Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.32 KB, 61 trang )

PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG THANH TOÁN QUỐC
TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
a. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp được tổ chức, thành lập và hoạt động
dưới sự kiểm soát, quản lý, điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng tiền gửi đó để cho vay đầu tư và
cung ứng các dịch vụ thanh toán khác nhằm thu lợi nhuận trên cơ sở đảm bảo khả
năng thanh khoản.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế, nó không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hóa như các doanh nghiệp thông thường khác, nhưng nó lại tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình này được diễn ra một cách trôi chảy, liên tục, góp phần phát
triển kinh tế xã hội.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thưong mại gắn với hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Thông qua các hoạt động của mình, Ngân
hàng thương mại thực hiện điều tiết vi mô đối với nền kinh tế bằng cách tiếp nhận
hoặc cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế khi có nhu cầu, đảm bảo cho nền kinh tế
thường xuyên có một lượng tiền cung ứng hợp lý đồng thời làm tăng khả năng
thanh toán không dùng tiền mặt, giảm chi phí lưu thông.
Ngày nay, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất phong phú và đa dạng, nền
kinh tế càng hiện đại thì hoạt động của Ngân hàng thương mại càng phát triển hơn.
Bất cứ Ngân hàng thương mại nào cũng phải có đầy đủ ba nhóm hoạt động chính:
các hoạt động huy động vốn, các hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung
gian thanh toán. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng,
các Ngân hàng thương mại còn có một số hoạt động và dịch vụ khác nữa.
+ Các hoạt động huy động vốn.
Do kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên ngân hàng trước hết phải có vốn. Khi mới


thành lập, ngân hàng phải có một lượng vốn ban đầu tối thiểu bằng vốn pháp định.
Lượng vốn chủ sở hữu này hàng năm được bổ sung bằng lợi nhuận giữ lại. Tuy
nhiên trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì lượng vốn này ngày càng chiếm tỷ
lệ rất nhỏ. Để đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình, ngân hàng phải huy động thêm
từ các nguồn sau:
Một là: Nhận tiền gửi.
Đây là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại mà các tổ chức tài chính phi
ngân hàng không được thực hiện. “Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá
nhân và các tổ chức tín dụng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn và các loại tiền gửi khác”.
1
Hai là: Phát hành giấy tờ có giá.
Các giấy tờ này có thể là các trái phiếu của ngân hàng, các giấy chứng chỉ tiền gửi
với mệnh giá lớn (CDs)... Thông thường việc phát hành các trái phiếu, tín phiếu
phục vụ cho một mục đích sử dụng nhất định, ví dụ như đầu tư cho một dự án hay
một công trình.
Ba là: Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác.
Ngân hàng thương mại có thể đi vay các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản của mình. Họ có thể vay qua thị trường liên ngân hàng hay bằng hình
thức vay thương mại.
Bốn là: Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Cũng giống như trường hợp đi vay các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng thương
mại cũng chỉ vay Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, để giải
1 LuËt c¸c tæ chøc tÝn dông sè 07/1997/QHX
quyết những vấn đề cấp bách nảy sinh trong hoạt động ngân hàng chứ không phải
đi vay để cho vay. Vì vậy có thể nói “Ngân hàng Nhà nước là cứu cánh của Ngân
hàng thương mại”. Ngân hàng thương mại vay Ngân hàng Nhà nước bằng cách
chiết khấu hay tái chiết khấu thương phiếu, quy mô vay bị tác động bởi lãi suất
chiết khấu và lãi suất chiết khấu cao hay thấp lại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
mà Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng là thắt chặt hay nới lỏng.

Trên đây là các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Nếu như các
hoạt động huy động vốn làm ngân hàng phải mất chi phí thì các hoạt động sử dụng
vốn sau đây sẽ đem lại doanh thu cho Ngân hàng.
+ Các hoạt động sử dụng vốn.
Ngân hàng có các hình thức sử dụng vốn sau:
Một là: hoạt động ngân quỹ.
Hoạt động ngân quỹ là hoạt động liên quan đến chi trả hàng ngày cho khách hàng.
Ngân hàng luôn phải giữ lại một khoản tiền nhất định (gọi là tiền tại quỹ) để chi
trả, và ngân hàng cũng có thể thanh toán với khách hàng bằng tiền gửi ở Ngân
hàng Nhà nước là tiền dự trữ bắt buộc hay tiền gửi thanh toán. Các khoản này kém
sinh lời nhất, thậm chí không sinh lời, chỉ nhằm đáp ứng tính thanh khoản mà thôi.
Hai là: hoạt động tín dụng.
Đây là một nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng thương mại. Hầu hết vốn của
ngân hàng đều được sử dụng vào hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng ngoài
hình thức cho vay còn có các hình thức khác như bảo lãnh hay chiết khấu.
Ba là: hoạt động đầu tư.
Trong trường hợp cho vay không hết, ngân hàng có thể chủ động tìm nơi đầu tư để
thu lợi nhuận đồng thời giúp phân tán rủi ro. Ngân hàng có thể đầu tư trực tiếp vào
kinh doanh như đầu tư xây dựng dự án hoặc công trình. Ngoài ra ngân hàng cũng
có thể đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán bằng cách mua tín phiếu,
trái phiếu hay cổ phiếu của các công ty.
Trong ba hoạt động trên, hoạt động cho vay có độ rủi ro cao nhất nhưng lại là
nguồn thu nhập lớn của ngân hàng, còn hoạt động ngân quỹ an toàn nhất nhưng
hầu như không sinh lời. Vì vậy để vừa đảm bảo tính sinh lời lại vừa đảm bảo tính
thanh khoản, ngân hàng phải kết hợp ba hoạt động sử dụng vốn trên một cách hợp
lý.
+ Hoạt động trung gian thanh toán.
Đây là nghiệp vụ đặc trưng của Ngân hàng thương mại so với các trung gian tài
chính khác. Các trung gian tài chính khác như công ty tài chính, công ty bảo
hiểm… vẫn có thể cho vay, đầu tư hay nhận tiền gửi có kỳ hạn trên một năm (có

