Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN VÀ KẾ TOÁN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.69 KB, 29 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN VÀ KẾ TOÁN
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ huy động vốn
1.1.1. Khái niệm và vai trò của NHTM
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính ra đời dựa trên cơ sở của
sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa và dựa trên sự khác biệt về tiền tệ giữa
các vùng, các khu vực. Ngân hàng dược coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản
xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường, một động lực cho sự phát triển của nền sản
xuất xã hội. Với vai trò như trên, Ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của
bất cứ quốc gia nào. Vì vậy mỗi nước đều xây dựng những khung pháp lý quy định
giới hạn hoạt động của mỗi Ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có quan niệm và
mô hình tổ chức Ngân hàng khác nhau. Thông thường người ta dựa vào tính chất,
mục đích đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính.
Ở Việt Nam NHTM được hiểu là: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu... và làm
phương tiện thanh toán”.
Trong nền kinh tế NHTM giữ một vai trò rất quan trọng:
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn được tạo ra
từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong
nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ
tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân, tức là mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều
sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành
trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thế đáp ứng
nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời được giải pháp ra từ quá trình sản xuất và lưu
thông, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy
động được, các Ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế
đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy nhờ có
hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp mới có điều kiện
mở rộng phạm vi sản xuất, công nghệ, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu


quả kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh... Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp
không ngừng nâng cao chất lượng lao động, mở rộng quy mô sản xuất một cách
thích hợp. Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng đáp ứng vốn cho doanh
nghiệp trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh,
tạo cho doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian thanh toán cho các tổ chức
kinh tế, cá nhân trong xã hội. Tổ chức công tác thanh toán trong nền kinh tế quốc
dân, sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt góp phần tăng nhanh
tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của
mình sưc thực sự là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt
động tín dụng và thanh toán, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối
lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các
ngành trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại thực hiện việc điều hoà các luồng
tiền, tích tụ và phân phối cho các ngành. Với những nội dung hoạt động như vậy,
Nhà nước đã sử dụng Ngân hàng thương mại như là một công cụ hữu hiệu để điều
tiết nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với hệ thống tài
chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ
ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên
thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu
thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính mỗi nước phải hoà nhập với nền
tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh

doanh như nhận tiền gửi cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các
nghiệp vụ ngân hàng khác. Ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại
thương không ngừng mở rộng thông qua các hoạt động thanh toán kinh doanh
ngoại hối, quan hệ tín dụng với các Ngân hàng nước ngoài. Hệ thống Ngân hàng
thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự
vận động của hệ thống tài chính thế giới.
1.1.2. Khái niệm về nguồn vốn của Ngân hàng thương mại.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng
thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư, hoặc để thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Về thực chất, thì nguồn vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người
chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng. Như vậy,
Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền
tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế
phát triền.
1.1.3. Tính chất và vai trò của công tác huy động vốn
1.1.3.1. Tính chất của nguồn vốn huy động.
Vốn huy động là khoản tiền tệ được hình thành trong quá trình hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền ký
thác và vay của các tổ chức tín dụng khác. Các khoản tiền này không thuộc quyền
sở hữu của Ngân hàng, nhưng Ngân hàng được quyền sử dụng và phải hoàn trả cho
chủ sở hữu trong một thời gian nhất định. Như vậy trong quá trình hoạt động kinh
doanh Ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả cho
khách hàng.
Vốn huy động có vai trò lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, vì
trong cơ cấu nguồn vốn thì vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn thường từ 70%-80%,
vốn huy động có quyết định đến chi phí đầu vào của Ngân hàng vì vốn này chiếm
tỷ trọng cao và có nhiều kỳ hạn với lãi suất khác nhau, muốn làm kinh doanh phải
chú ý đến huy động vốn tại chỗ của Ngân hàng và chi phí đầu vào đó cũng chính là

