Tải bản đầy đủ (.pdf) (345 trang)

Thi Hương thời Nguyễn (Qua các trường thi Hương Hà Nội, Nam Định và Hà Nam) : Luận án TS. Lịch sử: 62 22 54 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.89 MB, 345 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

ĐỖ THỊ HƯƠNG THẢO

THI HƯƠNG THỜI NGUYỄN
(Qua các trường thi Hương Hà Nội,
Nam Định và Hà Nam)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

ĐỖ THỊ HƯƠNG THẢO

THI HƯƠNG THỜI NGUYỄN
(Qua các trường thi Hương Hà Nội,
Nam Định và Hà Nam)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại

Mã số: 62 22 54 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:


GS.TS. NGUYỄN QUANG NGỌC

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là cơng trình khoa học của
riêng tơi. Các tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận án hoàn toàn
trung thực, khách quan, khoa học và có xuất xứ rõ ràng. Nếu khơng
đúng sự thật, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, 5 – 2014
Đỗ Thị Hương Thảo


LỜI CẢM ƠN
Bản Luận án này được hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân trong q trình
cơng tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại khoa Lịch sử. Tuy nhiên, sự thành
cơng của Luận án cịn là kết quả của sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, các bạn đồng
nghiệp trong và ngoài khoa Lịch sử.
Trước tiên, tơi muốn bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất tới thầy
hướng dẫn là GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc – nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam
học và Khoa học Phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tơi có “dun” được là học
trị của Thầy từ khi làm khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Sử học đến luận văn Thạc sỹ
và giờ là luận án Tiến sĩ. Sự trưởng thành của tôi hôm nay trong nghiên cứu khoa
học nhờ phần lớn công sức của Thầy.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ
trung đại, khoa Lịch sử: GS. TSKH Vũ Minh Giang, PGS. TS. Vũ Văn Quân, PGS.
TS. Phan Phương Thảo… - những người luôn động viên, giúp đỡ và định hướng
cho tơi trong q trình làm luận án. Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn tới cố PGS. TSKH.

Nguyễn Hải Kế bởi những ý tưởng gợi mở của thầy trong thời gian tôi làm Luận án.
Bản luận án cũng khơng thể hồn thành nếu khơng có sự giúp đỡ của các
đồng nghiệp trong và ngoài khoa Sử. Tơi thật sự biết ơn họ vì họ đã chia sẻ cùng tơi
những khó khăn trong q trình khai thác và xử lý tư liệu luận án. Tôi xin gửi lời
cảm ơn tới ThS. Tống Văn Lợi, ThS. Nguyễn Ngọc Phúc, ThS Vũ Thị Minh Thắng,
TS. Đặng Hồng Sơn, Hà Duy Biển, TS. Trần Thái Hà, ThS Trịnh Văn Bằng và
nhiều anh chị em khác đã giúp đỡ tôi trong q trình làm luận án.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới các cá nhân, gia đình và các cơ quan, đồn thể tại
Nam Định, Huế và Sài Gịn đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong q trình điền dã, thực
địa. Xin gửi lời cảm ơn tới TS. Sun Laichen, khoa Lịch sử, trường California State
University Fullerton, Hoa Kỳ – người đã giúp đỡ để tơi có cơ hội tiếp cận với
những phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu của các học giả nước ngồi trong
thời gian tơi học tập tại Mỹ.
Bên cạnh thầy cô, đồng nghiệp, tôi gửi lời biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm,
chia sẻ và giúp đỡ của bố mẹ và gia đình. Đặc biệt, chồng và con trai tôi là chỗ dựa,
là động lực tinh thần để tơi phấn đấu hồn thành luận án này. Bản Luận án vừa là sự
trưởng thành trong khoa học vừa là cơng trình tơi dành tặng cho những người thân
trong gia đình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Đỗ Thị Hương Thảo


MỤC LỤC
Trang
Danh mục Bảng
Danh mục Bản đồ - Sơ đồ
Danh mục Biểu đồ
MỞ ĐẦU

1


1. Lý do chọn đề tài

1

2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề

2

3. Mục đích, giới hạn và phạm vi nghiên cứu

12

4. Nguồn tài liệu

14

5. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận

16

6. Đóng góp của Luận án

18

Chương 1. THI HƯƠNG THỜI NGUYỄN: MỘT CÁI NHÌN TỔNG QUAN
1.1.

Trường thi


20
20

1.1.1.

Số lượng các trường

20

1.1.2.

Thời gian tổ chức thi

21

1.1.3.

Quy mô, cấu trúc trường thi

22

1.1.4.

Việc cung cấp vật dụng cho trường thi

25

1.2.

Nội dung thi


27

1.2.1.

Kiến thức thi Hương

27

1.2.2.

Nội dung thi Hương và những thay đổi qua các thời kỳ

30

1.3.

Quan trường

34

1.3.1.

Thành phần, số lượng và nhiệm vụ

34

1.3.2.

Quy trình làm việc


37

1.4.

Sĩ tử

42

1.4.1.