giới hạn về đối tượng) nhưng dịch vụ thanh toán thì chỉ có Ngân hàng thương mại
mới được thực hiện. “Ngân hàng được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham
gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống
thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép”
2
Ngân hàng thương mại làm theo lệnh của chủ tài khoản như tính tiền trên tài khoản
của người mua, chuyển sang tài khoản của người bán để thanh toán tiền hàng hóa
dịch vụ cho khách hàng. Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng một hệ thống
công cụ thanh toán thuận lợi như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng… giúp cho khách hàng thuận tiện hơn rất nhiều trong thanh toán, tiết
kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời đảm bảo việc thanh toán được an toàn.
Bên cạnh thanh toán trong phạm vi quốc gia, việc thực hiện hoạt động thanh toán
quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều kiện nền kinh tế ngày càng có xu
thế mở cửa hội nhập, quá trình trao đổi lưu thông hàng hóa giữa các đối tác ở các
nước khác nhau ngày càng nhiều. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngoài việc hỗ
trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, ngân hàng còn đứng ra làm trung gian
thanh toán cho các doanh nghiệp. Việc thanh toán giữa hai bên được thực hiện qua
hệ thống ngân hàng bằng các phương thức được thỏa thuận thuận tiện nhất cho
2 LuËt c¸c tæ chøc tÝn dông sè 07/1997/QHX
khách hàng, đảm bảo quyền lợi của cả hai bên xuất nhập khẩu, góp phần mở rộng
quan hệ ngoại thương giữa các nước.
Trên đây là ba hoạt động không thể thiếu của bất cứ một Ngân hàng thương mại
nào. Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, Ngân hàng thương mại còn có một số hoạt
động khác.
+ Các hoạt động khác.
Hầu hết các Ngân hàng thương mại hiện nay đều thực hiện nghiệp vụ liên quan tới
chứng khoán như môi giới, tư vấn đầu tư, tự doanh, bảo lãnh cam kết phát hành
chứng khoán, lưu trữ, thanh toán chứng khoán… Ngoài ra, theo Luật các tổ chức
tín dụng, Ngân hàng thương mại còn được thực hiện một số hoạt động như góp vốn
mua cổ phần, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại hối, vàng và các giấy tờ có giá,

nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng,
cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn, bảo quản…
Các hoạt động của Ngân hàng thương mại có quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau,
trong đó hoạt động huy động vốn là cơ sở để thực hiện hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động sử dụng vốn làm tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở những hoạt động sử dụng vốn (như hoạt động tín dụng), Ngân hàng
thương mại có thể thực hiện được các hoạt động trung gian thanh toán và tới lượt
nó, hoạt động trung gian thanh toán sẽ làm tăng nguồn vốn và mở rộng việc sử
dụng vốn vì hoạt động trung gian thanh toán có thể coi vừa là hoạt động huy động
vốn vừa là hoạt động sử dụng vốn.
Trên đây là khái quát toàn bộ các hoạt động của một Ngân hàng thương mại. Theo
đối tượng và giới hạn được nghiên cứu trong luận văn này, hoạt động thanh toán
quốc tế của Ngân hàng thương mại sẽ được đi sau hơn.
b. H oạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và các yêu cầu về tiền tệ phát sinh
từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế
quốc tế, giữa các doanh nghiệp, các cá nhân của các quốc gia khác nhau để kết
thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức
chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng.
Hay nói cách khác, thanh toán quốc tế là việc phản ánh sự vận động có tính độc lập
tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá giữa các quốc
gia khác nhau, do không cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ của các bên tại một
thời điểm nhất định.
Khác với thanh toán trong phạm vi một nước, thanh toán quốc tế thường gắn với
việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Đồng tiền
nội địa với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán trong phạm
vi một quốc gia sẽ không vượt ra khỏi giới hạn của nó được nếu như hai bên liên
quan trong hợp đồng không có sự thoả thuận với nhau. Bởi vì khi ký kết hợp đồng
thương mại, tín dụng... các bên phải đàm phán thống nhất đồng tiền nào được sử
dụng để thanh toán giao dịch, nó có thể là đồng tiền của nước người mua, tiền của

nước người bán hoặc một đồng tiền của một nước nào đó được chọn để giao dịch
thanh toán.
Các đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế thường là các loại ngoại tệ
mạnh có khả năng tự do chuyển đổi như đồng USD, đồng EUR, đồng GBP, đồng
FRF, đồng JPY, đồng DEM. Trong đó đồng USD và EUR vẫn giữ vai trò chủ đạo
trong thanh toán quốc tế bởi sự nhanh chóng và tiện lợi trong việc thực hiện các
giao dịch này.
Thanh toán quốc tế chủ yếu là thanh toán qua chứng từ, tách rời với sự di chuyển
của hàng hoá từ nước người bán đến nước người mua. Thanh toán quốc tế có quan
hệ trực tiếp đến cả bên mua lẫn bên bán. Nếu công tác thanh toán quốc tế được làm
tốt sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm
sự phát triển của hoạt động ngoại thương.
Hiện nay phần lớn việc chi trả trong thanh toán quốc tế được thực hiện thông qua
hệ thống SWIFT (Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu). Theo
thống kê của tổ chức này thì có tới 72% các giao dịch tài chính tiền tệ quốc tế hàng
ngày được thực hiện qua SWIFT. Phần còn lại được thực hiện thông qua con
đường điện tín, bưu điện dưới hình thức uỷ nhiệm thu, chi hộ lẫn nhau giữa các
ngân hàng. Tỉ lệ trả bằng tiền mặt trong thanh toán quốc tế chiếm một phần không
đáng kể.
Xuất phát từ nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, các doanh nghiệp luôn
luôn có xu hướng mở rộng thị trường của mình ra bên ngoài, từ đó hình thành các
quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước khác nhau. Mỗi nước có sự khác nhau về
chế độ chính trị, môi trường pháp luật, phong tục tập quán cũng như khoảng cách
địa lý, bên cạnh đó còn có những bất đồng về ngôn ngữ, tiềm lực tài chính của các
đối tác và hệ thống tiền tệ khác nhau khiến cho quan hệ mua bán thanh toán giữa
các nước rất phức tạp và thường xuyên xảy ra rủi ro bất trắc. Để giải quyết những
vướng mắc này cần có một trung gian tài chính đứng ra đảm bảo quyền lợi cho cả
hai bên và Ngân hàng thương mại với hoạt động thanh toán quốc tế của mình đã
đáp ứng được đòi hỏi đó. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
là một mắt xích không thể thiếu được trong toàn bộ dây chuyền thực hiện một hợp