nguyên tắc quản lý vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Vốn huy động
còn quyết định hoàn toàn đến vị thế khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trên thị
trường.
1.1.3.2. Vai trò của công tác huy đông vốn.
* Góp phần tiết kiệm chi phí xã hội, tạo những điều kiện thuận lợi cho cá nhân và
tổ chức xã hội.
Quá trình huy động vốn của Ngân hàng chính là quá trình tích tụ và tập
trung các nguồn vốn trong xã hội, sau đó cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản
xuất, đầu tư và phát triển kinh tế. Như vậy, huy động vốn kịp thời đã tiết kiệm thời
gian, chi phí nguồn lực, đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, tăng
hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, những người tiết kiệm thu thêm được một phần
lãi từ tiền gửi của mình, tức đồng tiền của họ từ chổ dư thừa đã có khả năng sinh
lời. Ngược lại, những người thiếu vốn thì có vốn kịp thời cho sản xuất, tăng lợi
nhuận.
* Huy động vốn làm gia tăng vốn trong nước, kích thích huy động vốn nước ngoài.
Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy
động trong nước còn nguồn vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó vốn trong nước
là yếu tố quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
Vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước thể hiện:
- Thứ nhất, tạo tính chủ động trong quá trình huy động vốn, chi phí huy
động vốn thấp, hiệu quả kinh tế đối với xã hội cao.
- Thứ hai, tạo các điều kiện thuận lợi để hấp thụ và khai thác có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
- Thứ ba, hình thành và tạo lập sức mạnh hồi sinh cho nền kinh tế, hạn chế
các tiêu cực phát sinh về kinh tế -xã hội do đầu tư nước ngoài mang lại. Nhờ vậy
tính độc lập tự chủ của đất nước được bảo đảm, tránh lệ thuộc nước ngoài do quan
hệ vay mượn.
Xét về bản chất, huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là trực tiếp
làm cho qui mô tích luỹ trong nước ngày càng tăng, chuyển tối đa nguồn vốn đang
nhàn rỗi thành nguồn vốn hữu ích có khả năng sinh lời. Còn huy động vốn nước

ngoài có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều
kiện kinh tế của nước ta còn nghèo, thiếu vốn mà nhu cầu đầu tư phát triển lại cao.
Đặc biệt các NHTM còn có khả năng tính toán các điều kiện và lợi ích cho
vay trả, khả năng quản lý có hiệu quả vốn vay và vai trò quản lý ngoại tệ để thực
hiện chính sách ngoại hối của một quốc gia.
* Huy động vốn góp phần thực hiện chính sách tài chính và chính sách tiền tệ quốc
gia.
Hoạt động huy động vốn qua Ngân hàng góp phần kiềm chế và kiểm soát
mức lạm phát thông qua việc điều chỉnh lượng tiền tham gia vào quá trình lưu
thông, ổn định giá trị đồng tiền. Chẳng hạn: Ngân hàng luôn là nơi cung cấp một
lượng vốn tín dụng lớn, tạm ứng các khoản chi tiêu và đầu tư của chính phủ cho
các dự án về sản xuất kinh doanh và những dự án thực hiện chính sách xã hội, bù
đắp những sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách thông qua hình thức vay nợ giữa
ngân sách với Ngân hàng.
* Huy động vốn quyết định sự tồn tại của các Ngân hàng thương mại.
Ở nước ta hiện nay, thị phần hoạt động của tín dụng chiếm khoảng 80%.
Con số này khá cao chứng tỏ hoạt động tín dụng là chủ yếu, quyết định sự tồn tại
và phát triển của mỗi Ngân hàng thương mại. Mà muốn có hoạt động tín dụng
phải có vốn, muốn có vốn phải huy động vốn và chủ yếu từ nền kinh tế. Như vậy
huy động vốn phải là bước khởi đầu quan trọng nhất để có được bước khởi động
tiếp theo trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng. Qua quá trình huy động vốn,
Ngân hàng sẽ có vốn để cho vay và thu lợi nhuận, góp phần thúc đẩy sự tồn tại và
phát triển của Ngân hàng.
1.1.4. Các hình thức huy động vốn.
Ngân hàng thương mại muốn có tiền để đem đầu tư hoặc cho vay, thì trước
tiên Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và ổn định. Trong khi đó lượng
vốn tự có là rất ít, muốn có một lượng vốn lớn hơn thì hầu hết các Ngân hàng phải
đi huy động vốn. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng được thực hịên dưới
hình thức sau :
1.1.4.1. Căn cứ theo thời gian huy động vốn.

