Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy nâu và khả năng khống chế rầy của thiên địch trên đồng ruộng vụ xuân năm 2011 Tại Hải Hậu - Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.78 KB, 54 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Lúa được coi là một trong ba cây lương thực chủ yếu trên thế giới: Lúa
mỳ, lúa và ngơ. Trong đó có khoảng 40% dân số coi lúa gạo là nguồn lương
thực chính, 25% dân số sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần lương thực hàng
ngày. Như vậy, lúa gạo có ảnh hưởng tới đời sống ít nhất 65% dân số trên thế
giới (Giáo trình cây lương thực).
Cây lúa bị rất nhiều lồi sinh vật gây hại như: sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục
thân, rầy nâu, chuột…, trong đó rầy nâu là một trong những đối tượng gây hại
nguy hiểm nhất vì ngồi việc chích hút gây hại trực tiếp, rầy nâu cịn là môi
giới truyền bệnh virus cho lúa như bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá.
Theo Reissig Henrichs (1993), sự gia tăng về số lượng và thành phần nhóm
rầy hại thân do nguyên nhân, mở rộng diện tích trồng lúa, tạo điều kiện cho rầy
pháp tán và lây lan trên diện rộng. Tăng số vụ lúa trong năm tạo điều kiện cho rầy
phát triển thành dịch, cơ cấu giống thường xuyên được thay đổi, thay thế các
giống chống chịu tốt năng xuất thấp thay bằng các giống cho năng xuất cao nhưng
ngược lại tính chống chịu sâu, bệnh lại kém. Trồng nhiều giống mới thay giống
liên tục làm phát sinh nhiều loài rầy mới gây hại mạnh hơn. Ngoài ra, rầy lưng
trắng và rầy xám cũng thường xuyên xuất hiện trên các giống lúa đặc biệt trên các
giống nhiễm cùng với rầy nâu và được coi là những dịch hại quan trọng đối với
trồng lúa nhiệt đới và cận nhiệt đới Châu Á.
Ở Việt Nam, vào năm 1958 rầy nâu phát sinh thành dịch phá hại lúa
chiêm xuân giai đoạn trỗ - chín ở các tỉnh phía Bắc. Ở nhiều tỉnh thuộc đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng ven biển khu 5 và Thừa Thiên Huế. Năm
1974 diện tích lúa bị rầy nâu hại ở các tỉnh phía Nam lên tới 97.860 ha, đặc
biệt từ tháng 11/1977, trong suốt 3 tháng 11-1, rầy nâu gây thành dịch trên
diện tích rộng 200.000 ha. Theo Cục Bảo vệ thực vật (BVTV), trong những
năm 1999 - 2003, diện tích lúa bị hại do rầy nâu và rầy lưng trắng gây ra
1



trong cả nước là 408.908,4 ha trong đó miền Bắc là 213.208,8 ha, miền Nam
là 195.699 ha. Năm 2006 tại các tỉnh thành phía Nam, tổng diện tích nhiễm
rầy nâu tồn vụ là 200.039 ha chiếm 12,8% diện tích gieo trồng. Như vậy,
diện tích lúa bị hại và hại nặng do rầy nâu gây ra xếp hàng thứ ba trong chín
lồi dịch hại lúa chủ yếu. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây đa số các giống đang
gieo trồng chủ yếu các giống mẫn cảm với rầy nâu ở nước ta.
Ngày nay nhóm rầy hại thân đang được sự quan tâm của các nhà bảo vệ
thực vật. Để khắc phục tình trạng trên việc đi sâu nghiên cứu về nhóm rầy hại
thân và tìm ra biện pháp phịng chống chúng hợp lý, góp phần tích cực cho
cơng tác bảo vệ thực vật đạt hiệu quả cao, đồng thời đưa ra được những
khuyến cáo trong việc bố trí cơ cấu giống cây trồng hợp lý để giảm áp lực của
dịch hại, giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật và lượng thuốc độc trên đơn
vị diện tích là việc cần thiết.
Để góp phần làm cơ sở cho cơng tác dự tính dự báo và biện pháp phịng
chống nhóm rầy chích hút thân lúa một cách thích hợp và có hiệu quả, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh
thái của rầy nâu và khả năng khống chế rầy của thiên địch trên đồng ruộng
vụ xuân năm 2011 Tại Hải Hậu - Nam Định”

2. Mục tiêu của đề tài
- Trên cơ sở xác định sự phát sinh phát triển rầy nâu điều tra thành phần
nhóm rầy hại thân lúa vụ xuân 2011 trên lúa
- Theo dõi diễn biến mật độ của rầy nâu trên lúa theo từng giai đoạn
sinh trưởng của cây trồng.
- Điều tra thành phần thiên địch của rầy nâu.
- Khảo sát một số loại thuốc hố học để phịng trừ rầy nâu, rầy hại thân lúa.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
2



* Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Điều tra nhóm rầy hại thân trên hai giống lúa thuần và lúa lai đánh giá
được thực trạng của giống lúa nhiễm rầy trong các điều kiện trồng trọt của
vùng nghiên cứu; nắm được tập tính sinh sống và phát sinh gây hại của nhóm
rầy hại thân lúa để có biện pháp phịng chống kịp thời khi mật độ vượt quá
ngưỡng kinh tế.
* Ý nghĩa khoa học của đề tài
Số liệu điều tra diễn biến mật độ của nhóm rầy hại thân lúa, giúp chúng
ta tìm hiểu thêm được các mối liên quan giữa các loài rầy hại thân lúa với
thiên địch, nhằm xây dựng được quy trình phịng trừ tổng hợp nhóm rầy hại
thân lúa.
4. Phạm vi nghiên cứu.
* Phạm vi về không gian: Tại Hải Hậu - Nam Định và Trung tâm đấu
tranh sinh học - Viện bảo vệ thực vật
* Phạm vi về thời gian: Từ 22/2/2011 đến 22/5/2011.
.

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
Rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål) đã được ghi nhận tại hầu hết các
nước có trồng lúa như Ấn Độ, Sri Lanka, Cam Phu Chia, Thái Lan, Trung
Quốc, Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippin, các
quốc đảo vùng Thái Bình Dương và Việt Nam. Trước năm 1960 rầy nâu chỉ
là đối tượng dịch hại thứ yếu, trong thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20 khi cuộc
“cách mạng xanh” diễn ra thì rầy nâu đã trở thành đối tượng sâu hại quan
trọng bậc nhất ở hầu hết các nước trồng lúa trên thế giới.
Ở Việt Nam, rầy nâu đã được ghi nhận như một loài sâu hại lúa quan

trọng từ những năm 1931-1932 (Chiu, 1979). Nhưng cũng chỉ trong khoảng
30 năm trở lại đây chúng mới trở thành đối tượng dịch hại chủ yếu và thường
xuyên ở nhiều vùng. Theo tài liệu đã ghi nhận được ở phía Bắc thì năm 1969,
rầy nâu đã phá hại mạnh ở Thái bình và một số tỉnh Trung bộ. Những năm
sau đó (1971-1974) rầy nâu đã phát triển ở nhiều vùng thuộc duyên hải Trung
bộ và đồng bằng Bắc bộ. Diện tích bị rầy nâu gây hại năm 1974 lên tới 97.860
ha. Trong những năm 1976-1978, các đợt dịch rầy nâu đã liên tiếp xẩy ra ở
các tỉnh Bắc bộ và ven biển miền Trung. Trong hai năm 1977-1978 rầy nâu
đã phá hại trên diện tích khoảng một triệu ha ở các tỉnh phía Bắc, làm giảm
năng suất 30-50%, nhiều nơi bị mất trắng, thiệt hại lên tới khoảng một triệu
tấn thóc. Tiếp theo sau sự phá hại của rầy nâu, bệnh lúa lùn xoắn lá do rầy nâu
truyền đã xuất hiện ở nhiều vùng, từ đồng bằng Bắc bộ đến ven biển Trung
bộ. Diện tích bị hại chỉ tính riêng ở đồng bằng sông Cửu Long đã lên tới
40.000 ha.
Từ năm 2006 đến nay (2010) rầy nâu đã trở thành dịch hại quan trọng
nhất ở các vùng trồng lúa trong cả nước, nhất là các tỉnh đồng bằng Sông
Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, bởi chúng xuất hiện ở mật độ cao có