đồng ngoại thương. Thực hiện tốt vai trò trung gian thanh toán của mình trong hoạt
động thanh toán quốc tế, Ngân hàng thương mại đã đóng góp rất nhiều cho khách
hàng, cho nền kinh tế cũng như cho chính bản thân Ngân hàng thương mại.
+ Đối với khách hàng:
Vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng
thương mại giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến
hành nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa chi phí.
Tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, quyền lợi của khách hàng được đảm bảo
hơn, do khách hàng được ngân hàng tư vấn để lựa chọn các phương thức thanh
toán, kỹ thuật thanh toán cũng như đồng tiền thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro,
tạo ra sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch mua bán với nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không đủ khả năng
tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay để thanh toán
hàng nhập bằng cách bảo lãnh mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu, đáp ứng
nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Qua việc thực hiện thanh toán
quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
xuất nhập khẩu để có những tư vấn cho khách hàng và những điều chỉnh về chiến
lược khách hàng.
+ Đối với nền kinh tế.
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong hoạt động kinh tế
đối ngoại. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát
triển, đẩy mạnh quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, tăng nhanh tốc độ chu
chuyển của vốn, góp phần phát triển kinh tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng khối lượng thanh toán không dùng tiền mặt
trong nền kinh tế, giảm bớt các chi phí trung gian, đồng thời hoạt động thanh toán
quốc tế đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể vào Việt Nam bằng các nghiệp vụ
kiều hối, chuyển tiền đến và L/C xuất khẩu.
+ Đối với bản thân Ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế giúp ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài
trợ xuất nhập khẩu, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh ngoại tệ,

bảo lãnh và các dịch vụ khác.
Thanh toán quốc tế đem lại khoản thu phí dịch vụ quan trọng: hoạt động thanh toán
quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng về giao dịch, từ đó tăng quy
mô hoạt động và thị phần của mình trên thị trường.
Thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng: trong quá trình thực
hiện các giao dịch thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân hàng thương mại luôn
có một nguồn tiền tập trung chờ thanh toán. Nguồn tiền này tương đối ổn định và
phát sinh thường xuyên, là một nguồn nâng cao khả năng thanh khoản cho ngân
hàng.
Thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng thương mại có thể tạo ra được vòng tròn
dịch vụ khép kín, từ đó đảm bảo các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan đến nhau
như tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ được giám sát,
theo dõi kỹ lưỡng bởi nhiều phòng ban khác nhau, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó,
Ngân hàng còn nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong
nước theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại mà Nhà nước đề ra.
Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại: thông qua việc bảo lãnh cho
khách hàng trong nước, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương
mại sẽ có quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này
dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu,
mối quan hệ ngày càng rộng mở.
Tóm lại, có thể khẳng định, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động trung
gian của Ngân hàng thương mại, có tác dụng mang lại thu nhập, hỗ trợ các hoạt
động khác của Ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình thanh toán của khách
hàng được nhanh chóng, đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ hơn khi nghiên cứu
đến các phương thức thanh toán quốc tế.
1.1.2 Các phương thức thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
a. Phương thức chuyển tiền
Phương thức chuyển tiền là một phương thức thanh toán trong đó khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu...) yêu cầu ngân hàng của mình

chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất khẩu,
người cung ứng dịch vụ...) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển
tiền do khách hàng yêu cầu.
Các bên tham gia:
• Người trả tiền hay người chuyển tiền (người mua, người mắc nợ, người
đầu tư, người chuyển kinh phí ra ngoài nước, kiều bào chuyển tiền về
nước...): Là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
• Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư...) hoặc
là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
• Ngân hàng chuyển tiền: Là ngân hàng thực hiện lệnh của người yêu cầu
chuyển tiền, thường là ngân hàng ở nước người chuyển tiền.
• Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền: Thường là ngân hàng ở
nước người hưởng lợi.
Chi phí chuyển tiền do người chuyển tiền hoặc người trả tiền thanh toán. Ngân
hàng chuyển tiền được hưởng các chi phí đó. Tiền chuyển có thể là đồng tiền của
nước trả tiền, hoặc người hưởng lợi, hoặc một nước thứ ba.
* Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
(1) Giao dịch thương mại
(2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với ủy
nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng )
(3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng.
(4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi
Ưu nhược điểm của phương thức này:
- Ưu điểm: Thủ tục hết sức đơn giản, không có chứng từ phức tạp, rườm rà,
người mua và người bán không phải tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau.
- Nhược điểm: Độ an toàn trong thanh toán không cao, không đảm bảo
quyền lợi cho người bán, hàng đã chuyển nhưng việc trả tiền phụ thuộc vào
thiện chí của người mua. Trong trường hợp người mua chuyển tiền trước khi
giao hàng mà vì một lý do nào đấy, việc giao hàng của người bán chậm trễ,
hoặc không đúng theo yêu cầu thì người mua sẽ ứ đọng vốn. Vì vậy, phương