- Huy động ngắn hạn: đặc điểm của hình thức này là chíêm tỷ trọng khá cao
trong tổng nguồn huy động, được sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn (từ 12
tháng trở xuống), lãi suất thường thấp .
- Huy động trung hạn: loại vốn này có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60
tháng, ngân hàng chủ yếu sử dụng cho doanh nghiệp vay khoản tín dụng trung
hạn.
- Huy động dài hạn: hình thức huy động này chiếm tỷ trọng nhỏ, đây là
khoản vay mà Ngân hàng huy động lớn trên 60 tháng, chi phí cho việc huy động
này là cao hơn so với 2 hình thức trước, nguồn này Ngân hàng thường dùng để cho
vay dài hạn như đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất kinh doanh ...
1.1.4.2 Căn cứ vào đối tượng huy động vốn.
- Huy động vốn từ dân cư: Vốn này có nguồn gốc từ những khoản dự phòng
cho tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì các
khoản dự phòng cũng tăng lên. Nắm bắt được quy luật này, Ngân hàng thương mại
đã sử dụng nghiệp vụ huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu kinh tế
và thu được lợi nhuận .
- Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp: Các doanh
nghịêp do nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường
gửi một khối lượng tiền lớn vào Ngân hàng để hưởng tiện ích thanh toán. Ngân
hàng thương mại là một trung gian tài chính, quan hệ với các đối tượng này thông
qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu
thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản thanh
tóan nên luôn tồn tại một số dư nhất định trên tài khoản của Ngân hàng. Nguồn
này được Ngân hàng huy động, có chi phí thấp và sử dụng cho vay không chỉ ngắn
hạn mà còn cả trung dài hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ
lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp .
- Huy động từ các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác: Vốn này nhằm
để giải quyết tình trạng thiếu vốn của Ngân hàng. Vốn vay này bao gồm : vay
Ngân hàng Trung Ương và các tổ chức tín dụng .
Theo quy định, ở Việt Nam vốn vay giữa hai Ngân hàng được thoả thuận

bằng hợp đồng tín dụng, vốn cho vay phải được đảm bảo bằng hình thức thế chấp
hoặc cầm cố bằng tài sản đi vay; tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng Trung
Ương, các chứng từ có giá khác. Trong trường hợp, các Ngân hàng thương mại đã
vay mượn lẫn nhau nhưng vẫn thiếu vốn, mất khả năng thanh toán thì Ngân hàng
thương mại có thể vay Ngân hàng Trung Ương thông qua việc chiết khấu, tái chiết
khấu các giấy tờ có giá. Ngân hàng Trung Ương bằng việc cho vay để bổ sung
nguồn vốn tín dụng ngắn hạn theo kế hoạch đã phân phối cho các Ngân hàng
thương mại quốc doanh; tái chíêt khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc mà các
tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay chưa đáo hạn.
1.1.4.3. Căn cứ vào công cụ huy động vốn.
- Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát séc).
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng
cách phát hành séc. Đặc điểm quan trọng đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ
dàng, mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu
cầu, không vì mục đích kiếm lãi. Đối với Ngân hàng chỉ cần bỏ ra một chút chi phí
cho việc quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì cũng rất nhỏ ). Số dư của loại
tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của Ngân hàng trong
việc dự đoán về biến động của thị trường tiền tệ. Ngân hàng thường sử dụng hai
loại tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai.
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ sở hưũ của nó có toàn quyền
sử dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi.
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản thường được sử dụng cho các tổ chức kinh
tế, nó có thể có số dư bên có hoặc bên nợ. Dư bên có phản ánh số tìên hiện có
trong tài khoản của khách hàng, ngược lại với số dư bên nợ phản ánh số tín dụng
Ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi suất hai bên đều do hai bên thoả thuận.
Tìên gửi không kỳ hạn có chi phí huy động thấp, song có tính ổn định thấp.
Nếu thu hút được lượng khách hàng lớn, đảm bảo luôn có một số dư ổn định, Ngân
hàng có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc
mua bán các chứng khoán có tính linh hoạt cao như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc.
- Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm:

Nếu tiền gửi không kỳ hạn số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất
kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm lại phụ
thuộc vào lãi suất trả lãi.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ sở hữu có quỳên rút ra theo thời hạn đã thoả
thuận với Ngân hàng, mục đích chính của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không
phải vì hưởng các tiện ích trong thanh toán. Đặc trưng của loại tiền gửi này là
không dùng thanh toán, hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này đối với Ngân hàng rất
cao vì nó có kỳ hạn rõ ràng. Chi phí về nguồn vốn cho loại tiền gửi này đối với
Ngân hàng cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đối với Ngân hàng thương mại, tiền gửi tiết kiệm là công cụ
huy động vốn có từ lâu. Vốn huy động từ các khoản tiền tiết kiệm thường chiếm
một tỷ trọng đáng kể trong tìên gửi của Ngân hàng. Loại tiền gửi này thường chia
thành :
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đối với loại này, chủ sở hữu có thể rút ra
bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn, ưu
điểm hơn tiền gửi giao dịch là số dư này ít biến động, Ngân hàng thường phải trả
lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nguyên tắc của loại tiền này là một khi khách
hàng gửi tiền vào loại tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc lẫn lãi ) trừ
khi đã đến hạn rút tiền. Tuy nhiên yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số Ngân
hàng thương mại vẫn cho phép Ngân hàng rút tiền trước thời hạn nhưng một phần
tiền lãi đã được khấu trừ .
- Huy động vốn qua phát hành các công cụ nợ:
Đây là nguồn vốn Ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường
tài chính gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Trong nhiều trường hợp thiếu
vốn, Ngân hàng sử dụng phương pháp này để huy động vốn trên thị trường tài
chính: phát hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ có giá trên từ chủ sở hữu này sang chủ
sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng
có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu.

