Tải bản đầy đủ (.ppt) (8 trang)

Bài Tiểu Luận Công nghệ sinh học môi trường: Một số phương pháp xử lý nước thải công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.59 KB, 8 trang )

Một số phương pháp xử lý
nước thải công nghiệp
Bài Tiểu Luận
Công nghệ sinh học môi trường
I.Hiện trạng ô nhiễm nước thải
công nghiệp.

Nước ta có nền công nghiệp chưa phát triển mạnh, các khu công nghiệp và các đô
thị chưa đông lắm nhưng tình trạng ô nhiễm nước đã xảy ra ở nhiều nơi với các mức
độ nghiêm trọng khác nhau (Cao Liêm và Trần Ðức Viên, 1990).

Nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất dùng tưới lúa và hoa màu, chủ yếu
là ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng. Việc sử dụng nông dược và phân bón
hóa học càng góp thêm phần ô nhiễm môi trường nông thôn.
Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi ngành có một loại nước
thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến Sông Cầu thành màu
đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục cây số. Khu công nghiệp Việt Trì xả
mỗi ngày hàng ngàn mét khối nước thải của nhà máy hóa chất, thuốc trừ sâu, giấy,
dệt... xuống Sông Hồng làm nước bị nhiễm bẩn đáng kể. Khu công nghiệûp Biên Hòa
và TP HCM tạo ra nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt rất lớn, làm nhiễm bẩn
tất cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận.
Nước dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng tăng nhanh do dân số và các đô
thị. Nước cống từ nước thải sinh hoạt cộng với nước thải cuả các cơ sở tiểu thủ công
nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng ô nhiễm của các đô thị ở nước ta.
Ðiều đáng nói là các loại nước thải đều được trực tiếp thải ra môi trường, chưa qua
xử lý gì cả, vì nước ta chưa có hệ thống xử lý nước thải nào đúng nghĩa như tên gọi.
Nước ngầm cũng bị ô nhiễm, do nước sinh hoạt hay công nghiệp và nông nghiệp.
Việc khai thác tràn lan nước ngầm làm cho hiện tượng nhiễm mặn và nhiễm phèn
xảy ra ở những vùng ven biển sông Hồng, sông Thái Bình, sông Cửu Long, ven biển
miền Trung... (Cao Liêm và Trần Ðức Viên, 1990).


Ô nhiễm chủ yếu do các rác thải và nước thải công nghiệp bằng nhiều con đường khác nhau tập
trung hoặc chảy vào sông hồ ,hồ ,biển, hoặc ngấm suống tầng chứa nước ngầm .Nói chung,tuỳ
theo từng ngành công nghiệp mà nước thải công nghiệp có thành phần khác nhau .

VD : Nước thải công nghiệp của ngành thực phẩm,sx sữa ,sản xuất giấy ,công nghiệp dệt ,... có
thành phần tương tự như như nước thải sinh hoạt với đặc điểm là có chứa nhiều chất ô nhiễm
hữu cơ ,khi xả vào nguồn nước sẽ tiêu hao lượng lớn oxy hoà tan trong nước do quá trình phân
huỷ sinh học.

Các kim loại nặng như Ni, Se, Ag, Zn, Hg, Pb, Ba, Cd,Cr,As ,..thường có mặt trong nước dưới
dạng ion tự do,hay hợp chất

Nước thải công nghiệp khác như : nhà máy hoá chất ,nhà máy luyện kim, các xí nghiệp mạ
điện..... có nhiều hoá chất độc hại , các kim loại nặng , khi xả vào môi trường nước nhiều chất khó
phân huỷ sẽ gây độc tố đối với các loại sinh vật trong nước . Nhiềuchất ô nhiễm trong đó có các
kim loại nặng có khả năng tích tụ sinh học qua dây truyền thức ăn ảnh hưởng đến các loại thuỷ
sinh và đến đa dạng sinh học của hệ sinh thái.

Nước thải công nghiệp khi xả vao nguồn nước với khối lượng lớn có thể làm thay đổi các tính
chất vật lý của nguồn nước như thay đổi nhiệt độ nước , làm tăng lượng chất rắn hoà tan , lượng
chất rắn lơ lửng , ảnh hưởng đến màu sắc , mùi vị nước ....Những thay đổi đó làm giảm giá trị sử
dụng của nguồn nước ,nhất là cho mục đích vui chơi giả trí .

