Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

LÝ THUYẾT VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.12 KB, 40 trang )

LÝ THUYẾT VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I/ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
1. Dự án đầu tư:
a/ Đầu tư - theo cách hiểu đơn giản nhất - là việc hi sinh một hoặc một số
lợi ích nào đó trong hiện tại để đạt được những lợi ích lớn hơn trong tương lai. Tuy
vậy, một khái niệm quá rộng thường ít có ý nghĩa. Các ngân hàng, để phục vụ tốt
cho hoạt động của mình thì cần một định nghĩa hẹp hơn, theo đó các hoạt động đầu
tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực
lớn hơn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sinh hoạt, đời sống...
Dựa theo các tiêu chí khác nhau như thời gian dự án, quan hệ quản lý của
chủ đầu tư, lĩnh vực hoạt động, đặc điểm hoạt động... hoạt động ĐT được chia ra
thành nhiều loại khác nhau để tiện cho việc theo dõi, quản lý và đề ra các biện
pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư theo dự án.
Phần chủ yếu và quan trọng nhất trong các hoạt động đầu tư được tiến hành
dưới dạng các dự án ĐT. Theo Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản (ban
hành kèm theo nghị định 42-CP ngày 16/7/1997 và NĐ số 92-CP sửa đổi Điều lệ
quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản): Dự án đầu tư (DAĐT) được hiểu là một tập
hợp những đề xuất về việc bỏ vốn ra để tạo mới, mở rộng hoặc tái tạo những đối
tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao
chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một thời gian xác định đã định
trước.
Nhiều hoạt động của một dự án đầu tư thường phức tạp và kéo dài, điều đó
đòi hỏi phải hình thành một tổ chức hay cá nhân trực tiếp quản lý và chịu trách
nhiệm về các hoạt động của dự án, đó chính là chủ đầu tư dự án. Cũng theo Điều lệ
quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản: Chủ đầu tư là các cá nhân hoặc tổ chức có tư
cách pháp nhân được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư theo
đúng qui định của pháp luật hiện hành.
Với các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước hoặc dự án có cổ phần chi phối
hoặc cổ phần đặc biệt của nhà nước thì chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước ( Các
Tổng công ty, Công ty ); Cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị


xã hội, hoặc các tổ chức quản lý dự án được người có thẩm quyền quyết định đầu
tư giao trách nhiệm trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư.
Với các dự án đầu tư của công ty trách nhiệm hữu hạn, Cty Cổ phần hoặc
Hợp tác xã thì chủ đầu tư là Cty hoặc hợp tác xã.
Với các dự án đầu tư của tư nhân, chủ đầu tư là người sở hữu vốn của DN.
Với các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chủ đầu tư là các bên hợp
doanh (hợp đồng hợp tác kinh doanh); là Hội đồng quản trị (đối với xí nghiệp liên
doanh); là tổ chức, cá nhân người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn đầu tư (đối với dự án
đầu tư có 100% vốn nước ngoài và BOT).
Đối với các dự án đầu tư, cho dù lĩnh vực hoạt động và nguồn vốn được sử
dụng có khác nhau, đều chỉ có thể được tiến hành chỉ khi có sự chấp thuận của
người có thẩm quyền quyết định đầu tư, có thể là cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước
được Chính phủ giao quyền hoặc được uỷ quyền quyết định đầu tư, phụ thuộc vào
quy mô tính chất, tầm quan trọng của các dự án. Người có thẩm quyền quyết định
đầu tư có thể là: Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố và quận huyện, bộ, sở kế hoạch
đầu tư, hội đồng quản trị các Tổng công ty 90-91...
b/ Quá trình tiến hành thực hiện một dự án đầu tư bao gồm rất nhiều công
việc, và liên quan tới rất nhiều đối tượng, thường kéo dài cho nên việc phân đoạn,
xác định các công việc cần phải tiến hành trong từng giai đoạn là hết sức cần thiết.
Với một dự án đầu tư điển hình được phân tích thành ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn
bị đầu tư, GĐ thực hiện đầu tư và kết thúc dự án đưa dự án vào khai thác, GĐ sử
dụng. Các dự án đầu tư có thể phải tiến hành một phần hoặc tất cả các công việc cụ
thể, trong từng giai đoạn được nêu ra sau đây:
# Thứ nhất là g iai đoạn chuẩn bị đầu tư:
- Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư dự án.
- Thực hiện công việc tiếp xúc thăm dò thị trường trong hoặc ngoài nước để
tìm nguồn cung ứng vật tư, thiết bị hoặc tiêu thụ sản phẩm. Phải xem xét khả năng
có thể huy động các nguồn vốn để đầu tư và lực chọn hình thức đầu tư theo dự án.
- Điều tra khảo sát và chọn địa điểm xây dựng cho dự án.
- Tiến hành lập dự án đầu tư.