- Trái phiếu là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ khách hàng của nhà Ngân
hàng với cam kết sẽ thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong
tương lai.Việc phát hành trái phiếu của Ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ
thống, mục đích chủ yếu để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế
hoạch kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn .
- Kỳ phiếu Ngân hàng là một giấy nhận nợ ngắn hạn do Ngân hàng phát hành nhằm
huy động vốn trong dân cư, chủ yếu phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác
định của một Ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu Ngân
hàng được phát hành theo từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành
dựa trên tình hình nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của
Ngân hàng. Loại này có ưu điểm vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng
cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền hoặc các hình thức khác; mệnh giá, loại tiền sử
dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người mua. Lãi suất của kỳ
phiếu thường ổn định và hấp dẫn.
1.1.4.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn.
Chất lượng huy động vốn của Ngân hàng chỉ có thể được cải thiện khi phân
tích ảnh hưởng của các nhân tố có liên quan theo cả hai chiều hướng tích cực và
tiêu cực. Nhóm nhân tố ảnh hưởng có thể chia ra làm hai loại:
Những nhân tố khách quan.
Nền kinh tế là một hệ thống gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện
chứng và tác động lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại được coi như một chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh tế
khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác động ổn định hay bất ổn định, tăng
nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của
Ngân hàng. Rõ ràng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn
nói riêng của Ngân hàng luôn gắn với môi trừơng kinh doanh. Môi trường này
gồm
* Pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Việc huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng đều tác động trực tiếp

đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu
chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì vậy mà hoạt động của
Ngân hàng cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, đôi khi còn chặt chẽ hơn cả đối
với doanh nghịêp. Trên thực tế Ngân hàng chịu sự tác động của rất nhiều chính
sách, các quy định của chính phủ, Ngân hàng Trung Ương ; đó là Luật các tổ chức
tín dụng, Luật kinh tế, Luật dân sự … Do sự ràng buộc về pháp luật, nghiệp vụ huy
động vốn chắc chắn sẽ thay đổi và quy mô, hiệu quả của công tác huy động vốn
cũng bị tác động. Cụ thể chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất, tín dụng ... thay đổi
sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn .
* Điều kiện kinh tế - xã hội.
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn
định. Sự ổn định về chính trị hay chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ
đến quan hệ vốn của Ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới. Nếu một nước có nền an ninh ổn định thì kinh tế sẽ phát triển dẫn đến thu
nhập của người dân cao, họ sẽ đem gửi nhiều tiền vào Ngân hàng không những đối
với người trong nước mà còn cả người nước ngoài.
Đây là yếu tố khách quan đối với Ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung
việc mở rộng và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế. Trong đó nguồn huy
động của Ngân hàng thương mại, cụ thể trong nền kinh tế nếu kinh tế tăng trưởng
cao thì mới có tích luỹ trong các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế và dân cư, do đó
nguồn tiền gửi, nguồn tiết kiệm tăng nhanh trong thời kỳ này. Ngược lại, nếu nền
kinh tế bị suy thoái thì lượng tiền gửi, tiền tiết kiệm sẽ giảm xuống,
Mặt khác khi nền kinh tế phát triển và ổn định kiến thức của người dân nâng
lên, việc nắm giữ tiền trong dân cư giảm xuống, mọi hoạt động giao dịch của
khách hàng đều thông qua Ngân hàng. Đây cũng là yếu tố làm cho nguồn huy động
được tăng lên.
Lạm phát là yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến Ngân hàng rất lớn đến công tác
huy động vốn Ngân hàng, người dân gửi tiền vào Ngân hàng hy vọng họ sẽ thu
được khoản lãi nhất định. Lạm phát cao hoặc biến động mạnh có thể làm trượt giá

×