4


mức gây hại lớn và là véc tơ của 2 loại bệnh vi rút hại lúa nguy hiểm và bệnh
vàng lùn và lùn xoắn lá. Vụ mùa năm 2009, rầy và bệnh “lùn lụi lúa” đã gây
hại trên 42.000 ha lúa của 18 tỉnh ở phía Bắc Việt Nam (Ngơ Vĩnh Viễn,
2007), rầy đã làm cho nhiều hộ gia đình thiếu đói, Nhà nước đã phải hỗ trợ
đói cho dân chỉ vì rầy và các bệnh do rầy là véc tơ truyền bệnh.
Có thể nói rầy nâu hại lúa đã trở thành vấn nạn của sản xuất lúa của cả nước,
chúng khơng chỉ làm tăng chi phí sản xuất, gây ô nhiễm môi trường mà chúng
đã gây ảnh hưởng đến an ninh lương thực của nhiều hộ gia đình. Chính vì
những lý do nêu trên, đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái

của rầy nâu và điều tra khả năng khống chế rầy của thiên địch trên đồng
ruộng vụ xuân năm 2011 Tại Hải Hậu - Nam Định” nhằm góp phần xác
định một số các đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy nâu và biện pháp phịng
chống chúng phục vụ cho cơng tác nghiên cứu, giảng dạy và thực tiễn sản
xuất hiện nay là hết sức cần thiết
1.2. Một số kết quả nghiên cứu về rầy nâu Nilaparvata lugens Stal ở nước
ngồi
1.2.1. Vị trí phân loại, triệu chứng gây hại, ký chủ và phân bố của rầy
nâu Nilaparvata lugens Stal
Rầy nâu được coi là một trong những đối tượng nguy hiểm gây hại trên
lúa có tên khoa học là Nilaparvata lugens Stal, thuộc giống Nilaparvata, họ
rầy Delphacidae, bộ nhỏ Fulgoromorpha, bộ phụ Auchenorrhyncha, bộ cánh
đều Homoptera.
Nilaparvata lugens được đặt tên đầu tiên vào năm 1854 là Delphax
lugens Stål. Sau đó được đổi tên thành Nilaparvata lugens bởi Muir và
Giffard vào năm 1924. Tại Sri Lanka, Nilaparvata lugens được biết đầu tiên
với tên Nilaparvata greeni Distant (Fernando và ctv., 1979). Tại Đài Loan, rầy
nâu được biết đến với cái tên đầu tiên là Liburnia oryzae (Fukuda, 1934) , sau

5


đó là Nilaparvata oryzae Matsumra (Anonymous, 1944; Wang, 1957) và trở
thành Nilaparvata lugens Stål vào các năm sau đó (Lin, 1970; Tao 1966;
Chiu, 1979).
Phân bố của rầy nâu rộng khắp các nước trồng lúa ở Châu Á, Australia và một
số đảo ở Thái Bình Dương. Trên thế giới phạm vi phân bố của rầy nâu rất
rộng. Theo Mochida (1970), rầy nâu phân bố ở hầu hết các nước trồng lúa
nước ở Châu Á như Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia, Lào, Bangladesh,
Indonesia, Srilanca, Philippines, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,

Hàn Q́c, Việt Nam… Lúa nước là ký chủ chính của rầy nâu do đó thời gian
khơng trồng lúa hoặc để ruộng nghỉ khơng có lúa chét có thể làm giảm số
lượng rầy cho vụ tiếp theo. Cây dại thuộc họ hồ thảo và lúa chét là ký chủ
phụ thích hợp cho rầy sinh sống và đẻ trứng. Thí nghiệm của Viện Nghiên
Cứu Lúa Quốc Tế (IRRI, 1979) cho biết: cỏ dại ở ruộng lúa có thể góp phần
làm tăng số lượng rầy khi lúa gần chín, là do đã tạo được mơi trường có thảm
cây rậm rạp. Tuy nhiên, có một số tác giả khác cho rằng, các ký chủ khác
ngoài cây lúa chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của rầy nâu (Hinekly, 1963).
1.2.2. Đặc điểm sinh thái của rầy nâu Nilaparvata lugens Stal
1.2.2.1. Những nghiên cứu về về rầy nâu Nilaparvata lugens Stal ở nước
ngoài.
Rầy non và rầy trưởng thành cánh ngắn di chuyển theo cách bò và
nhảy. Rầy trưởng thành cánh dài thì có thể bị nhảy và bay. Rầy bay sau khi
vũ hóa 2-5 ngày với rầy cái và 2-4 ngày với rầy đực (Padgham, 1983). Rầy
trưởng thành cánh dài thường bay khỏi ruộng lúa vào lúc rạng đơng và hồng
hơn (Ohkubo và Kisimoto, 1971). Chiều cao bay của rầy cao nhất là 1m, ít
hơn ở độ cao 4m và rất ít ở độ cao 8m (Dyck và Thomas, 1979). Hiện tượng
rầy nâu từ ruộng này sang ruộng khác thường xảy ra vào giai đoạn cuối vụ,
khi lúa bị “cháy rầy” (Heinrichs, 1979; Macquyllan, 1975). Rầy nâu có thể di
cư với khoảng cách hàng nghìn km, hiện tượng di cư của rầy qua biển Đông
6


từ Việt Nam, Trung Quốc tới Nhật Bản và Hàn Quốc (Kisimoto, 1977; Song
và ctv, 2008). Rầy nâu trưởng thành có hai dạng cánh ngắn và cánh dài. Khi
mật độ quần thể tăng lên thì tỷ lệ cánh dài cũng tăng. Số lượng và chất lượng
thức ăn có ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ cánh ngắn và cánh dài, trưởng thành
cánh ngắn có thời gian phát dục ngắn hơn trưởng thành cánh dài kể cả đực và
cái, (Kisimoto, 1956). Sự sinh trưởng và phát triển của rầy nâu có mối quan
hệ mật thiết với điều kiện nhiệt độ và ẩm độ. Nếu nhiệt độ thay đổi nhanh

chóng, sự phát triển, sự phục hồi quần thể và sự sống sót của rầy nâu cũng sẽ
bị ảnh hưởng mạnh mẽ và cũng sẽ ảnh hưởng tới phân bố nhập cư và di cư
của rầy nâu (Bae, 1995).
Theo các tác giả thì rầy nâu có thể có từ 6-7 lứa (Wang, 1977), 10 lứa
(Ho và Liu, 1969), 11 lứa (Chiu, 1970) hoặc 8-11 lứa trong 1 năm (Yen và
Chen, 1977). Trong 1 năm có 2 đỉnh cao tương đương với vụ lúa chính trong
năm. Ở Bắc bán cầu, hầu hết các theo dõi đã cho thấy đỉnh cao nhất của rầy
nâu vào nửa cuối năm, trong lứa thứ hai (Choi, 1975; Karim, 1977). Tuy
nhiên một số trường hợp thấy đỉnh cao nhất lại nằm vào nửa đầu năm hoặc
trong vụ lúa thứ nhất (Alam, 1971).
Sự phát triển của trứng rầy nâu: Sự thay đổi điều kiện thời tiết không
những ảnh hưởng tới sự phát triển của sâu non và trưởng thành nó cịn có
quan hệ mật thiết tới sự phát triển của trứng. Trứng sẽ không phát triển trong
điều kiện nhiệt độ dưới 10oC (Hirano, 1942; Kisimoto, 1977), 10,5oC
(Kuwahara và ctv, 1956) và 10,8 oC (Suenga, 1963).
Sự phát dục của trứng ngừng khi nhiệt độ xuống thấp khoảng
10-10,8ºC. Quá trình hình thành trứng ngừng lại khi nhiệt độ xuống thấp dưới
17ºC hoặc 18ºC (Mochida và Okada, 1979). Nhiệt độ thấp hơn 20oC hoặc cao
hơn 30oC đều làm cho tỷ lệ nở của trứng giảm (Visarto, 2005).