thức này chủ yếu áp dụng để thanh toán phi mậu dịch, các chi phí liên quan
đến trả nợ, bồi thường, còn nếu áp dụng trong thanh toán xuất nhập khẩu thì
chủ yếu đối với khách hàng quen biết, có tín nhiệm cao.
b. Phương thức nhờ thu
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi
hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ cho khách hàng sẽ ủy thác
NH đại lýNH chuyển tiền
Người chuyển tiền
Người hưởng lợi
cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của
người bán lập ra.
Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có:
- Người bán tức là người hưởng lợi (Principal)
- Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận sự uỷ thác của người bán
(Remitting Bank)
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là ngân hàng ở nước người mua.
(Collecting Bank and/or Presenting Bank).
- Người mua tức là người trả tiền (Drawee)
Có hai loại nhờ thu là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
Một là: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection).
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng
thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ gửi
hàng sẽ đưọc gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
Trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian làm dịch vụ thu hộ
tiền người mua, còn trách nhiệm trả tiền hay không là do người mua quyết định.
• Các bên tham gia:
+ Người bán, người hưởng lợi: Là người ủy nhiệm cho ngân hàng thu tiền
người mua.
+ Người mua, người trả tiền: Là người có trách nhiệm thanh toán tiền hàng
mua của người bán khi ngân hàng đến yêu cầu đòi thanh toán.

+ Ngân hàng nhờ thu: Là ngân hàng thu tiền từ người mua, thường là ngân
hàng phục vụ bên mua đồng thời là ngân hàng đại lý của ngân hàng người bán.
• Trình tự tiến hành:

(1) Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, lập
một hối phiếu đòi tiền người mua và ủy thác cho ngân hàng của mình đòi
tiền hộ bằng chỉ thị nhờ thu.
(2) Ngân hàng phục vụ bên bán gửi thư ủy thác nhờ thu kèm hối phiếu cho
ngân hàng đại lý của mình tại nước người mua nhờ thu tiền.
(3) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là trả tiền
ngay) hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (nếu mua chịu).
(4) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán, nếu chỉ là chấp
nhận hối phiếu thì ngân hàng sẽ giữ hối phiếu hoặc gửi lại cho người bán.
NH đại lýNH Bên bán
gửi hàng và chứng từ
Người muaNgười bán
Khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng sẽ đòi tiền của người mua và thực
hiện việc chuyển tiền như trên.
• Ưu nhược điểm của phương pháp này:
Phương pháp nhờ thu không kèm chứng từ tuy có ưu điểm là thanh toán tương đối
nhanh, thực hiện đơn giản nhưng có nhược điểm là không đảm bảo quyền lợi cho
người bán vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh
toán, do đó người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền hay trả tiền chậm. Đối
với người mua áp dụng phương thức này cũng có bất lợi vì nếu hối phiếu đến sớm
hơn chứng từ thì người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng
của người bán có đúng theo hợp đồng hay không.
Như vậy, với phương pháp này, tính an toàn đối với cả người xuất khẩu và nhập
khẩu đều thấp, tốc độ thanh toán chậm. Do vậy, nó ít được sự dụng trong thanh
toán quốc tế, có chăng chỉ là thanh toán các chi phí vận tải, bảo hiểm, hoa hồng, lợi
tức... hoặc khi hai bên mua và bán tin cậy lẫn nhau hoặc hai bên cùng nội bộ công

ty với nhau (công ty mẹ và công ty con).
Hai là: Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection)
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng
thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ
chứng từ gửi hàng gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hối phiếu
thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng
Trong phương thức này, điểm khác biệt cơ bản với nhờ thu phiếu trơn là người
xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn khống chế bộ chứng từ
hàng hoá đối với người nhập khẩu. Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi
của người bán sẽ được đảm bảo hơn.
• Trình tự tiến hành:
Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ cũng giống như nhờ thu phiếu
trơn, chỉ khác ở khâu (1) là lập một bộ chứng từ nhờ ngân hàng thu hộ tiền. Bộ
chứng từ gồm có hối phiếu và các chứng từ gửi hàng kèm theo, ở khâu (3) là ngân
hàng đại lý chỉ trao chứng từ gửi hàng cho người mua nếu như người mua trả tiền
hay chấp nhận trả tiền hối phiếu.
Tuỳ theo thời hạn trả tiền, ta chia phương thức này thành hai loại:
• Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ ( Documents Against Payment - D/P): Được sử
dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay.
NH bên MuaNH bên Bán
Người Mua
gửi hàng
Người Bán
• Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents Against Acceptance - D/A): Áp
dụng trong trường hợp nhờ thu trả sau.
So với hình thức nhờ thu phiếu trơn, phương thức D/A và D/P đảm bảo hơn vì
ngân hàng thay mặt người bán khống chế chứng từ. Tuy nhiên, hai phương thức
này còn có những hạn chế như:
Đối với D/P thì người nhập khẩu phải trả tiền khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá
mà không được kiểm tra hàng hoá trước. Vì vậy, người mua gặp rủi ro trong trường

hợp hàng hoá không giao đúng như mô tả chứng từ hoặc không đúng trong hợp
đồng. Còn về phía nhà xuất khẩu thì phải rất tin tưởng vào khả năng và thiện chí
thanh toán của bạn hàng nước ngoài vì các ngân hàng tham gia hoàn toàn không
chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu người mua từ chối bộ chứng từ thì người xuất
khẩu phải chịu hết tất cả chi phí chuyên chở hàng hoá và cả mọi rủi ro trên đường
vận chuyển .
Đối với D/A thì người xuất khẩu chịu rủi ro nhiều hơn so với nhờ thu D/P vì khi
đến hạn trả tiền của hối phiếu, người mua có thể không trả tiền vì một lý do nào đó
trong khi đã nhận hàng. Thời gian thanh toán bị kéo dài do phải phụ thuộc vào thời
gian chứng từ luân chuyển từ ngân hàng bên xuất khẩu đến ngân hàng bên nhập
khẩu nên người xuất khẩu phải mất khá lâu mới thu được tiền còn người nhập khẩu
thì có lợi hơn.
Tóm lại, với phương thức này, việc ngân hàng khống chế các chứng từ hàng hoá
khiến cho quyền lợi của người xuất khẩu cũng được bảo đảm hơn phương thức nhờ
thu phiếu trơn và chuyển tiền, thời gian thanh toán thì ngắn hơn và chi phí ít hơn so
với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Do vậy, phương thức này được sử
dụng trong phương thức xuất nhập khẩu với những hợp đồng có giá trị nhỏ và
thanh toán dịch vụ đối với các khách hàng quen và tin cậy.
c. Phương thức tín dụng chứng từ (L/C)
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân
hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín
dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi của thư tín
dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi
người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ phù hợp với những quy định
đề ra trong thư tín dụng. Một công cụ vô cùng quan trọng không thể thiếu được
trong phương thức tín dụng chứng từ là thư tín dụng, nếu không mở được thư tín
dụng thì phương thức thanh toán này cũng không được xác lập.
Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh toán,
trong đó một ngân hàng (ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của
người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến cho ngân hàng ở nước ngoài (ngân

hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho người hưởng (người xuất khẩu), cam
kết sẽ thanh toán một số tiền nhất định trong phạm vi thời hạn quy định, với điều
kiện người hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội
dung, điều kiện quy định như trong Thư tín dụng.
Trên đây là những nội dung cơ bản về các phương thức thanh toán quốc tế hiện
nay. Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là do hai bên xuất nhập khẩu quyết
định dựa trên các điều kiện cụ thể nhằm thoả mãn quyền lợi của cả hai phía. Tuy
nhiên, phương thức tín dụng chứng từ vẫn chiếm ưu thế, là một phương thức thanh
toán chủ yếu. Điều này sẽ được khẳng định khi đi sâu nghiên cứu về phương thức
này ở phần tiếp theo.
1.2 TÍN DỤNG CHỨNG TỪ - PHƯƠNG THỨC CHỦ YẾU TRONG THANH
TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Cơ sở hình thành thư tín dụng
Ngày nay, việc mở rộng nền kinh tế và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc
tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương phát triển tại các quốc gia.
Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển xóa bỏ dần hàng rào buôn bán giữa
các quốc gia. Các giao dịch thương mại không chỉ diễn ra giữa những khách hàng
quen biết, có tín nhiệm cao. Trong khi người bán luôn ngần ngại khi chuyển giao
hàng hóa của họ trước khi nhận được tiền, còn người mua lại muốn nắm được hàng
hóa trước khi trả tiền thì phương thức nhờ thu và chuyển tiền rõ ràng đã bộc lộ
những hạn chế của nó. Vì rất khó có thể làm cho việc trao đổi tiền và hàng được
tiến hành đồng thời nên trên thực tế các bên thường thỏa thuận với nhau một biện
pháp thỏa hiệp: trả tiền khi giao hàng tượng trưng, tức là giao chứng từ chuyển
quyền sở hữu hay quyền kiểm soát hàng hóa. Trên cơ sở đó phương thức tín dụng
chứng từ ra đời và nhanh chóng trở thành phương thức được sử dụng rộng rãi và
phổ biến nhất trong thanh toán xuất nhập khẩu. Trong phương thức này, các ngân
hàng không chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ mà được yêu cầu tham gia bằng
cách cam kết chắc chắn sẽ trả tiền cho người bán khi họ xuất trình đầy đủ bộ chứng
từ phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Các bên tham gia cơ bản trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:

- Người xin mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hàng hoá
hoặc là người mua ủy thác cho một người khác.
- Ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu,
nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu
- Người hưởng lợi thư tín dụng là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ
người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
1.2.2 Các hình thức thư tín dụng chủ yếu
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có ưu việt hơn hẳn những phương thức
thanh toán quốc tế khác. Tuy vậy, hiệu quả của phương thức này sẽ được thể hiện
đầy đủ hơn khi ta biết lựa chọn loại Thư tín dụng phù hợp với yêu cầu của từng
tình huống cụ thể trong mối quan hệ thương mại quốc tế nảy sinh giữa các bên.
Theo quy ước quốc tế, Thư tín dụng bao gồm nhiều loại. Có thể phân biệt chúng
dưới các giác độ khác nhau dưới đây:
Căn cứ vào tính chất: có các loại Thư tín dụng sau:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C): là thư tín dụng mà sau khi L/C
được mở thì người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ
bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự đồng ý của người hưởng lợi L/C.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại Thư tín dụng mà sau
khi được mở thì người yêu cầu mở Thư tín dụng sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ
sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không được sự đồng ý của người
hưởng Thư tín dụng . Để đảm bảo được tính chất và tác dụng của Thư tín dụng ,
ngày nay hầu hết Thư tín dụng được mở theo hình thức không huỷ ngang.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Irrevocable confirmed L/C): là
loại Thư tín dụng không thể huỷ ngang được một ngân hàng thứ ba đứng ra đảm
bảo thanh toán bên cạnh ngân hàng phát hành Thư tín dụng. Loại Thư tín dụng này
thường được dùng khi hai bên mua-bán chưa có quan hệ tín nhiệm nhau, người bán
chưa tin tưởng vào uy tín của người mua cũng như chưa tin tưởng vào uy tín của
ngân hàng phát hanh.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có thể chuyển nhượng (irrevocable

