ
chính là tài trợ vốn cho các doanh nghiệp và nông hộ ở khu vực nông thôn. Với một mạng
lưới rộng khắp cả nước với số lượng lớn các chi nhánh nằm rải rác ở Việt Nam nói chung
và ĐBSCL nói riêng, ngân hàng đã trở thành một trong những tổ chức tài chính chính thức
lớn nhất ở Việt Nam. Nó có khoảng 1300 chi nhánh ở khắp ba miền, 61 chi nhánh tỉnh, 527
chi nhánh huyện, và hơn 600 chi nhánh xã, và khoảng 75 phòng giao dịch (VBARD, 2002).
Đến cuối năm 2006, ngân hàng nông nghiệp đã đầu tư cho hơn 9 triệu hộ với số vốn xấp xỉ
105 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57% tổng dư nợ của ngân hàng (theo báo cáo của
VBARD năm 2006).
Ở ĐBSCL, VBARD cũng có một mạng lưới rộng ở khắp các huyện của các tỉnh
ĐBSCL. Vì vậy VBARD có một vai trò quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho người
nghèo và gia đình nông thôn ở ĐBSCL để cải thiện mức sống cũng như góp phần xoá đói

×