7


Theo Otake (1978), thời gian trứng của rầy nâu khoảng từ 7-13 ngày ở
điều kiện 25oC và từ 7-13,7 ngày ở điều kiện nhiệt độ 30 oC. Thời gian dài
nhất của trứng là 26,7 ngày ở điều kiện 15oC và ngắn nhất là 12,6 ngày ở điều
kiện nhiệt độ 28oC (Visarto, 2005). Các tác giả như Suenaga (1963) và
Mochida (1964), chứng minh rằng tỷ lệ trứng nở cao nhất ở điều kiện nhiệt độ
25oC (khoảng 96%) và nhiệt độ cao hơn hoặc thấp hơn 25oC tỷ lệ trứng nở
đều giảm. Trong điều kiện phịng thí nghiệm, điều kiện độ ẩm từ 70-80% và

ánh sáng 16 giờ sáng 8 giờ tối, trứng không phát triển khi nhiệt độ thấp hơn
15oC (Visarto, 2005).
Sự phát triển và một số đặc điểm của rầy non: Tỷ lệ sống của rầy non
đạt từ 96-98% cao nhất ở nhiệt độ ổn định ở 25ºC, ở điều kiện nhiệt độ ổn
định 27-28ºC, thời gian phát dục ngắn nhất là 12 ngày và tổng thời gian phát
dục trứng và rầy non ngắn nhất là 20 ngày, rầy non tuổi 4 và 5 hoạt động bình
thường trong khoảng nhiệt độ 12-31ºC (Mochida, 1964). Thời gian phát dục
của rầy non trong điều kiện 25oC là 13,2 ngày (Suenage, 1963), 13,91 ngày
(Lin, 1970), 13,6 ngày (Bae và ctv, 1987) và 16,28 ngày (Bae, 1995) [31].
Khi nuôi ở điều kiện nhiệt độ 30oC thì thời gian phát dục của rầy non là 13,1
ngày (Suenage, 1963), 14,0 ngày (Lin, 1970) và 12,7 ngày (Bae và ctv,
1987) . Theo Phạm Hồng Hiển (2009) nhiệt độ cao từ 25-30oC, trứng và sâu
non của rầy nâu hoàn thành sớm hơn ở nhiệt độ thấp 10oC, và các tác giả cũng
cho thấy rằng tỷ lệ sống sót của rầy non giảm khi ở nhiệt độ lên quá cao trên
30 oC. Giới hạn dưới cho sự phát triển của rầy non tuổi 1 đến tuổi 3 là 12.2 oC
và cho tuổi 4, tuổi 5 là 11,3oC.
Sự phát triển và một số đặc điểm của trưởng thành rầy nâu: Rầy nâu có
2 dạng cánh: một dạng cánh dài và một dạng cánh ngắn. Khi rầy nâu được
nuôi ở các kiện khác nhau như nhiệt độ, ánh sáng, mật độ, thức ăn ảnh hưởng
lớn đến sự hình thành dạng cánh. Những con trưởng thành cái cánh dài thu
vào năm 1992 từ Nhật Bản và những khu vực cận nhiệt đới như ở phía Bắc
8


Việt Nam thời gian sống kéo dài hơn khi chúng được thu ở khu vực nhiệt đới
như Indonesia. Quần thể rầy nâu thu vào năm 1993, 1994 ở Nhật Bản, miền
Trung và miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam có thời gian trước đẻ
trứng cũng dài hơn ở Malaysia (Visator, 2005).
Trưởng thành thường vũ hoá vào buổi sáng, những hoạt động của
chúng bắt đầu sau khi cánh hình thành (Kisimoto, 1969). Những con cái cánh

ngắn bắt đầu giao phối với con đực sau khi vũ hoá từ 2-4 ngày, và 3-7 ngày
đối với những con cái cánh dài ở điều kiện nhiệt độ 25 oC, trong khi đó cả 2
dạng cánh dài và cánh ngắn của con đực trưởng thành có thể giao phối ngay
sau khi vũ hố (Kisimoto, 1965). Tuy nhiên theo Otake (1978), sau khi vũ hóa
24 giờ, rầy trưởng thành bắt đầu giao phối, hoạt động tăng dần lên đến ngày
thứ 5, sau đó giảm đi. Một cá thể đực có thể giao phối với 9 cá thể cái trong
vòng 24 giờ, trong thời gian sống con cái có thể giao phối 2 lần hoặc nhiều
hơn (Mochida and Suryana, 1975). Số trứng do một con cái đẻ thay đổi tùy
theo từng cá thể, liên quan chặt chẽ với thời gian sống và số ngày đẻ, con cái
đẻ nhiều nhất tới 1.474 trứng (Suenaga, 1963). Trong điều kiện nhiệt độ bình
thường, trung bình một cá thể cái đẻ từ 108-599 trứng (Mochida, 1964).
Trong thực tế con cái cánh ngắn đẻ nhiều trứng hơn con cái cánh dài. Một
trưởng thành rầy nâu cái cánh dài đẻ khoảng 250 trứng (Mochida, 1970), 550
trứng (Kisimoto, 1965) và một trưởng thành cái cánh ngắn đẻ khoảng 300
trứng (Mochida, 1970), 600 trứng (Kisimoto, 1965) trong suốt thời gian sống
của chúng.
Đối với trưởng thành cánh dài, con đực hoạt động bình thường trong
phạm vi nhiệt độ từ 9-31ºC, tuổi thọ của rầy trưởng thành giảm khi nhiệt độ
tăng trong phạm vi từ 20-33ºC (Mochida, 1964). Thời kỳ tiền đẻ trứng và đẻ
trứng của trưởng thành có quan hệ với nhiệt độ, nhiệt độ thấp sẽ kéo dài thời
gian đẻ trứng và trước đẻ. Rầy nâu đẻ nhiều nhất và điều kiện thuận lợi nhất
cho sự phát triển của trưởng thành là 27,5oC (Chen và ctv, 1982).
9


1.2.2.1. Nghiên cứu về sinh thái của rầy nâu Nilaparvata lugens Stal
Nhiệt độ: Nhiệt độ là một trong những yếu tố khí hậu có ảnh hưởng lớn
nhất tới sự phát dục, biến động quần thể và phát dịch của rầy nâu. Nhiệt độ
trong phạm vi 25-30ºC là thích hợp nhất đối với sự phát dục của trứng và rầy
non, nếu nhiệt độ cao hơn 33-35ºC thì khơng thích hợp với rầy (Bae and

Pathak, 1970). Theo Ho and Liu (1969) cho rằng nhiệt độ thấp trong khoảng
từ 15-18ºC là khơng thích hợp cho sự phát triển của rầy. Các tác giả như
Fukuda (1934), Alam (1971) cho hay nhiệt độ cao góp phần tăng số lượng
rầy.
Ẩm độ và lượng mưa: Về vai trò của ẩm độ với phát sinh, phát triển của
rầy nâu, nhìn chung các tác giả đều cho rằng mơi trường ẩm có liên quan chặt
với rầy nâu, điều kiện này góp phần làm tăng số lượng quần thể của chúng.
Theo Kulshresthan (1974) độ ẩm trong phạm vi từ 70-80% là thích hợp cho
sự phát dục của rầy nâu. Một số tác giả lại nhận thấy các trận dịch rầy xảy ra
chủ yếu trong mùa mưa (Grist và Lever, 1969). Tác giả Fukuda (1934) và
Pathak (1968) có nhận xét các trận dịch rầy nâu xảy ra trong điều kiện khô
hạn. Nhiều tác giả cho rằng tưới nước và giữ nước trong ruộng đã dẫn đến
làm tăng mật độ rầy nâu và từ đó làm tăng thiệt hại cho lúa (Hinckley, 1963;
Mochida và Suryana, 1975).
Cây chủ: Lúa là cây chủ thích hợp nhất với rầy nâu (Nasu, 1964;
Kisimoto, 1977; Okada, 1976). Trên các ký chủ phụ như cỏ, rầy nâu có thể
sống nhưng phát triển không thuận lợi (Mochida và ctv., 1977).
Giống lúa: Quan niệm chung đều cho rằng việc gieo cấy các giống lúa
mới đã làm tác hại của rầy nâu tăng lên (Smith, 1972; Nickel,1973). Tác giả
nhận xét các trận dịch rầy nâu gần đây liên quan đến nhập nội những giống
lúa có năng suất cao (Oka, 1976). Mochida và ctv, (1977) cho biết ở
Indonesia sự phá hại của rầy nâu có tương quan chặt chẽ với diện tích cấy