- Lập bản thẩm định dự án để quyết định đầu tư.
# Thứ hai là giai đoạn thực hiện đầu tư:
- Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước (bao gồm cả mặt
nước. mặt biển).
- Tổ chức đền bù, giải phóng mặt bằng; chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
- Tổ chức tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế, giám định kĩ thuật và chất
lượng công trình.
- Thẩm định thiết kế, tổng dự toán công trình.
- Tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, thi công xây lắp.
- Xin giấy phép xây dựng công trình (nếu quy định phải có) và giấy phép
khai thác tài nguyên (nếu có).
- Ký kết hợp đồng với nhà thầu để thực hiện dự án.
- Thi công xây lắp công trình.
- Theo dõi kiểm tra việc thực hiện các hoạt động.
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng sau khi hoàn thành xây lắp đưa dự án vào
khai thác, sử dụng.
* Giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác sử dụng:
-Bàn giao công trình.
-Kết thúc xây dựng.
-Bảo hành công trình.
-Vận hành dự án.
Chúng ta cũng cần phải có sự phân biệt các giai đoạn tiến hành đầu tư theo các
dự án trên đây với khái niệm chu trình (hay vòng đời) của dự án. Chu trình dự án bắt
đầu từ khi chúng ta nghiên cứu cơ hội đầu tư (nhận dạng dự án) và kéo dài cho đến
lúc kết thúc việc vận hành dự án, tiến hành đánh giá sau dự án.
2. Thẩm định dự án đầu tư (TĐDADT).
a/ Khái niệm: Thẩm định DAĐT là xem xét một cách khách quan khoa học,
toàn diện một dự án đầu tư để cấp giấy phép đầu tư, ra quyết định đầu tư, quyết
định tài trợ.
Thực chất của công tác TĐDAĐT là nhằm phân tích làm sáng tỏ một loạt

các vấn đề có liên quan tới tính khả thi trong từng quá trình thực hiện dự án: thị
trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính, quản lý thực hiện dự án... từ đó
tính toán kết quả mà dự án có thể mang lại cho chủ đầu tư, cho xã hội để ra quyết
định đúng đắn.
Trên thực tế, TĐDAĐT chính là việc kiểm tra, phân tích, đánh giá về từng
phần và toàn bộ các mặt trong mối liên hệ mật thiết với các thông tin có thể có và
các giả thiết về môi trường trong đó dự án sẽ hoạt động.
b/ Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thẩm định DAĐT.
Bất cứ một DAĐT nào trước khi bước vào giai đoạn thực hiện đầu tư, thậm
chí ngay cả khi đang được đầu tư hay đang vận hành đếu được thẩm định không
chỉ bởi một mà là nhiều cơ quan tổ chức khác nhau. Tuỳ theo chức năng vị trí của
mình mà mỗi cơ quan tổ chức có những quan điểm và mục tiêu thẩm định không
giống nhau.
Một cách chung nhất chúng ta có ba nhóm khác nhau trực tiếp tiến hành
thẩm định các DAĐT, đó là : các nhà đầu tư, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định đầu tư và các nhà tài trợ.
Các nhà đầu tư (hay các chủ đầu tư) là những người trước hết tiến hành cuộc
thẩm định DAĐT. Bên cạnh nhiều mục tiêu đặc biệt khác, các nhà đầu tư có một
mục tiêu chủ yếu là làm sao để có được một lợi ích tài chính (thu nhập bằng tiền)
thích đáng và tối đa cho dự án đầu tư của họ. Vì vậy, độ lớn và tính chắc chắn của
các luồng thu nhập tài chính trong tương lai luôn là mối quan tâm hàng đầu của họ,
nó xuyên suốt quá trình thẩm định cũng như quá trình thực hiện và khai thác
DAĐT.
Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định đầu tư: là người đại diện
cho lợi ích của toàn thể mọi người, toàn xã hội nên phải đứng trên quan điểm tổng
thể để xem xét các DAĐT. Không chỉ là chi phí và lợi ích thuần tuý vật chất, cũng
không phải chỉ là một hay một nhóm người mà phải là lợi ích đạt được và chi phí
phải bỏ ra đối với toàn xã hội khi DAĐT được thực hiện, phải được cân nhác xem
xét trong quá trình thẩm định. Các cơ quan này phải luôn quan tâm tới những đóng
góp của dự án cho nền kinh tế, cho xã hội trong sự so sánh với những thứ mà dự án