transferable L/C): là loại Thư tín dụng không huỷ ngang trong đó quy định quyền
của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở Thư tín dụng hay ngân
hàng chuyển nhượng Thư tín dụng do ngân hàng mở Thư tín dụng uỷ quyền
chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện Thư tín dụng cho một hay
nhiều người khác. Thư tín dụng chỉ được phép chuyển nhượng một lần. Thư tín
dụng chuyển nhượng thường được sử dụng trong mua bán hàng hoá tay ba, khi
người hưởng lợi thứ nhất là đại lý của người bán cuối cùng. Tuy nhiên loại Thư tín
dụng này cũng ít được sử dụng vì chứa đựng nhiều rủi ro cho người mở Thư tín
dụng cũng như người được chuyển nhượng do không có sự hiểu biết lẫn nhau.
Căn cứ vào thời hạn thanh toán:
- Thư tín dụng trả ngay (L/C at sight): là loại Thư tín dụng trong đó người xuất
khẩu sẽ được thanh toán ngay khi xuất trình các chứng từ phù hợp với điều khoản
quy định trong Thư tín dụng tại ngân hàng chỉ thị thanh toán. Trong trường hợp
này người xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu trả ngay để yêu cầu thanh toán.
- Thư tín dụng trả chậm (Deferred payment L/C): loại Thư tín dụng này quy định
việc thanh toán sẽ được tiến hành vào một thời điểm xác định trong tương lai. Khi
chỉ định một ngân hàng thanh toán trả chậm, ngân hàng phát hành cho phép ngân
hàng đó thực hiện thanh toán bộ chứng từ được xuất trình phù hợp với quy định
trong Thư tín dụng vào một thời điểm xác định trong tương lai đã nêu trong Thư
tín dụng. Đồng thời, ngân hàng phát hành cũng cam kết bồi hoàn cho ngân hàng
thanh toán đúng thời hạn.
Một số hình thức Thư tín dụng đặc biệt.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại Thư tín dụng do người xuất
khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở một Thư tín dụng khác cho người khác
hưởng căn cứ vào một Thư tín dụng đã được mở trước đó làm đảm bảo. Nội dung
của hai Thư tín dụng là gần giống nhau, tuy nhiên nó lại hoàn toàn độc lập với
nhau. Nghiệp vụ Thư tín dụng giáp lưng rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp
khéo léo và chính xác các điều kiện của Thư tín dụng gốc và Thư tín dụng giáp
lưng. Loại Thư tín dụng này thường được sử dụng trong mua bán hàng hoá qua
trung gian, khi người bán cuối cùng hoặc người mua không chấp nhận một Thư tín

dụng chuyển nhượng.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ ngang
chỉ có hiệu lực khi có một Thư tín dụng đối ứng với nó cũng được mở. Loại Thư
tín dụng thường được sử dụng khi hai bên mua bán có quan hệ mua bán hàng đổi
hàng hoặc gia công hàng hoá.
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ
ngang, sau khi sử dụng xong hoặc đã hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như
cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị được thực hiện hoàn
tất. Thư tín dụng tuần hoàn thường được sử dụng khi các bên tin cậy lẫn nhau, mua
hàng thường xuyên theo định kỳ.
- Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause L/C): là loại Thư tín dụng có điều khoản
đặc biệt, trong đó người hưởng Thư tín dụng thông qua ngân hàng phát hành đồng
ý ứng trước một số tiền nhất định cho người hưởng trước khi họ xuất trình đầy đủ
chứng từ hợp lệ theo đúng thời gian quy định. Loại Thư tín dụng này thường được
sử dụng trong quan hệ mua bán giữa công ty mẹ-con, tài trợ cho người bán để
chuẩn bị hàng hoá.
- Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C) là loại Thư tín dụng do ngân hàng của
người xuất khẩu phát hành trong đó cam kết với người nhập khẩu là sẽ thanh toán
cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
theo như Thư tín dụng đã quy định.
1.2.3 Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
(2)
Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu
Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(5)
(6)
(4)
(1)

(7)
(8)
(3)
(5)
(6)
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của mình
yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư
tín dụng và thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu thông báo việc mở
thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu .
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng phục vụ người xuất khẩu đóng vai trò
là ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung
thông báo về việc mở thư tín dụng đó và khi nhận được bản gốc của thư tín
dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu
không thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín dụng
cho phù hợp với hợp đồng.
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín
dụng xuất trình thông qua ngân hàng phục vụ mình (có thể là ngân hàng thông
báo hoặc ngân hàng khác) cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với thư tín
dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân
hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu
(nếu người nhập khẩu chấp nhận thanh toán thì ngân hàng mở thư tín dụng vẫn
thanh toán và trừ phí sai sót của bộ chứng từ)
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ
cho người nhập khẩu sau khi người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận thanh
toán
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả
tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.

NHỮNG CHỨNG TỪ CHỦ YẾU THEO THƯ TÍN DỤNG BAO GỒM:
(1) Hối phiếu (Draft): theo công ước quốc tế về Hối phiếu (Uniform Law for Bills
of Exchange – ULB) năm 1930, Hối phiếu được hiểu là một tờ lệnh trả tiền vô điều
kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối
phiếu, hoặc đến một ngày nhất định ghi trên hối phiếu phải trả một số tiền nhất
định cho một người nào đó, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc
trả cho người cầm hối phiếu.
(2) Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice): là chứng từ do người bán lập để
đòi tiền người mua, chứa đựng những thông tin quan trọng về chuyến hàng như tên
hàng, số lượng, đơn giá, giá trị thanh toán... Đây được coi là một trong những
chứng từ quan trọng nhất, không thể thiếu trong những chứng từ xuất trình.
(3) Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin): là chứng từ chỉ rõ nguồn gốc, xuất
xứ của hàng hoá xuất khẩu. Chứng từ này thường do Phòng Thương mại cấp trên
cơ sở kê khai của người bán hoặc một bên trung gian nào đó.
(4) Chứng nhận bảo hiểm (Certificate of Insurance): Chứng từ này do công ty Bảo
hiểm hoặc đại lý của họ lập ra để bảo hiểm cho lô hàng xuất nhập khẩu dựa trên
hợp đồng bảo hiểm và tuỳ thuộc vào điều kiện giao hàng.
(5) Chứng từ vận tải:
Vận đơn đường biển (Bill of Lading), vận đơn hàng không (Airway Bill) hoặc vận
đơn đường sắt (Railway Bill): là chứng từ được hãng vận tải phát hành, là bằng
chứng về việc giao hàng của người bán. Đối với phương thức giao hàng bằng
đường biển thì vận đơn được xem là chứng từ quan trọng nhất, vừa là bằng chứng
xác nhận hợp đồng chuyên chở, vừa là biên lai của Người chuyên chở xác nhận đã
nhận hàng, vừa là chứng từ xác thực quyền sở hữu đối với hàng hoá. Chứng từ vận
tải thường có những nội dung như tên tàu, số vận đơn, ngày phát hành vận đơn...
(6) Phiếu đóng gói (Packing list): nội dung của chứng từ này thường mô tả chi tiết
về chuyến hàng đã giao như số Container, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, ...
(7) Các chứng từ khác: như phiếu khử trùng, kiểm định thực vật, giấy chứng nhận
chất lượng, số lượng...
Việc lập được một bộ chứng từ hoàn hảo (sạch) theo thư tín dụng phải theo một