10


giống lúa mới, nhưng một số tác giả khác lại phản đối quan niệm này và cho
rằng nhìn chung các giống lúa mới không mẫn cảm với rầy nâu hơn các giống
lúa cao cây cổ truyền, mà chính là các biện pháp kỹ thuật được áp dụng với
giống lúa mới như cấy dày, tưới nước, bón nhiều phân... mới là nguyên nhân

gây lên bùng phát rầy nâu (Shastry, 1971; Freeman, 1976).
Mùa vụ: Nhiều tác giả cho rằng việc tăng vụ lúa trong năm đã dẫn đến
làm tăng sự phá hại của rầy nâu, việc gieo cấy hai hoặc nhiều vụ lúa liên tiếp
trong một năm với thời gian không ổn định đã góp phần gây ra các trận dịch
rầy nâu (Nickel, 1973). Trong một năm, thời gian có cây chủ tồn tại trên đồng
ruộng càng dài thì càng có điều kiện cho quần thể rầy nâu đạt đến mật độ cao,
trong điều kiện đó rầy nâu phát tán từ ruộng này sang ruộng khác và lan rộng
từ ruộng cấy trước sang ruộng lúa cấy sau.
Mật độ gieo cấy: Cấy dầy và tăng mật độ gieo sạ cũng làm tăng tác hại
của rầy nâu nguyên nhân là do khi tăng mật độ cấy hoặc sạ đã tạo nên điều
kiện tiểu khí hậu trong ruộng lúa thích hợp với rầy nâu (Fernando, 1975;
Kisimoto, 1965).
Phân bón: Các tác giả đều thống nhất bón nhiều phân đặc biệt là phân
đạm sẽ làm tăng sự gây hại của sâu hại trong đó có rầy nâu (Smith, 1972;
Nickel, 1973; Pathak, 1971). Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy bón nhiều
phân đạm sẽ làm mật độ rầy nâu tăng lên, bởi lẽ khi bón nhiều phân đạm đã
làm cây lúa chống chịu với rầy nâu kém hơn và làm tăng sức sống, cũng như
khả năng đẻ trứng của rầy nâu (Lu và ctv, 2007; Cheng, 1971).
Thiên địch: Quan hệ tương tác giữa rầy nâu và kẻ thù tự nhiên (bắt mồi,
ký sinh...) dường như là nhân tố chính điều khiển quần thể rầy nâu, nhất là ở
các nước Nhiệt đới (Visarto, 2005). Khi nghiên cứu về vai trò này Pathak
(1968) cho rằng quần thể rầy nâu biến đổi phụ thuộc vào thiên địch cũng như
phụ thuộc vào các nhân tố khác của môi trường. Tuy nhiên, Otake (1978) lại

11


cho rằng thiên địch khơng có vai trị đáng kể trong phòng trừ rầy nâu, đặc biệt
trong các đợt dịch. Còn Kenmore và ctv (1984) , Preap và ctv (2001) cho rằng
nhóm bắt mồi đóng góp vai trị rất quan trọng trong việc duy trì quần thể rầy

nâu ở mức thấp. Các loài nhện săn mồi như loài Lycosidae và Tetragnathidae,
Linyphiidae là nhóm săn mồi quan trọng của rầy nâu hại lúa (Preap và ctv,
2001). Về nhóm ký sinh trên rầy hại lúa phân ra thành nhóm ký sinh trứng và
rầy non, trưởng thành thuộc bộ Hymenoptera, Strepsiptera và Diptera
(Henrichs và Mochida, 1984) tỷ lệ ký sinh của các loài thuộc 3 bộ trên trứng
rầy từ 0-50% và 1-65% ấu trùng. Bệnh ký sinh trên rầy được nhiều tác giả
nghiên cứu, có nhóm Zycomycetes và Hyphomecetes là hai nhóm quan trọng
tấn cơng rầy, các lồi nấm thuộc Hyphomecetes gồm có Beauveria bassiana,
Hisutella sp. và Metarhizium, ngoài ra trong 150 loài nấm thuộc nhóm
Zycomycetes có 6 lồi là: Conidiobolus coronatus, Entomophaga sp. và
apiculta, Entomophthora plachoniana, Erynia delphacis, Erinia radicans và
Neozygites fumora gây bệnh trên rầy có vai trị điều khiển quần thể rầy hại cây
trồng.
1.2.2.3. Những kết quả nghiên cứu về phòng chống rầy nâu hại lúa.
Theo tổng kết của IRRI (1979) hai biện pháp phòng trừ rầy nâu áp
dụng trong thực tế sản xuất đã được đánh giá cao hơn cả là gieo cấy các giống
lúa kháng rầy nâu và sử dụng một số thuốc hóa học chon lọc và đúng phương
pháp. Tuy nhiên, nhiều tác giả nhận xét rằng nếu chỉ dùng đơn độc hai biện
pháp trên cũng không đầy đủ (Oka, 1978). Gieo cấy rộng rãi các giống kháng
rầy sau một thời gian sẽ xuất hiện những biotype rầy mới có khả năng phá hại
các giống đó (IRRI, 1977).
Dùng thuốc hóa học một cách khơng đúng sẽ giết chết các thiên địch
của rầy nâu (Kulshresthan, 1974; Fernando và ctv, 1975) và gây ra hiện tượng
kháng thuốc (Fernando và ctv, 1975; Heindrish, 1979; Phạm Hờng Hiển,
2009). Vì vậy khuynh hướng chung của các nước hiện nay là áp dụng các
12


chương trình phịng trừ tổng hợp dựa trên các biện pháp kỹ thuật trồng trọt,
phát huy tác dụng của các thiên địch, đặc biệt chú ý chọn tạo, sử dụng các

giống kháng rầy và sử dụng thuốc hoá học chọn lọc khi cần thiết.
Phòng trừ rầy nâu bằng biện pháp hóa học: Nhìn chung các nghiên cứu
về hiệu lực phịng trừ rầy nâu của thuốc, thời điểm sử dụng, đánh giá tác động
của thuốc tới quần thể thiên địch, tính chống thuốc và khả năng tái phát quần
thể rầy nâu… đã được nghiên cứu. Nhóm thuốc Carbamate có hiệu lực trừ rầy
khá và được sử dụng khá rộng rãi vào những năm 1970 (Heinrich, 1979),
hoặc nhóm Bufloferin có tác dụng ức chế quá trình hình thành Kitin của rầy
nâu các dạng thuốc (thuốc viên, thuốc dạng sữa…) đã được nghiên cứu cách
sử dụng kết quả cho thấy thuốc Mipcin dạng hạt có khả năng trừ rầy lứa 2 và
3 đạt hiệu quả cao, tuy nhiên nếu rắc vào giai đoạn rầy đang đẻ trứng hoặc
chưa nở hết mật độ rầy sẽ tăng cao và gây cháy rầy (Nagata và ctv, 1975).
Một số phương pháp dùng thuốc khác như xử lý hạt giống cũng đã được
nghiên cứu (Aquino và Pathak, 1976). Thời gian sử lý thuốc vào giai đoạn rầy
non đạt đỉnh cao sẽ cho hiệu quả tốt, phun thuốc vào lúc rầy đang nở hoặc khi
đang vũ hóa đều cho hiệu quả kém (IRRI, 1979). Các loại thuốc hầu hết
không có tác dụng với trứng rầy nâu và độ bền kém do vậy nếu thời gian sử lý
khơng chính xác sẽ khơng đạt hiệu quả như mong muốn (Heinrichs, 1979).
Tính kháng thuốc cũng được một số tác giả tiến hành nghiên cứu kết quả cho
thấy hiện tượng kháng thuốc xảy ra với nhóm thuốc lân hữu cơ và Carbamate
(Heindrichs, 1979). Mặt khác hiện tượng tái phát của rầy nâu đã được đề cập
trong các báo cáo hàng năm của IRRI (IRRI, 1977). Cùng một hoạt chất
nhưng các dạng thuốc khác nhau cũng gây sự tái phát khác nhau, thuốc
Carbofuran khi phun lên cây gây ra hiện tượng tái phát mạnh hơn dạng hạt
bón vào đất (Heinrichs, 1979).
Tốc độ phát triển của quần thể rầy nâu gắn liền với sự sử dụng thuốc
hoá học cũng như cách sử dụng thuốc hoá học (Riley, 1988). Sự phục hồi
13