lấy đi của xã hội. Một tập hợp các chỉ tiêu phải xem xét, tính toán như là: mức độ
tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách Nhà nước,
thúc đẩy các ngành khác phát triển... những tác động tới môi trường, việc sử dụng
tài nguyên thiên nhiên và con người...
Các nhà tài trợ (như các thể chế tài chính, NSNN, các tổ chức, các cá nhân
khác...) khi quyết định tài trợ bao nhiêu, cho ai và tài trợ như thế nào đều phải cân
nhắc xem liệu DAĐT đó có đáp ứng được mục tiêu mong muốn của họ hay không.
Cho dù đó là mục tiêu lợi nhuận, kinh tế chính trị hay mục tiêu xã hội, nhân đạo...
một quyết định đúng đắn và một kết quả mong đợi luôn phụ thuộc phần lớn vào
việc thẩm định các DAĐT.
c/ Các mặt thẩm định chủ yếu:
*Pháp lý: Việc thẩm định mặt pháp lí nhằm đảm bảo việc tuân thủ luật pháp
của chủ dự án và các hoạt động của dự án, tránh việc xâm phạm những quy định,
luật lệ do nhà nước ban hành cũng như việc đi ngược lại các định hướng phát triển
kinh tế xã hội của nhà nước. Một dự án không chứng minh được một cách đầy đủ
tính hợp lí hợp lệ của nó chắc chắn sẽ bị loại bỏ.
*Thị trường: Xem xét kiểm tra sự chính xác của những dự tính về khả năng
tiêu thụ sản phẩm; tìm hiểu, đánh giá hiện trạng và xu hướng của cung cầu sản
phẩm trên thị trường; mức độ cạnh tranh về giá, chất lượng; chiến lược tiêu thụ sản
phẩm của dự án, các kế hoạch hỗ trợ và dự phòng..v.v. Đây là một mặt thẩm định
cơ bản quyết định tới qui mô đầu tư, trang thiết bị máy móc, cơ cấu tổ chức.
*Kỹ thuật công nghệ: Xem xét tính khả thi về mặt thiết bị công nghệ, liệu
công nghệ, giải pháp kỹ thuật, địa điểm xây dựng như vậy là có phù hợp không;
các biện pháp kiểm soát chất thải gây ô nhiễm đã đáp ứng được yêu cầu chưa,..
*Tổ chức quản lý: số lượng chất lượng lao động liệu có đáp ứng yêu cầu vận
hành dự án có hiệu quả, đặc biệt là cơ quan quản lý và kỹ thuật, việc thiết lập hệ
thống phòng ban phân xưởng có hợp lý không,..
*Tài chính: Thẩm định tài chính phải xem xét các kế hoạch tài chính (gắn
với các kế hoạch đầu tư và sản xuất); đánh giá được hiệu quả tài chính và các rủi ro
có thể có đi liền với nó.

*Kinh tế - xã hội: Đây là khía cạnh mà các cơ quan quản lý Nhà nước rất
quan tâm. Thẩm định KT- XH giống như thẩm định khía cạnh tài chính, việc ra
quyết định chủ yếu dựa trên sự cân nhắc, so sánh giữa thu nhập và chi phí của dự
án. Nhưng một khác biệt rất cơ bản là thẩm định KT-XH phải đứng trên phương
diện xã hội chứ không phải cá nhân chủ đầu tư để tính toán các mức chi phí hay
thu nhập. Vì vậy các mức tính giá thị trường vốn là nền tảng cho các phân tích tài
chính, có thể phải thay đổi, thuế trợ cấp cũng phải điều chỉnh, cũng như phải tính
tới các tác động ảnh hưởng (tích cực hoặc tiêu cực) của dự án đối với các đối tượng
khác trong nền KT-XH… nhằm thể hiện đầy đủ chi phí và thu nhập mà xã hội phải
chi trả và nhận được từ dự án.
Sự phân chia các mặt thẩm định ở đây với mục đích là làm cho nhận thức
của chúng ta được toàn diện hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là sự phân chia tương đối và
trên thực tế cũng không hề có sự thống nhất trong việc chia tách các nội dụng cụ
thể vào các mặt thẩm định khác nhau. Hơn thế nữa, giữa các nội dụng các mặt
thẩm định luôn tồn tại một mối quan hệ mật thiết quyết định lẫn nhau. Các cán bộ
thẩm định không thể chỉ xem xét một hoặc một số mặt một cách phiến diện. Cho
dù là chủ đầu tư, cơ quan nhà nước, hay nhà tài trợ thì họ đều phải xem xét toàn
diện mọi khía cạnh của dự án và sự khác nhau chỉ là ở chỗ họ đặt trọng tâm vào
đâu mà thôi.
II/ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1. Quy trình thẩm định tài chính dự án của Ngân hàng thương mại.
Trước khi phê duyệt và cấp các khoản vay, cán bộ tín dụng cần phải thẩm
định kỹ càng về bộ hồ sơ vay vốn mà khách hàng gửi đến theo các trình tự sau:
1.1. Thẩm định tư cách pháp lý
Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn là việc xem xét năng
lực pháp luật và năng lực hành vi của họ. Mục đích và nội dung của việc thẩm
định này nhằm khẳng định điều kiện thứ nhất được quy định tại điều 7 (điều
kiện vay vốn) là: "khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp luật dân sự, năng
lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Để