Ô nhiễm từ các làng nghề vấn nạn đáng lo ngại:

Những năm gần đây, trước xu hướng hội nhập, cùng với tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp
nông thôn tỉnh Thái Bình đã tập trung phát triển nghề và làng nghề, xây dựng quy hoạch các khu
công nghiệp cụm công nghiệp tập trung. Đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, bộ mặt
nông thôn thực sự đổi thay từng ngày. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì người dân nơi
đây đã và đang phải đối mặt với một thực tế là tình trạng ô nhiễm môi trường.



1. Ngành cao su
Lưu lượng và thành phần nước thải
Hàng năm ngành chế biến cao su phát sinh khoảng 10 triệu m3 nước thải, trung bình
lượng nước thải phát sinh khoảng 25m3/tấn sản phẩm (tính theo khối lượng khô) sản
xuất từ mủ tinh, 35 m3/tấn sản phẩm sản xuất từ mủ tạp và 18 m3/tấn sản phẩm sản
xuất từ mủ li tâm (Tổng công ty Cao su Việt Nam, 2004).
Nước thải cao su được xem là một trong những lọai nước thải có nồng độ ô nhiễm
rất cao bởi các thành phần COD, ammonium và photpho. Nước thải chế biến cao su
từ mủ nước thường có pH thấp (pH4-6) do việc sử dụng axit để làm đông tụ cao su,
trong đó nước thải phát sinh từ chế biến mủ tạp có pH khoảng 6-7. Hàm lượng N-
NH3 trong nước thải cao chủ yếu là do việc sử dụng amoniac là chất chống đông tụ
trong quá trình thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ mủ, đặc biệt là trong chế biến mủ li
tâm. Bên cạnh đó, hàm lượng photpho trong nước thải cũng rất cao (88,1-109,9mg/l).
Công nghệ XLNT
Hiện nay, công nghệ XLNT cao su chủ yếu áp dụng phương pháp cơ học và sinh học
(hệ thống hồ sinh học). Nếu chỉ áp dụng phương pháp sinh học thì rất khó đạt được
tiêu chuẩn đang áp dụng, đặc biệt là đối với hai chỉ tiêu COD và NH3-N.
Kết quả khảo sát cho thấy: Một số thành phần ô nhiễm của nước thải sau xử lý của
các nhà máy chế biến mủ cao su cao hơn so với tiêu chuẩn TCVN 5945-1995 cột B,
và C (COD, N-NH3, photpho…)


Ngành chế biến thủy sản
Lưu lượng và thành phần nước thải
Đối với các nhà máy chế biến thủy hải sản, nước thải phát sinh chủ yếu từ
các khâu rửa nguyên liệu, thành phần ô nhiễm chủ yếu của nước thải là
chất hữu cơ, nồng độ chất hữu cơ dao động từ vài trăm đến hàng ngàn
mg/l (COD 100 - 5.000 mg/l). Tùy thuộc vào quy mô sản xuất của nhà máy,

lưu lượng nước thải phát sinh dao động từ 20 - 300 m3/ngày.
Công nghệ xử lý nước thải
Đối với ngành chế biến thủy hải sản, công nghệ chính được áp dụng là xử
lý sinh học có thể là sinh học hiếu khí hoặc kỵ khí hoặc kết hợp cả 2 trong
cùng một hệ thống.
Theo cách này, nước thải sau xử lý của các nhà máy khảo sát vẫn chưa
đạt được tiêu chuẩn xả thải. Điều này xảy ra do quá trình khảo sát thành
phần nước thải ban đầu quá sơ sài dẫn đến thiết kế qui trình công nghệ
chưa hoàn chỉnh (vì nước thải thủy sản thường có nồng độ dầu và mỡ rất
cao, nhưng không có công đoạn tách dầu và mỡ). Mặc khác, các trạm
XLNT đều không có cán bộ kỹ thuật chuyên trách về môi trường để vận
hành nên hệ thống được vận hành không đúng theo hướng dẫn kỹ thuật.

×