nhanh chóng của quần thể dịch hại thường do bởi sự lạm dụng thuốc trừ sâu,

dẫn đến giết hại các loài thiên địch trên cánh đồng, làm mất cân bằng sinh thái
(Heong và ctv, 1993). Có nhiều trường hợp, khi sử dụng thuốc trừ sâu là
nguyên nhân dẫn đến phục hồi quần thể dịch hại bao gồm có cả rầy nâu
(Chilliah và Heinrich, 1984; Gao và ctv, 1988; Phạm Hồng Hiển, 2009). Sự
phục hồi quần thể rầy nâu sau khi sử dụng thuốc hoá học là một hiện tượng
phổ biến trên lúa tại những nước phía Nam và Đơng Nam Châu Á. Sự phục
hồi quần thể rầy nâu phụ thuộc vào phương pháp và thời gian xử lý thuốc trên
chân đất trũng. Với những phương pháp xử lý thuốc carbofuran khác nhau
như bón vào gốc, rắc lên bề mặt đất và phun lên lá, kết quả cho thấy phun lên
lá là phương pháp có tác động lớn nhất đến sự phục hồi quần thể rầy nâu sau
khi phun. Xu hướng của sự phục hồi quần thể phụ thuộc nhiều vào số lần sử
dụng thuốc hoá học (Heinrichs và ctv, 1982).
Song và ctv (1984) cho biết trong số những loại thuốc sử dụng trừ rầy
nâu, chỉ có decamethrin là nguyên nhân dẫn đến sự tái phát quần thể rầy.
Decamethrin đã kích thích sự mắn đẻ của rầy nâu và là nguyên nhân dẫn đến
gia tăng quần thể. Hơn nữa, tỷ lệ thiên địch đã giảm mạnh sau khi áp dụng
decamethrin cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến phụ hồi
quần thể rầy nâu trên đồng ruộng nhanh chóng.
Chelliah và Heinrichs, (1984) đã xác định sự phục hồi quần thể của rầy
nâu trên ruộng lúa ảnh hưởng bởi việc sử dụng các thuốc trừ sâu như,
decamethrin, methyl parathion, và diazinon. Áp dụng methyl parathion và
decamethrin đã giúp cho lúa phát triển tốt hơn, đó chính là ngun nhân làm
tăng sự phát triển của quần thể rầy nâu. Hơn nữa, ở những công thức áp dụng
thuốc đã làm rút ngắn thời gian phát dục của rầy non, thời gian phát dục của
trưởng thành dài hơn, kết quả là vòng đời rầy nâu ngắn lại, tuy nhiên việc làm
này đã dấn đến thời gian đẻ trứng của trưởng thành dài hơn so với không xử

14



lý thuốc, đây là nguyên nhân dẫn đến sự phục hồi quần thể rầy nhanh và cao
hơn ở những công thức xử lý thuốc.
Sự bùng phát rầy nâu không theo chu kỳ và xảy ra trên diện tích rộng.
Sau những năm 1960, rầy nâu bùng phát vào những năm 1975, 1990, 1997 và
2005 tại hầu hết các nước trồng lúa Châu Á (Song và ctv, 2008). Để dự báo
trước sự bùng phát của rầy nâu thực sự rất khó khăn, và người nơng dân khó
có thể ngăn chặn kịp thời sự bùng phát của rầy nâu (Phạm Hồng Hiển, 2009).
Rất nhiều loại thuốc hố học có độ độc cao với thiên địch, đó chính là
ngun nhân gây nên sự phục hồi quần thể rầy nâu khi sử dụng thuốc hóa học
quá liều lượng (Heinrich và Mochida, 1984; Kenmore và ctv, 1984; Gallagher
và ctv, 1994). Hầu hết các tác giả đều khảng định do sử dụng thuốc hố học
khơng đúng đã dẫn tới sự gia tăng quần thể và làm bùng phát rầy nâu ở hầu
hết các nước Đông Nam Châu Á (Kenmore và ctv, 1985). Thuốc trừ sâu
không giết được trứng rầy nâu, nhưng lại giết hại thiên địch (Reissig và ctv,
1982; Phạm Hờng Hiển, 2009), thêm vào đó rầy nâu phục hồi quần thể nhanh
hơn quần thể thiên địch (Settle và ctv, 1996; Preap và ctv, 2001) đó chính là
lý do bùng phát rầy nâu nhanh chóng sau khi áp dụng thuốc hoá học một cách
bừa bãi.
Sự phát triển của biện pháp hoá học trong giai đoạn đầu đã đem lại lợi
ích to lớn hầu như với tất cả các loại dịch hại trên tất cả các loại cây trồng, vì
rằng biện pháp này sử dụng đơn giản, giá thành hạ, hiệu lực cao, nhanh chóng
dậpt tắt các trận dịch trên đồng ruộng. Tuy nhiên khi sử dụng thuốc trừ sâu
hóa học người ta nhận thấy nhiều loại thuốc kém hiệu quả trong một thời gian
sử dụng, nguy hại hơn là trong một vài tình huống thuốc đã làm cho dịch hại
trở nên nghiêm trọng hơn. Thuốc trừ sâu có thể cùng lúc làm gia tăng quần
thể dịch hại đang cần ngăn chặn và cả các quần thể dịch hại khác trong hệ
thống cây trồng (Hardin và ctv, 1995). Những nghiên cứu của Chiu, (1979) đã
cho thấy sự xuất hiện của những lồi nhện ăn thịt tại các cơng thức đối chứng
15



khơng sử dụng thuốc hố học cao hơn các cơng thức xử lý thuốc, điều đó cho
thấy rằng, việc thường xuyên sử dụng thuốc sẽ làm giảm mật độ thiên địch
của các loài dịch hại trên lúa.
Mặt khác, rầy nâu trở thành một lồi sâu hại khó phịng trừ vì chúng có
thể thay đổi bitotyp, do đó chúng có thể kháng thuốc hoá học. Rầy nâu đã
được ghi nhận phát triển tính kháng với các thuốc hố học khác nhau (ví dụ:
BPMC, Isoprocarb) (Heinrichs, 1979). Heinrichs và ctv, (1982). Theo họ, rầy
nâu phát triển tính kháng thuốc cao gấp 1183 lần với thuốc nhóm malathion ở
thế hệ thứ 9 và 41 lần với thuốc isoprocab ở thế hệ thứ 16. Theo tởng kết của
Phạm Hồng Hiển (2009) trong cơng trình nghiên cứu khoa học của mình đã
ghi nhận, rầy nâu kháng với 18 loại thuốc hoá học khác nhau. Để phòng trừ
rầy nâu trên các ruộng lúa tại Hàn Quốc, tác giả Bae và Huyn (1987) đã sử
dụng 3 loại thuốc là carbofuran 3G, disyston 3G, và omethoate 50%EC, kết
quả cho thấy cả ba loại thuốc chỉ có tác dụng với rầy trong vịng 10 ngày và
sau đó những nơi sử dụng thuốc có mật độ rầy cao hơn so với đối chứng,
ngoại trừ cơng thức bón carbofuran vào khu vực rễ lúa. Cơng thức bón
carbofuran vào rễ đã kéo dài hiệu quả phòng trừ rầy của thuốc tới 45 ngày
hoặc dài hơn. Điều kiện sản xuất lúa của Hàn Quốc, người nông dân thường
sử dụng buprofezin vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 sau khi dùng
carbofuran bón vào rễ vào cuối tháng 5 đã rất hiệu quả trong việc phịng trừ
những lồi sâu hại ở giai đoạn đầu vụ lúa và ngặn chặn sự gây hại của rầy
nhập cư vào ruộng lúa từ các nước như Trung Quốc và Việt Nam.
Biện pháp canh tác phòng trừ rầy nâu: Các biện pháp canh tác được đề
cập trong phòng chống rầy nâu chủ yếu bao gồm: luân canh, vệ sinh đồng
ruộng, mật độ gieo cấy, tưới nước, bón phân, thời vụ gieo cấy và sử dụng
giống ngắn ngày. Theo Oka (1978) luân canh lúa với các cây trồng hàng năm
như đậu tương, khoai lang… hoặc nghỉ một thời gian giữa hai vụ lúa sẽ phá
vỡ chu kỳ phát triển của rầy nâu hàng năm làm vệ sinh đồng ruộng, thu sạch
16