tiến hành thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng, Ngân hàng lần lượt xem
xét các giấy tờ sau:
+ Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập
+ Đăng ký kinh doanh
+ Điều lệ
Cấp có thẩm quyền nào quyết định thành lập thì cấp đó phê duyệt điều lệ.
+ Quyết định bổ nhiệm tổng giám đốc, giám đốc
+ Quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng
+ Biên bản giao vốn, biên bản góp vốn
Kết thúc bước thẩm định này, cán bộ thẩm định phải rút ta được nhận xét
về tư cách pháp lý và người đại diện hợp pháp của khách hàng. Sau đó cán bộ
tín dụng tiếp tục xét đến khả năng tài chính của khách hàng.
1.2. Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng.
Xác định khả năng tài chính của khách hàng là một khâu quan trọng trong
quy trình thẩm định liên quan trực tiếp đến khả năng thu hồi vốn đầu tư sau này.
Vì vậy ngoài việc thẩm định khả năng trả nợ của chính dự án, phương án vay
vốn, cán bộ thẩm định còn phải xem xét khả năng tài chính của khách hàng ở
thời gian trước và vào thời điểm đề nghị vay vốn.
Để thực hiện được bước này, cán bộ tín dụng cần phải dựa vào những tài
liệu sau:
- Báo cáo tài chính thời điểm gần nhất và 2 năm liền kề với thời điểm vay vốn.
- Báo cáo hàng hoá tồn kho.
- Báo cáo tình hình tài chính của tổng công ty.
Cán bộ thẩm định có thể sử dụng nhiều phương pháp nhưng chủ yếu là
phương pháp so sánh về số tuyệt đối và chỉ số tương đối để đưa ra các kết luận
từng phần và toàn diện về khả năng tài chính của khách hàng nhằm giúp cho
việc quyết định cho vay hay không cho vay. Chỉ tiêu thường dùng là xem xét
nguồn vốn chủ sở hữu, hàng tồn kho doanh thu, phân tích các hệ số tài chính...
Kết thúc bước thẩm định này, cán bộ thẩm định phải nhận xét được khả
năng tài chính của khách hàng đến thời điểm vay vốn.

1.3. Thẩm định dự án đề nghị vay vốn lưu động.
1.3.1 Hồ sơ
Cán bộ thẩm định căn cứ vào bộ hồ sơ do khách hàng có nhu cầu vay vốn
gửi đến NH để phân tích và đưa ra nhận xét về nhu cầu vay vốn ngắn hạn của
khách hàng.
- Nhận xét tính hợp pháp, hợp lệ về kế hoạch sản xuất kinh doanh của
khách hàng nếu khách hàng xin duyệt hạn mức tín dụng cho cả năm thì
cơ sở để tính toán nhu cầu vốn vay là kế hoạch sản xuất kinh doanh đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Nhận xét về các hợp đồng giữa khách hàng vay vốn với người cung ứng
nguyên, nhiên vật liệu...
1.3.2. Xác định khả năng thực hiện dự án, nhu cầu vốn vay và khả năng trả nợ.
Qua thẩm định bộ hồ sơ và tình hình thực tế khách hàng, cán bộ thẩm
định đưa ra các nhận xét sau:
- Tính hợp pháp hay không hợp pháp của doanh nghiệp dựa trên cơ sở
năng lực sản xuất kinh doanh, công nghệ và công suất máy móc thiết bị
thực tế.
- Thực tế cung cấp nguyên, nhiên, vật liệu và các yếu tố đầu vào
- Thực tế tiêu thụ sản phẩm và các nhân tố ảnh hưởng
- Xác định vốn của khách hàng tham gia vào sản xuất kinh doanh
- Tính hợp lý của vòng quay vốn lưu động kỳ kế hoạch (so sánh với kỳ trước).
- Xác định được tổng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của khách hàng từ
đó xác định nhu cầu vốn vay.
Tuy nhiên cần phải so sánh nhu cầu vốn vay với tài sản làm đảm bảo nợ
vay và khả năng nguồn vốn của khách hàng để quyết định mức vay cho phù hợp
với quy định hiện hành của Ngân hàng.
Kết thúc bước thẩm định kỳ này, cán bộ tín dụng phải rút ra nhận xét và
đưa ra đề xuất đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong phần nhận xét,
cán bộ thẩm định phải tóm tắt lại toàn bộ những nội dung chính về nhu cầu vay
vốn, các chính sách, chế độ của Nhà nước có liên quan. Phần đề xuất nói rõ