chuẩn mực quốc tế và thực tiễn thực hành được các nước tham gia công nhận.
Phòng Thương mại quốc tế (International Charmber of Commerce – ICC) đã xuất
bản cuốn: “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (Uniform
Customs and Practice for Documentary Credits - UCP), ấn bản đầu tiên năm 1933.
Văn bản này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương
sự phải thoả thuận ghi vào trong thư tín dụng, đồng thời có thể thoả thuận khác
miễn là có dẫn chiếu. Đến nay, trải qua quãng thời gian dài áp dụng, những điều lệ
trên đã nhiều lần được chỉnh sửa, bổ sung để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn
và phù hợp với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và ấn phẩm hiện đang được sử dụng
rộng rãi là UCP số xuất bản 500 bản sửa đổi năm 1993, và thường được viết tắt là
UCP 500. Hiện nay ấn bản này cũng lại đang được nghiên cứu sửa đổi và bản
UCP600 sẽ được xuất bản trong tương lai gần.
1.2.4 Đặc điểm của thư tín dụng và vai trò của Ngân hàng thương mại trong
quá trình thực hiện thanh toán theo thư tín dụng
a) Thư tín dụng có những đặc điểm sau:
Một là: thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng sau khi
ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Người mua căn cứ vào hợp
đồng để làm đơn yêu cầu mở Thư tín dụng. Người bán căn cứ vào các điều kiện
của Thư tín dụng tiến hành giao hàng và nếu xuất trình được các chứng từ có phù
hợp với hợp đồng hay không không phải là trách nhiệm của ngân hàng và không
ảnh hưởng đến trách nhiệm thanh toán của ngân hàng. Tính độc lập của Thư tín
dụng không huỷ bỏ trách nhiệm của ngân hàng phát hành khi hợp đồng mua bán đã
được huỷ bỏ nhưng Thư tín dụng vẫn còn hiệu lực. Do đó người bán khi nhận được
Thư tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều khoản của Thư tín dụng, nếu có điều khoản
nào chưa phù hợp phải yêu cầu người mua tiến hành sửa đổi Thư tín dụng cho phù
hợp trước khi thực hiện giao hàng.
Hai là: trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các ngân hàng chỉ giao dịch căn
cứ vào chứng từ, chứ không liên quan đến hàng hoá. Ngân hàng cam kết thanh
toán cho người hưởng khi họ xuất trình được bộ chứng từ mà thể hiện trên bề mặt
là phù hợp với các điều khoản của Thư tín dụng mà hoàn toàn không phụ thuộc

vào việc người mua đã nhận được hàng hoá hay chưa, hàng hoá có đúng quy cách
hay không. Do đó, quyền lợi của người bán sẽ được đảm bảo nếu họ xuất trình
được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều khoản, điều kiện của thư tín
dụng.
b) Vai trò của ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng
từ.
Đối với nhà nhập khẩu:
Khi nhà nhập khẩu chưa có uy tín với nhà xuất khẩu, nhà xuất khẩu chắc chắn
không muốn giao hàng trước khi nhận được tiền. Ngược lại, nhà nhập khẩu khi
chưa nhận được hàng cũng không hề muốn trả tiền trước, một mặt sẽ có rủi ro nếu
nhà xuất khẩu không giao được hàng, mặt khác vốn sẽ bị chiếm dụng trong một
thời gian dài, nhất là những hàng mà nhà xuất khẩu phải sản xuất rồi mới giao
được hàng. Sử dụng phương thức thanh toán quốc tế là tín dụng chứng từ sẽ giải
quyết được mâu thuẫn đó. Ngân hàng, bằng uy tín của mình sẽ đứng ra cam kết
thanh toán. Nhà nhập khẩu sẽ được tư vấn về những điều khoản trong hợp đồng để
xây dựng một Thư tín dụng chặt chẽ, có lợi cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu
cũng kiểm soát được hàng hoá thông qua việc nhà xuất khẩu sẽ phải xuất trình
những chứng từ chứng nhận xuất xứ, kiểm định chất lượng do những cơ quan
kiểm định độc lập phát hành. Ngân hàng sẽ kiểm tra bộ chứng từ đó có phù hợp
với thông lệ quốc tế và luật pháp của từng nước hay không, việc kiểm tra này đòi
hỏi kinh nghiệm và sự chuyên nghiệp cao. Ngoài ra, nếu nhà nhập khẩu đã có uy
tín với ngân hàng thì thường các ngân hàng sẽ cấp một hạn mức miễn ký quỹ mở
Thư tín dụng cho khách hàng. Đây là một trong những ưu việt chỉ có được khi áp
dụng phương thức tín dụng chứng từ. Nhà nhập khẩu bằng việc tận dụng uy tín của
ngân hàng đã tránh được việc ứ đọng vốn.
Đối với nhà xuất khẩu:
Chính từ đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ là ngân hàng chỉ làm việc
dựa trên chứng từ, nên khi nhà xuất khẩu đã giao hàng và tập hợp được bộ chứng
từ hoàn hảo, việc được thanh toán là chắc chắn. Dù trên đường hàng hoá có gặp rủi
ro thì việc hai bên giải quyết với bên bảo hiểm cũng không ảnh hưởng tới việc