cỏ dại, rạ, lúa chét sau vụ thu hoạch được coi là biện pháp hữu hiệu để giảm
nguồn rầy nâu tồn tại và xâm nhập đồng ruộng. Rất nhiều tác giả đã kết luận
rằng, rầy nâu ở các ruộng có tưới nước đầy đủ gây hại lớn hơn ruộng khô
(Fernando, 1977). Cấy dày góp phần làm mật độ rầy cao hơn cấy thưa
(Kisimoto, 1965). Mặt khác bón nhiều phân đạm sẽ làm gia tăng sự gây hại
của rầy (Lu và ctv, 2007).
Biện pháp sinh học trong phòng trừ rầy nâu: Tăng cường vai trò và bảo
vệ thiên địch của rầy nâu trên đồng ruộng bằng cách sử dụng các loại thuốc
chọn lọc ít độc với thiên địch (Chiu, 1979; Heong và ctv, 1993). Việc sử dụng
các chế phẩm sinh học phòng trừ rầy nâu đã được nghiên cứu và sử dụng tuy
nhiên hiệu lực của các sản phẩm này không cao (Pathak, 1971).
Biện pháp sử dụng giống chống chịu trong phòng trừ rầy nâu: Visator
(2005), đã đánh giá biện pháp giống trong phịng chống sâu bệnh trong đó có
rầy nâu như sau “Giống chống chịu là hòn đá tảng để phịng trừ sâu bệnh có
hiệu quả. Kết hợp giống chống chịu với phòng trừ sinh học và kỹ thuật canh
tác là chiến lược phòng trừ sâu bệnh lý tưởng đối với nơng dân ít vốn”. Chính
vai trị quan trọng của giống trong phòng trừ sâu bệnh đặc biệt là rầy nâu do
vậy có rất nhiều nghiên cứu về giống kháng rầy nâu đã được tiến hành gồm
những vấn đề: đánh giá sức chống chịu của giống với rầy nâu, nghiên cứu cơ
chế chống chịu của giống với rầy nâu, nghiên cứu về di truyền học của tính
chống chịu, lai tạo giống chống chịu rầy nâu hoặc chuyển gen chống chịu rầy
nâu vào các giống lúa có các đặc điểm nơng học tốt, nghiên cứu đánh giá các
biotype rầy nâu tại các vùng trồng lúa. Tại IRRI đã có hơn 26.000 giống lúa
trong ngân hàng gen và đã tiến hành đáng giá xác định được 286 kháng
biotype 1 và 110 giống kháng biotyope 2.

17



1.3. Một số kết quả nghiên cứu về rầy nâu Nilaparvata lugens Stal ở trong
nước
1.3.1 Phân bố của rầy nâu Nilaparvata lugens Stal
Rầy nâu xuất hiện và gây hại ở hầu hết các tỉnh trồng lúa của cả nước.
Từ lâu rây nâu được coi là một trong những loài sâu hại quan trọng ở hầu hết
các vùng sản xuất lúa trọng điểm, năm 1958 rầy nâu phát sinh thành dịch phá
hại lúa chiêm từ thời kỳ trỗ - chín ở các tỉnh phía Bắc. Vụ mùa năm 1962 và
1971, rầy nâu đã gây thiệt hại lớn cho lúa ở Nghệ An (N. D. Định, 2009).
Theo báo cáo của Cục Bảo vệ thực vật tử năm 1985-2000, rầy nâu gây hại
mỗi năm khoảng 650.000ha, đặc biệt trong năm 1991, rầy nâu phá hại
1.394.910ha và gây cháy ở hầu hết các vụ trồng lúa của cả nước. Vụ đông
xuân năm 2006 đến năm 2009 rầy nâu bùng phát thành dịch trên diện rộng tại
đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.2. Nghiên cứu về sinh học rầy nâu Nilaparvata lugens Stal
Có rất nhiều các tác giả và tài liệu công bố về đặc điểm sinh học của
rầy nầu. Tuy nhiên người có nhiều cơng trình liên quan hơn cả phải kế đến là
cố PGS.TS. Nguyễn Công Thuật (1978) khi theo dõi đặc điểm sinh học của
rầy nâu Ơng cho biết; tại nhiệt độ ni từ 25-27oC (Long An) thời gian phát
dục của rầy nâu như sau: trứng từ 6-8 ngày, rầy non từ 12-15 ngày, rầy trưởng
thành sống trung bình là 19,2 ngày (cái) và 8 ngày (đực). Rầy non có 5 tuổi,
thời gian các tuổi kéo dài từ 2-6 ngày. Vòng đời của rầy từ trưởng thành lứa
trước đến trưởng thành lứa sau khoảng 26-31 ngày. Tại Hà Nội thời gian phát
triển các pha của rầy nâu nuôi trong điều kiện nhiệt độ từ 24,5-29,3 oC thời
gian trứng là 6,6-7,4 ngày, rầy non 13,4-15,7 ngày, rầy trưởng thành sống
12,2-14,7 ngày.Vòng đời từ 26-31 ngày. Tháng 11, khi nhiệt độ thấp 22,3 oC,
vòng đời rầy từ 35-40 ngày. Trong tháng 2- 3, với nhiệt độ thấp (17-20,2oC)
vòng đời kéo dài tới 50-55 ngày.

18



Theo N. Đ. Khiêm (1995), thời gian phát dục của rầy nâu trong vụ mùa
nhiệt độ từ 25-29oC thì thời gian trứng khoảng 6,5 ngày, rầy non khoảng
13,5-16 ngày, trưởng thành 6-9 ngày, trước đẻ trứng 2,5-3 ngày, vòng đời
26-30 ngày. Số trứng trên mỗi ổ ít nhiều phụ thuộc vào giống lúa làm thức ăn
cho rầy, trên giống nhiễm rầy số trứng/ổ cao gấp 2 lần so với giống kháng
rầy. Bên cạnh đó, khả năng đẻ trứng cịn phụ thuộc vào mùa vụ, trong một
năm thì vụ xuân rầy đẻ trứng nhiều hơn vụ mùa, vụ xuân đẻ 255 trứng nhưng
vụ mùa chỉ đẻ 164 trứng thấp hơn 1,37 lần so với vụ xuân. Tại Tiền Giang,
năm 1977-1978 cho thấy ổ trứng rầy nâu có ít nhất là 1 trứng và nhiều nhất là
43 trứng, thường là 2-5 trứng/ổ (P. V. Lầm, 1992). Trứng có dạng “quả chuối
tiêu” mới đẻ trong suốt, gần nở chuyển màu vàng và có hai điểm mắt đỏ. Đẻ
thành từng ổ từ 5 - 12 trứng nằm sát nhau theo kiểu “úp thìa” đầu nhỏ quay
vào trong đầu to quay ra ngồi biểu bì ngồi của bẹ lá. Mới đẻ nằm chìm
trong mơ biểu bì, sắp nở chồi đầu trứng ra ngồi biểu bì bẹ lá. Trứng được đẻ
ở bẹ lá là chính (lúa non) và ở gân chính của lá lúa (lúa già) (Viện BVTV,
2003).
Trong điều kiện Việt Nam, các kết quả theo dõi về khả năng đẻ trứng
của rầy nâu không giống nhau. Tại phịng thí nghiệm Viện KHKT nơng
nghiệp miền Nam, một trưởng thành của rầy nâu đẻ trung bình 150-400 trứng.
Ni thí nghiệm ở Long An, mỗi trưởng thành cái đẻ 50 – 200 trứng, nhiều
nhất đẻ tới 612 trứng. Trong điều kiện vùng Hà Nội, một trưởng thành cái có
khả năng đẻ 110-324 trứng, nhiều nhất tới 670 trứng (Viện BVTV, 1980).
Trong điều kiện ở nước ta trưởng thành cái của rầy nâu có thời gian đẻ trứng
kéo dài tử 1-27 ngày, thường phổ biến là 6-7 ngày (Viện BVTV, 1980).
Tỷ lệ rầy cánh ngắn và cánh dài phụ thuộc vào nguồn thức ăn và mật
độ trong ruộng lúa. Ở giai đoạn lúa đẻ nhánh và chín chủ yếu rầy cánh dài
xâm nhập vào ruộng lúa (N. Đ. Khiêm, 1995). Thời gian sống của trưởng
thành cũng phụ thuộc vào nhiệt độ. Ở điều kiện nhiệt độ cao thời gian sống