đồng ý hay không đồng ý cho vay, với mức cho vay, thời hạn cho vay và biện
pháp bảo đảm tiền vay cũng như các đề xuất có liên quan.
1.4. Thẩm định tài sản làm đảm bảo nợ vay
Tài sản làm đảm bảo nợ vay được thực hiện theo quy định hiện hành của
các Ngân hàng. Hiện nay, việc thẩm định tài sản đảm bảo vẫn còn gặp nhiều khó
khăn cho cán bộ tín dụng và công tác này cần phải có biện pháp khắc phục.
Trên đây là quy trình thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, thẩm định
là phần quan trọng nhất để giúp tổng giám đốc, các giám đốc đưa ra quyết định
đâù tư một cách chuẩn xác. Quá trình thẩm định đòi hỏi phải có sự hiểu biết và
vận dụng một cách toàn diện các kiến thức về kinh tế, xã hội, chính trị của khu
vực và thế giới. Tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế ở từng địa phương, từng kế
hoạch và dự án, khi trực tiếp thẩm định các dự án cụ thể, các cán bộ tín dụng cần
phải xem xét và vận dụng linh hoạt các nội dung thẩm định nhằm đạt hiệu quả
cao nhất.
2. Nội dung thẩm định dự án của Ngân hàng thương mại.
2.1. Tài liệu dùng để xét duyệt
Trước hết là các thông tin được thu thập từ các nguồn khác nhau. Có thể
là dựa vào giấy đề nghị vay vốn, kế hoạch kinh doanh... Bên cạnh đó, để tiến
hành vay tiền khách hàng phải gửi đến Ngân hàng hồ sơ vay vốn, ngân hàng có
thể dùng chính tài liệu đó để xét duyệt. Bộ hồ sơ bao gồm:
- Giấy đề nghị vay vốn: Khách hàng phải làm rõ một số nội dung sau:
+ Tên khách hàng, địa chỉ, người đại diện, chứng minh thư, nơi cấp, số tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng.
+ Quyết định thành lập hay đăng ký kinh doanh.
+ Mục đích vay vốn.
+ Nhu cầu vốn để thực hiện phương án.
+ Thời hạn vay tiền, lãi suất, nguồn trả.
+ Những biện pháp bảo đảm tiền vay.
+ Ngoài ra khách hàng có cam kết về việc sử dụng tiền vay.
- Những tài liệu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự.

+ Đối với pháp nhân là doanh nghiệp tư nhân: Phải có quyết định thành
lập, đăng ký kinh doanh hay giấy phép hành nghề (nếu có ), khách hàng phải có
giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu ( nếu có ). Nếu là công ty thì phải có điều
lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm của người điều hành và kế toán trưởng.
+ Đối với hộ gia đình và cá nhân: Phải có giấy phép kinh doanh, hợp đồng
hợp tác (đối với những tổ hợp tác), chứng minh thư, hộ khẩu hoặc giấy phép
hành nghề (nếu có).
- Dự án hay phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng: Đối với tất
cả các trường hợp xin vay vốn thì kế hoạch kinh doanh nên do chính người xin
vay hoặc cố vấn của người xin viết.
- Các tài liệu báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống
và khả năng tài chính của khách hàng như: Bảng tổng kết tài sản, tài khoản lỗ lãi
hoặc chi phí thu nhập... Các tài liệu này giúp Ngân hàng đánh giá được mục đích
sử dụng tiền vay và khả năng tự bù đắp của khách hàng.
- Tài liệu chứng minh về tính hợp pháp và giá trị các tài sản bảo đảm nợ vay.
Ngoài ra cán bộ tín dụng còn căn cứ vào các văn bản pháp lý có liên quan đến
việc thẩm định hồ sơ vay vốn lưu động như là:
* Các luật đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua bao gồm:
- Bộ Luật dân sự có hiệu lực thi hành ngày 1/7/1996 quy định trách nhiệm và
nghĩ vụ của người vay vốn, bên bảo lãnh đối với ngân hàng.
- Luật các Tổ chức tín dụng được thông qua ngày 12/12/1997.
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam .
- Luật doanh nghiệp ngày 1/1/2000.
* Các văn bản dưới luật:
- Qui chế tín dụng của NHNN&PTNT đối với khách hàng kèm theo quyết
định số 60/99 QDHDQT 10/4/1999
- Pháp lệnh Hội đồng kinh tế do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký ngày
25/9/1989 quy định về việc ký kết các hợp đồng kinh tế.
- Nghị định 165/1999/NĐ - Chính phủ ngày 19/11/1999 về giao dịch đảm bảo