ngân hàng phát hành phải thanh toán. Hoặc nhà nhập khẩu gặp rủi ro, mất khả
năng thanh toán, nhà xuất khẩu vẫn chắc chắn nhận được tiền của ngân hàng. Như
vậy tất cả chỉ phụ thuộc vào việc nhà xuất khẩu có xuất trình được bộ chứng từ có
hoàn hảo hay không, điều này nhà xuất khẩu sẽ được ngân hàng phục vụ mình tư
vấn. Ngoài ra, nhà xuất khẩu còn tránh được rủi ro về quản lý ngoại hối của nước
người nhập khẩu, vì khi Thư tín dụng đã được mở thì người nhập khẩu đã phải có
giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với
những phương thức khác như chuyển tiền (sau khi nhận hàng) hay nhờ thu, tại thời
điểm thanh toán nếu nước người nhập khẩu có sự thay đổi về quản lý ngoại hối liên
quan đến ngoại tệ hai bên đã thoả thuận thì rủi ro này hoàn toàn thuộc về nhà xuất
khẩu.
Khi đã có được bộ chứng từ, nhà xuất khẩu còn có thể để nghị ngân hàng phục vụ
mình chiết khấu (đối với bộ chứng từ trả ngay) hay bán trước hạn các hối phiếu đã
được chấp nhận (đối với bộ chứng từ trả chậm), do đó có thể nhanh chóng thu hồi
vốn tái đầu tư.
Tóm lại, lợi ích lớn nhất của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là thông
qua đó có thể đạt tới sự thoả thuận chấp nhận được giữa những lợi ích đối kháng
của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thông qua việc làm cho thời gian trả tiền phù
hợp với thời hạn giao hàng. Ta cũng đã biết dịch vụ này mang lại rất nhiều lợi ích
cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng phải hết sức thận trọng khi thực hiện
phương thức thanh toán này do có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới nó, có thể tạo
thuận lợi mà cũng có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN PHƯƠNG THỨC
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.3.1 Các nhân tố bên trong ngân hàng
Đây là những nhân tố nội tại của mỗi ngân hàng thương mại, nó có ảnh hưởng trực
tiếp tới hiệu quả áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế.
Nhân tố đầu tiên phải kể đến là mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động thanh
toán quốc tế nói chung. Một hệ thống quản lý điều hành thống nhất từ trung ương
đến chi nhánh theo một quy trình cụ thể, gọn nhẹ, giao quyền chủ động cho chi

nhánh sẽ tiết kiện được chi phí, thời gian thanh toán nhanh chóng và an toàn, đó là
tác nhân thu hut khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn vì quyền lợi của họ được
đảm bảo.
Nhân tố thứ hai là uy tín và tiềm lực tài chính của Ngân hàng thương mại trong
nước và quốc tế. Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đặc biệt và
nhạy cảm, uy tín và tiềm lực tài chính sẽ tạo được lòng tin với khách hàng, thu hút
được khách hàng tới với ngân hàng, từ đó lại càng củng cố cho uy tín và tiềm lực
của ngân hàng. Đặc biệt với phương thức tín dụng chứng từ, uy tín của ngân hàng
càng đóng vai trò quan trọng. Thư tín dụng là một cam kết của ngân hàng phát
hành cung cấp cho người hưởng, do đó uy tín của ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện của thư tín dụng. Một thư tín dụng do một ngân hàng uy tín
phát hành sẽ dễ dàng được người hưởng chấp nhận, không đòi hỏi sự xác nhận của
ngân hàng thứ hai, giảm các chi phí không cần thiết cho người nhập khẩu và người
xuất khẩu, gây lòng tin cho khách hang, từ đó sẽ thu hút được nhiều hơn khách
hàng đến với ngân hàng, phát triển được các hoạt động của ngân hàng nói chung
cũng như phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Uy tín của ngân
hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán, kỹ thuật xử lý
nghiệp vụ, quy mô của nguồn vốn huy động và cho vay, khả năng đáp ứng các
phương tiện thanh toán, sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ của
đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới nghiệp vụ tín
dụng chứng từ của ngân hàng thương mại. Các thư tín dụng mở ra được truyền từ
ngân hàng mở đến ngân hàng thông báo đều phải thông qua mạng SWIFT và giữa
hai ngân hàng phải có trao đổi mã khóa SWIFT để đảm bảo tính chân thực của thư
tín dụng. Nếu giữa hai ngân hàng không có trao đổi mã khóa SWIFT thì sẽ phải
thông qua ngân hàng trung gian. Như vậy rõ ràng với những ngân hàng mở thư tín
dụng có hệ thống ngân hàng đại lý rộng thì thư tín dụng mở ra sẽ tới tay người
hưởng nhanh hơn, giảm được chi phí trung gian. Mặt khác khi thanh toán thư tín
dụng, nếu ngân hàng chiết khấu có mạng lưới ngân hàng đại lý rộng sẽ đảm bảo
nhận được tiền từ ngân hàng mở thư tín dụng mà không phải qua nhiều ngân hàng

trung gian, vừa tiết kiệm phí chuyển tiền, vừa tiết kiệm thời gian. Thông qua quan
hệ với các ngân hàng đại lý, ngân hàng có thể khai thác được các nguồn tài trợ
không nhỏ, các hạn mức tín dụng, tạo vốn đáp ứng nhu cầu cho khách hàng nhập
khẩu. Cũng thông qua hoạt động của các ngân hàng đại lý, ngân hàng còn có thể
khai thác thông tin liên quan đến tình hình tài chính của các đối tác nước ngoài, hỗ
trợ cho các khách hàng nội địa. Ngoài ra, mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn sẽ
củng cố uy tín của ngân hàng đó trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo lòng tin
cho khách hàng khi đến với ngân hàng.
Một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng lớn tới nghiệp vụ thanh toán quốc tế nói chung
và nghiệp vụ tín dụng chứng từ nói riêng là công nghệ ngân hàng. Ngày nay, hoạt
động ngân hàng luôn đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác, tiện lợi, vì vậy sự hỗ trợ
của công nghệ thông tin là hết sức quan trọng. Công nghệ ngân hàng liên quan đến

×