19


của trưởng thành ngắn hơn và ngược lại ở điều kiện nhiệt độ thấp thì thời gian
sống của trưởng thành cũng dài hơn (T. H. Thọ và ctv, 1989).
1.3.3. Nghiên cứu về sinh thái rầy nâu Nilaparvata lugens Stal
Ở Việt Nam, rầy nâu tồn tại quanh năm nhưng sự phát sinh gây hại phụ
thuộc chặt chẽ vào điều kiện thời tiết, tập quán canh tác của từng vùng miền.
Ở các tỉnh phía Bắc thời tiết khí hậu có 4 mùa rõ rệt thì rầy nâu thường phát
sinh từ tháng 1 đến tháng 11 hàng năm và thường có từ 7-8 lứa trong đó gây
hại nặng ở lứa 2, lứa 3 (vụ xuân) và lứa 6, lứa 7 (vụ mùa) (T. H. Thọ và ctv,
1992).
Các lứa rầy ở đồng bằng sông Cửu long từ 10- 13 đợt tuỳ thuộc vào
chân đất có từ 2 hay 3 vụ lúa trong 1 năm. Cao điểm là vào tháng 7-8 (vụ Hè)
và tháng 10-11 (vụ Mùa) tháng 2-3 (vụ Đông Xuân). Vùng Trung du Bắc bộ
mỗi năm có 8-9 đợt rầy, thời kỳ cao điểm rơi vào tháng 4, tháng 5 (vụ Chiêm
Xuân) và tháng 9, 10 (vụ Mùa), rầy nâu từ lứa 1 sang lứa 2 hệ số tích luỹ là
11 lần và từ 1 đến 3 là 136 lần. (N. C. Thuật, 1989).
Rầy trưởng thành và rầy non bám vào bẹ lá phần gốc lá, khi mật độ cao
chúng có thể tập chung lên cả phần lá đòng, phiến lá và cổ bông lúa (N. C.
Thuật và N. V. Hành, 1980). Rầy đẻ thành từng ổ vào mô bẹ lá lúa hoặc vị trí
khác nhau (gân lá chính, phiến lá) tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của cây
lúa và mật độ rầy (N. C. Thuật, 1989). Rầy non chủ yếu bám vào và di chuyển
dưới gốc lúa, mật độ cao có thể di chuyển lên trên phần thân trên hoặc các lá,
bơng. Rầy nâu có đặc điểm phân bố khơng đều trong ruộng lúa theo kiểu co
cụm, các ổ rầy khá riêng biệt.
Rầy trưởng thành có xu hướng vào đèn mạnh vì vậy có thể lợi dụng đặc
tính này trong dự tính dự báo rầy nâu (N. C. Thuật và N. V. Hành, 1980).

20



Diễn biến rầy nâu trên ruộng lúa: Quan sát trên rất nhiều ruộng lúa ở
Long An và vùng ngoài thành Hà Nội (T. H. Thọ và N. C. Thuật, 1989) có thể
nhận thấy q trình phát triển quần thể của chúng trong các thời kỳ
+Rầy trưởng thành du nhập vào ruộng lúa
+Thời kỳ tích lũy quần thể
+Thời kỳ cao điểm, phá hại nặng gây “cháy rầy”
+Thời kỳ phát tán
Nhìn chung trong mỗi vụ lúa thường có 2-3 lứa rầy phát sinh và gây hại
với mật độ lứa sau cao hơn lứa trước. Các đợt dịch rầy thường phát sinh ở các
vùng vào giai đoạn lúa trước hoặc sau trỗ bông (N. C. Thuật và N. V. Hành,
1980) tương ứng ở mỗi vụ lúa đông xuân, hè thu hay vụ mùa thường có một
đỉnh cao quần thể của rầy.
Trên mỗi ruộng gieo giống ngắn ngày có thể có 3 lứa rầy. Trong đó đợt
thứ hai có nhiều khă năng gây hại nhất.Trong thời gian xuất hiện các cao
điểm rầy trưởng thành và rầy non ở các trà lúa nói chung khơng chênh lệch
nhau nhiều (N. M. Chinh, 1992).
Rầy nâu dạng cánh dài du nhập vào ruộng lúa sau cấy 20-25 ngày từ
các ký chủ phụ và các nơi khác nhau. Chúng hoàn thành 3 thế hệ nếu du nhập
sớm, 2 thế hệ nếu du nhập muộn hơn. Sau khi du nhập chúng tích lũy số
lượng qua các lứa với hệ số tích lũy lứa 1-2 khoảng11 lần, lứa 1-3 tới 130 lần
(T. H. Thọ và N. C. Thuật, 1989). Sau khi tích lũy quần thể đến mức tối đa,
mật độ có thể lên tới 700 – 2000 con/khóm. Sau khi cây lúa bị hại nặng (do
cháy rầy) lúa khơng cịn thích hợp với rầy, lúc này rầy nâu phát triển nhiều
dạng cánh dài phát tán tới những trà lúa muộn, những ruộng mạ gieo sớm hay
những ký chủ phụ đảm bảo cho phát triển các thế hệ tiếp theo.
Khi nghiên cứu rầy nâu ở các vùng ngoại thành Hà Nội, Hà Sơn Bình,
Hà Nam Ninh, các tác giả cho biết, hàng năm đợt rầy non xuất hiện trên các
21



trà lúa sớm khoảng cuối tháng 2 đến giữa tháng 3. Kết quả năm 1981-1982
cho thấy từ tháng 1 đến tháng 11 rầy nâu phát sinh thành 9 đợt, 2 đợt rầy có
mật độ cao có khả năng gây hại trong tháng 5 và tháng 10. Tùy theo điều kiện
thời tiết từng năm mà trong năm rầy nâu có thể có từ 9-10 lứa rầy. Mỗi vụ lúa
có 4 lứa rầy, trong đó 3 lứa trên lúa sớm và lúa đại trà, 1 lứa trên lúa muộn
hay mạ sớm (T. H. Thọ và N. C. Thuật, 1989).
Không giống với Đồng Bằng Sơng Cửu Long, miền Bắc có mùa đơng
lạnh và nhiệt độ trung bình 12 tháng, tháng 1,2 chỉ trong khoảng từ 13.5 –
18oC đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của rầy. Nhiệt độ thấp làm tỷ lệ tử
vong của các đợt rầy nâu đầu vụ cao hơn, có thể đến 85% số rầy chết sau các
đợt rét đột ngột tháng 1/1992 nhiệt độ xuống tới 10.5 -12 oC. Nhiệt độ tháng
12, tháng 1,2 cao đã dẫn đến các lứa rầy trong vụ xuân phát triển sớm hơn
những năm mùa đông kết thúc muộn (N. C. Thuật, 1989).
Các trận dịch rầy nâu chủ yếu xảy ra vào mùa mưa hoặc phụ thuộc vào
lượng mưa (N. V. Huỳnh, 1978; Bùi Văn Ngạc và ctv, 1980). Mưa to gió lớn
làm hạn chế rầy nâu phát triển. Theo Đào Thế Tuấn thì sự quá đồng nhất về
mặt di truyền của các giống lúa nguồn gốc từ IRRI trồng trên diện rộng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho dịch rầy nâu xẩy ra. Việc cấy tập trung hay kéo dài
đều ảnh hưởng tới sự phát triển và gây hại của rầy nâu (N. C. Thuật, 1989).
1.3.4. Phòng trừ rầy nâu Nilaparvata lugens Stal
Dự tính dự báo: Thực hiện dự tính dự báo là cơ sở quan trọng trong
cơng tác phịng chống sâu bệnh hại cây trồng. Dự tính dự báo bằng bẫy đèn,
điều tra trực tiếp ngoài đồng ruộng, dự báo sớm sự phát sinh và tỷ lệ rầy
nhiễm bệnh là những nội dung quan trọng của qui trình phịng trừ tổng hợp
rầy nâu và bệnh vi rút hại lúa (Viện BVTV, 2006).
Phòng chống rầy nâu bằng biện pháp sử dụng giống chống chịu: đây
một nội dung cơ bản trong phòng trừ tổng hợp. Sử dụng giống lúa kháng rầy