do Chính phủ ban hành.
- Nghị định 278/ 2005 /NĐ - CP về đảm bảo tiền vay các tổ chức tín dụng do
Chính phủ ban hành ngày 29/12/2005.
- Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với khách hàng
kèm theo Quyết định 284/2000/QĐ - NHNN1 ngày 25/8/2000 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thông tư 06/2000/TT - NHNN1 ngày 4/4/2000 Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định 178 của Chính phủ về
đảm bảo tiền vay đối với tổ chức tín dụng.
2.2. Nội dung thẩm định.
Cán bộ tín dụng khi nhận được bộ hồ sơ xin vay cần thẩm định tính hợp
pháp, hợp lệ của hồ sơ vay vốn và điều quan trọng là phải thu thập được những
thông tin chính xác về khách hàng xin vay, xác định rõ nguồn gốc về số liệu, về
giá trị của tài sản và khả năng xử lý các tài sản làm đảm bảo tiền vay. Để làm
được điều đó cần phải xem xét chi tiết các vấn đề sau:
2.2.1. Giấy chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân
- Theo luật pháp quy định, một đơn vị hay cá nhân có tư cách pháp nhân
hoặc thể nhân mới có quyền ký kết hợp đồng kinh tế. Đối với hợp đồng tín dụng
cũng vậy, Ngân hàng chỉ cho vay đối với các đơn vị có đầy đủ năng lực pháp lý
và năng lực hành vi.
Biểu hiện cụ thể là:
- Đối với pháp nhân: Một đơn vị có đầy đủ tư cách pháp nhân phải được
cấp có thẩm quyền cấp đầy đủ các giấy tờ sau:
+ Giấy phép hoạt động
+ Đăng ký kinh doanh
+ Điều lệ hoạt động
+ Quyết định bổ nhiệm Tổng giám đốc, Giám đốc, Chủ nhiệm...
+ Giấy phép hành nghề ( Nếu có).
Các giấy tờ trên phải phù hợp với quy đinh trong luật Doanh nghiệp Nhà
nước, luật Doanh nghiệp Tư nhân, luật Công ty, luật Hợp tác xã, luật Đầu tư

nước ngoài...
Có như vậy Ngân hàng mới có cơ sở quyết định duyệt một dự án vay.
- Đối với thể nhân: Phải có giấy CMND, giấy hôn thú, sổ hộ khẩu...
2.2.2. Uy tín của người vay vốn
Đây là yếu tố quan trọng hơn cả trong toàn bộ mối quan hệ giữa Ngân
hàng Thương Mại với khách hàng. Bởi lẽ bản thân của từ " Tín dụng " cũng như
một trong những đặc trưng của tín dụng là sự tin tưởng và tín nhiệm trong quan
hệ vay mượn. Tuy nhiên, việc thẩm định uy tín của người vay là hoàn toàn
mang tính chủ quan nên rất khó đánh giá chính xác. Xong có thể xem xét ở một
vài khía cạnh khác nhau sau:
- Quá trình hoạt động: Về mặt này, đối với những khách hàng mới quan hệ
lần đầu thì hoàn toàn khó khăn đối với Ngân hàng trong việc đánh giá uy tín của
họ. Có làm được thì cũng tốn kém và mất thời gian. Tuy nhiên đối với những
khách quen, thường xuyên giao dịch, vay vốn của Ngân hàng thì việc đánh giá
uy tín của họ có thể thực hiện được. Uy tín của họ được thể hiện ở việc thực hiện
nghiêm túc nghĩa vụ trả nợ, ở tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và ở khả
năng tài chính lành mạnh...
-Sự nhất quán: Thể hiện ở những gì khách hàng vay vốn trả lời phỏng vấn
hay những gì họ làm . Liệu những thông tin họ cung cấp trong cuộc phỏng vấn,
những con số trên thực tế có trùng khớp với những thông tin trong hồ sơ vay vốn
và báo cáo tài chính không. Liệu họ có sẵn sàng và thực tâm gánh trách nhiệm
như đã cam kết trong giấy đề nghị vay vốn không? Thái độ của họ có trung thực
không?
- Khả năng: Khả năng của người vay vốn được thể hiện qua năng lực quản
lý và năng lực chuyên môn của người lãnh đạo, của chủ đơn vị. Khi xem xét vấn
đề này, ngân hàng có thể dựa trên một số điểm như:
+ Tổng giám đốc (hoặc đại diện pháp nhân, thể nhân) có trình độ tay nghề
liên quan đến hoạt động sản xuất của đơn vị hay không.
+ Kinh nghiệm của Giám đốc cũng như nhân viên trong lĩnh vực kinh
doanh đó, thị phần của công ty, khách hàng chính, địa điểm tiêu thụ.

+ Đại diện pháp và tập thể đơn vị phải có ý tưởng, mục đích, mục tiêu
kinh doanh rõ ràng và phải cam kết thực hiện được mục tiêu đó. Năng lực quản
lý và kinh doanh của người điều hành cần được biểu hiện ở việc sử dụng hiệu
quả các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm dịch vụ với chất lượng và khả
năng thu lợi nhuận cao, biểu hiện ở những báo cáo tài chính nhất quán, sự thành
công vững chắc qua nhiều năm và việc phân phối lợi nhuận một cách hợp lý.
Ngoài ra, để đánh giá uy tín của người vay vốn, ngân hàng còn dựa vào
mối quan hệ của họ với bạn hàng và với các tổ chức tín dụng khác. Đảm bảo
không có nợ quá hạn và không lợi dụng chiếm đoạt vốn của người khác, hoạt
động theo quy định của pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước...
2.2.3. Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Tình hình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp tốt hay xấu, có triển
vọng phát triển hay không được thể hiện ở hai chỉ tiêu là doanh thu và lợi nhuận.
Chính vì vậy, khi đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ngân hàng cũng tiến
hành phân tích hai chỉ tiêu này.
- Doanh thu : Là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình
tiêu thụ hàng hoá.
Nhìn chung, doanh thu tăng là một biểu hiện tốt, phản ánh tình hình tài
chính của doanh nghiệp lành mạnh, có năng lực mở rộng sản xuất, có điều kiện
trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên để đi đến quyết định cho vay ngân hàng cần phải
phân tích nguyên nhân dẫn đến việc tăng doanh thu bởi lẽ không phải tất cả các
trường hợp doanh thu đều đem lại cho doanh nghiệp một khoản lợi nhuận lớn
hơn.
- Lợi nhuận: Là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, đánh giá toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tính bằng chênh lệch giữa giá
thành và giá bán sản phẩm. Lợi nhuận càng cao thể hiện toàn bộ quá trình hoạt
động của doanh nghiệp càng có hiệu quả, khả năng sử dụng vốn vay đạt mục
tiêu kinh tế đặt ra càng vững vàng, khoản tín dụng của ngân hàng càng có điều
kiện trả đúng hạn.
Bên cạnh đó, khi phân tích đánh giá tình hình sản xuất của doanh nghiệp,

cán bộ tín dụng cần phải xem xét đến loại hình sản xuất, công nghệ, máy móc,
thiết bị và đặc điểm loại sản phẩm của doanh nghiệp để từ đó biết được doanh
nghiệp đang sản xuất và đầu tư vào mặt hàng gì, nhu cầu của thị trường về loại
sản phẩm đó có cao hay không, công nghệ sản xuất có hiện đại, cập nhật đủ sức
thắng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường hay không, sản xuất của doanh
nghiệp có mang tính thời vụ không và việc vay vốn đầu tư vào thời điểm đó có
hợp lý không. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần tìm hiểu thêm về khách hàng,
bạn hàng của doanh nghiệp. Họ là ai, uy tín trên thị trường ra sao và quan hệ với
doanh nghiệp như thế nào.
Phân tích đánh giá một cách cẩn thận các chỉ tiêu trên sẽ giúp ngân hàng
hạn chế được rủi ro tín dụng đến từ phía ngân hàng và từ phía khách hàng.
2.2.4. Đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Trước khi vay vốn, doanh nghiệp phải nộp vào ngân hàng một số giấy tờ
cần thiết trong đó có các bản báo cáo tài chính. Căn cứ vào bảng báo cáo tài
chính lập tại thời điểm gần nhất, cán bộ tín dụng tiến hành phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp để thấy rõ nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành
từ đâu, doanh nghiệp thừa hay thiếu vốn, họ sử dụng vốn vào việc gì là chủ yếu,
vốn còn đọng ở khâu nào và khả năng còn tiềm tàng ở đâu. Từ đó đưa những
quyết định đúng đắn đối với những khoản tín dụng phát ra. Để làm được điều
đó, ngân hàng tiến hành đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu sau:
2.2.4.1 Quy mô- Cơ cấu vốn của khách hàng:
Khi phân tích quy mô- cơ cấu vốn của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải
đánh giá được nó có phù hợp với quy mô, cơ cấu và loại hình sản xuất của doanh
nghiệp hay không. Và nếu trong điều kiện doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất
kinh doanh thì số vốn đó của doanh nghiệp có còn phù hợp và tương xứng với sự
phát triển đó hay không. Cơ cấu của doanh nghiệp có thể được xem xét ở hai loại:
- Vốn cố định: Được đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương
tiện kinh doanh của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng phải đánh giá được tình hình
nhà xưởng, máy móc thiết bị của doanh nghiệp như thế mới đảm bảo cho một