22


là biện pháp rẻ tiền, hiệu quả dễ thực hiện trên diện rộng để hạn chế tác hại
của rầy nâu. Các giống lúa kháng rầy nâu như Mudgo (gen Bph1), ADS7,
IR36 (gen bph2), CR 203, C 70, C180… làm cho rầy sinh trưởng kém, thời
gian phát dục kéo dài, tỷ lệ tử vong cao. Từ đó dẫn đến sự phát triển quần thể
của rầy nâu kém hơn rất nhiều lần so với khi chúng phát triển trên các giống
nhiễm như giống lúa TN1, IR8, IR22. Giống lúa CR203, C70, C71,.CR 84-1
kháng rầy nâu đã được triển khai rộng trên cả nước. Chính vì vậy các trận
dịch rầy nâu đã được dập tắt, sản lượng lúa tăng, chi phí cho bảo vệ thực vật
giảm đáng kể (Viện BVTV, 2006).
Các giống lúa khác nhau có khả năng phản ứng với rầy nâu cũng khác
nhau. Ở miền Bắc đã xác định được 332 giống và dịng lai có tính kháng rầy
nâu trong số 905 giống và dòng lai được đánh giá (N. V. Đĩnh, 2005; N. Đ.
Khiêm, 1995). Khu vực phía Nam đã xác định được 78 giống và dịng lai có
tính kháng với rầy nâu trong 1134 giống và dòng lai được đánh giá (N. Đ.
Khiêm, 1995). Nhiều giống lúa phản ứng kháng với rầy nâu ở miền Bắc
nhưng lại nhiễm với rầy nâu ở đồng bằng sông Cửu long, tuy nhiên chưa thấy
giống nào ở đồng bằng sông Cửu long lại nhiễm rầy nâu ở khu vực phía Bắc
(N. Đ. Khiêm, 1995).
Phịng chống rầy nâu bằng biện pháp sinh học: Có thể nói cho đến nay
biện pháp sinh học được nhắc đến như một biện pháp không thể thiếu trong
biện pháp bảo vệ cây trồng, tuy nhiên trên cây lúa, biện pháp này vẫn chủ yếu
là bảo vệ các thiên địch trong tự nhiên thông qua việc thực hiện các biện pháp
phòng trừ và canh tác làm giảm việc ảnh hưởng đến suy giảm quần thể của
KSTĐ tự nhiên (Viện BVTV, 2006).
Các kết quả nghiên cứu về thành phần và diễn biến số lượng quần thể
thiên địch của rầy nâu cho tới nay cũng khá nhiều như: P. V. Lầm (1992) tác
giả đã phát hiện được 56 lồi cơn trùng, nhện, nấm và tuyến trùng là thiên

địch của rầy nâu ở các tỉnh Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình và Tiền Giang. Như
23


vậy thành phần thiên địch của rầy nâu trên ruộng lúa của nước ta không nghèo
nàn như một vài ý kiến đánh giá. Các thiên địch thuộc mọt số bộ của lớp Cơn
trùng, lớp nhện, lớp nấm bất tồn và tuyến trùng. Các loài thiên địch thu được
nhiều nhất thuộc bộ nhện lớn (17 loài chiếm 30,3%) bộ cánh cứng (15 lồi
chiếm 26,8%) bộ cánh màng (13 lồi chiếm 23,2%).
Có 18 loài thiên địch của rầy nâu bắt gặp thường xuyên với số lượng
tương đối cao, 6 loài ký sinh trứng rầy nâu, 8 loài ký sinh rầy non và trưởng
thành, 2 loài ký sinh bậc 2, 5 loài thuộc 3 giống họ ong kiến ngoại ký sinh rầy
non và rầy trưởng thành Phạm Văn Lầm (1992). Trong số các loài ăn thịt
thường gặp nhất là nhện bắt mồi trong đó lồi có số lượng lớn hơn cả là lồi
Lycoza pseudoannulata, phổ biến ở hầu hết các nơi trên ruộng lúa, chúng có
mặt từ đầu vụ đến cuối vụ lúa, chúng thích sống ở nơi ẩm ướt. Nhện này có
khă năng ăn mồi lớn: 6-7 rầy non và 3-4 rầy trưởng thành/ngày 4-5 rầy
trưởng thành hoặc 7-8 rầy non/ngày (N. C. Thuật, 1989).
Các loài ăn thịt như bọ rùa đỏ, bọ ba khoang, bọ cánh ngắn, bọ xít mù
xanh, bọ xít nước... chúng xuất hiện, phát sinh, phát triển theo sự xuất hiện và
gia tăng của rầy nâu trên ruộng lúa. Chúng có thể ăn trứng, ăn rầy non và
thường đạt đỉnh cao vào đỉnh cao của rầy nâu hoặc trứng (N. C. Thuật, 1989).
Các loài ăn thịt chủ yếu thuộc Miridae và Coccinellidae (N. V. Huỳnh, 1980).
Ký sinh trứng phổ biến thuộc 2 họ Mymaridae và Trichogrammatidae.
Vai trò của chúng đã được tác giả H. Q. Hùng (1984) nghiên cứu kỹ. Vai trò
ký sinh của ong Oligosita và Gonatocerus trên trứng rầy nâu được Phạm Văn
Lầm và cộng sự, nghiên cứu trong nhiều năm cho biết: ong Anagrus sp. ký
sinh trứng rầy nâu từ tháng 4-11 (vùng Hà Nội), tháng 7-12 (Long An). Tỷ lệ
trứng bị ong này ký sinh từ 15-25%, có trường hợp 95% ở cuối vụ hè thu
tháng 8 năm 1980.


24


Phịng chống rầy nâu bằng biện pháp hố học: Biện pháp hoá học vẫn
cần thiết trong một tương lai dài. PTTH, theo quan niệm của một số nhà khoa
học, không nhằm mục tiêu loại bỏ mà là sử dụng hợp lý và có chọn lọc hố
chất bảo vệ thực vật. Tại Việt Nam hầu hết các cơng trình nghiên cứu về
phòng trừ sâu bệnh hại lúa đều quan tâm đên biện pháp sử dụng thuốc học
học hợp lý cụ thể rầy nâu thuốc Bassa 50EC, Trebon 10EC, Applaud 15 WP,
Regent 800 WG, Admire 50EC phun khi rầy tuổi 1 - 2 rộ.
Xử lý hạt giống: Cruiser Plus 312.5FS (50ml/100 kg hạt giống) và
Gaucho 600 FS (40ml/100 kg hạt giống) không ảnh hưởng đến tỷ lệ nẩy mầm
và tốc độ nảy mầm của hạt, không ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát
triển của cây lúa sau khi gieo cấy. Thuốc Cruiser có hiệu quả trừ rầy trưởng
thành xâm nhập vào ruộng từ 72-82% sau mọc 3-5 ngày tuổi, từ 40-60% cây
lúa 7-10 ngày tuổi (N. V. Viễn 2007). Cũng theo tác giả Ngơ Vĩnh Viễn
(2007) thì thuốc nhóm Neonicotinoid có hoạt chất Dinotefuran (trong đó có
Oshin 20 WP), Clothianidin (trong đó có Dantosu 16 WSG), Thiamethoxan
(trong đó có Actara 25WG) có hiệu quả trừ rầy non và rầy trưởng thành và có
thể bảo vệ lúa non trong 5 ngày sau phun. Những loại thuốc này có thể
khuyến cáo sử dụng trừ rầy nâu véc tơ truyền bệnh vàng lùn, lùn xoăn lá cho
lúa từ khi mọc cho đến 30 ngày tuổi.

25


×