quá trình sản xuất tốt, an toàn, năng suất cao và chất lượng sản phẩm tốt, đủ sức
mạnh cạnh tranh trên thị trường hay không, liệu doanh nghiệp có tồn tại, phát
triển kinh doanh, có thu nhận và trả được nợ cho ngân hàng hay không?
- Vốn lưu động: được biểu hiện ở các yếu tố nguyên vật liệu, thành phẩm,
bán thành phẩm, giá trị hàng tồn kho và các khoản nợ phải thu của doanh
nghiệp. Ngân hàng xem xét để tính toán được nhu cầu về vốn lưu động của
doanh nghiệp, số vốn doanh nghiệp đã có được tài trợ và số vốn cần vay.
Trên cơ sở phân tích vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp, cán bộ
tín dụng tính toán tỷ trọng giữa hai loại vốn này là bao nhiêu, đã phù hợp với đặc
điểm loại hình sản xuất của doanh nghiệp chưa, và việc cấp tín dụng bổ sung là cần
thiết hay không?
2.2.4.2. Hệ số tự tài trợ
Hệ số tự tài trợ của doanh nghiệp là chỉ tiêu khái quát, phản ánh khả năng tự
đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp, được thể hiện theo công thức:
Hệ số tự tài trợ =
Nguồn vốn doanh nghiệp hiện có
Tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng
Trong đó:
- Nguồn vốn doanh nghiệp hiện có bao gồm: Nguồn vốn cố định, nguồn vốn
lưu động, nguồn vốn xây dựng cơ bản, các quỹ doanh nghiệp, nguồn kinh phí và
lợi nhuận chưa phân phối.
- Tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng gồm: nguồn vốn doanh
nghiệp hiện có, nguồn vốn đi vay ngân hàng và nguồn thanh toán. Như vậy, hệ số
tự tài trợ càng lớn thì khả năng tự tài trợ, sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao
kinh doanh của doanh nghiệp ít phụ thuộc vào vốn bên ngoài, doanh nghiệp có thể
chủ động về vốn và khoản vay của ngân hàng được an toàn hơn. Tín dụng phát ra
trong trường hợp đó sẽ có chất lượng.
2.2.4.3. Năng lực đi vay của khách hàng:
Là khả năng của doanh nghiệp kêu gọi xin vốn căn cứ vào kết cấu tài chính
của bảng tổng kết tài sản và vào năng lực tự tài trợ của doanh nghiệp. Năng lực đi

vay của doanh nghiệp phụ thuộc vào quy mô, tình hình thực tế tại khu vực kinh tế
của nó. Song dù đó là khu vực kinh tế nào, tình hình thực tế nào và năng lực tài trợ
có lên đến mức nào thì năng lực đi vay vẫn tăng, giảm ngược chiều với tình hình
nợ nần.
2.2.4.4. Khả năng sinh lời (tỷ suất lợi nhuận)
Khả năng sinh lời tài chính là khả năng sinh lời một đồng vốn trong năm của
một doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận có thể tính chung cho vốn cố định và vốn lưu
động, nhưng cũng có thể tính riêng cho từng loại vốn hoặc tính theo tổng doanh
thu bán hàng theo các công thức:
Tỷ suất lợi nhuận
vốn
=
Lợi nhuận
x 100%
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
ý nghĩa: Có 100 đồng vốn tham gia vào sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận
doanh thu bán hàng
=
Lợi nhuận
x 100%
Tổng doanh thu bán hàng
ý nghĩa: Có 100 đồng doanh thu bán hàng thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Trước khi cho vay, ngân hàng cần phải đánh giá được chỉ tiêu này để biết
được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong đó có vốn của ngân hàng ra
sao. Trong hoạt động kinh doanh, nếu doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn
lãi suất tiền vay thì doanh nghiệp đó không có khả năng trả nợ vay ngân hàng. Do vậy,
để phòng tránh rủi ro thì ngân hàng cần phải thẩm định kỹ trước khi cho vay.
2.2.4.5. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp

Một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt là doanh nghiệp có đủ khả
năng trả các khoản nợ khi đến hạn. Thông thường muốn biết chính xác khả năng
thanh toán của doanh nghiệp tốt hay xấu, ngân hàng cần phải căn cứ vào tình
hình tài chính. Để đánh giá chính xác chỉ tiêu này cần xem xét đánh giá qua các
chỉ tiêu:
Khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh
toán nhanh và khả năng thanh toán cuối cùng.
Các NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh vốn lưu động của mình qua việc
cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm bổ sung nhu cầu vốn phát sinh trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc đầu tư vốn lưu động ở các NHTM được thực
hiện khi doanh nghiệp gửi đến ngân hàng phương án vay vốn của doanh nghiệp.

×