Trước khi thi

42

1.4.2.

Trong khi thi

45

1.4.3.

Học vị, ân điển đối với người thi đỗ

47

Tiểu kết chương 1
Chương 2. TRƯỜNG THI HƯƠNG THĂNG LONG – HÀ NỘI
2.1.


Lịch sử hình thành và biến đổi

50
52
52

2.1.1.

Lịch sử hình thành

52

2.1.2.

Vị trí, quy mơ, cấu trúc

53


2.1.3.

Những biến đổi của trường thi Hương Hà Nội từ nửa cuối thế kỷ XIX

57

2.1.4.

Thời gian tổ chức thi


63

2.2.

Nội dung thi Hương truyền thống

64

2.2.1.

Kỳ đệ nhất

65

2.2.2.

Kỳ đệ nhị

68

2.2.3.

Kỳ đệ tam

69

2.2.4.

Kỳ đệ tứ


70

Quan trường

72

2.3.
2.3.1.

Thành phần, số lượng

72

2.3.2.

Giải ngạch chấm thi

77

2.3.3.

Sai phạm của quan trường

78

2.4.

Cử nhân

81


2.4.1.

Số lượng

81

2.4.2.

Quê quán

83

2.4.3.

Bổ nhiệm quan chức

85

Tiểu kết chương 2
Chương 3. TRƯỜNG THI HƯƠNG NAM ĐỊNH VÀ HÀ NAM
3.1.

Lịch sử hình thành và phát triển

87
89
89

3.1.1.


Lịch sử hình thành

89

3.1.2.

Vị trí, quy mơ, cấu trúc

92

3.2.

Những biến đổi trong nội dung thi Hương truyền thống

100

3.2.1.

Nhu cầu sử dụng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX

100

3.2.2.

Nội dung các môn thi bổ sung

103

3.3.


Quan trường

107

3.3.1.

Thành phần, số lượng

107

3.3.2.

Công việc của quan trường

112

3.3.3.

Sai phạm của quan trường

117

3.4.

Cử nhân

120

3.4.1.


Số lượng

120

3.4.2.

Độ tuổi

122

3.4.3.

Quê quán

125

3.4.4.

Bổ nhiệm quan chức

128

Tiểu kết chương 3

130


Chương 4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM THI HƯƠNG THỜI NGUYỄN
4.1.


Các trường thi Hương – Tiếp cận so sánh

132
132

4.1.1.

Về lịch sử hình thành, thời gian hoạt động

132

4.1.2.

Về vị trí, quy mơ, cấu trúc

134

4.1.3.

Về giải ngạch và số lượng đỗ

136

4.1.4.

Về việc bổ dụng Tú tài, Cử nhân

141


4.2.

Mối quan hệ giữa khoa cử và chính trị, văn hóa, xã hội nhìn từ
các trường thi Hương

146

4.2.1.

Mối quan hệ giữa khoa cử và bộ máy chính quyền

146

4.2.2.

Mối quan hệ giữa khoa cử và đời sống văn hóa, xã hội

150

4.3.

Những tương đồng và khác biệt giữa trường thi Hương Việt
Nam và Trung Quốc

162

4.3.1.

Về quy mô, cấu trúc trường thi


162

4.3.2.

Về nội dung thi Hương

165

4.3.3.

Về các nội dung liên quan đến sĩ tử và quan trường

167

Tiểu kết chương 4

171

KẾT LUẬN

173

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

180

TÀI LIỆU THAM KHẢO

181


PHỤ LỤC

210

1. Bảng

211

2. Bản đồ, Sơ đồ

248

3.Tư liệu

255

Tư liệu 1. Nội dung thi Hương truyền thống

256

Tư liệu 2. Quy định về kỳ thi bổ sung của trường thi Hương Nam Định

278

Tư liệu 3. Quan trường thi Hương

291

Tư liệu 4. Sĩ tử thi Hương


309

4. Ảnh

321


DANH MỤC BẢNG

Bảng trong Nội dung Luận án
Bảng 1.1.

Quy định thời gian tổ chức thi Hương của các trường

Bảng 1.2.

Nội dung các kỳ thi Hương thời vua Duy Tân

Bảng 2.1.

Ngày thi của trường Thăng Long - Hà Nội

Bảng 2.2.

Số lượng quan trường trường Thăng Long - Hà Nội thời Gia Long và đầu
Minh Mệnh

Bảng 2.3.


Số lượng quan trường trường Thăng Long - Hà Nội thời Minh Mệnh, Tự Đức

Bảng 2.4.

Các quan Phân khảo, Phúc khảo, Sơ khảo trường Nam Định khoa thi năm 1848

Bảng 2.5.

Quê quán Cử nhân trường Thăng Long - Hà Nội

Bảng 3.1.

Số lượng quan trường trường Nam Định thời Gia Long và đầu Minh Mệnh

Bảng 3.2.

Số lượng quan trường trường Nam Định thời Minh Mệnh và Tự Đức

Bảng 3.3.

Số lượng quan trường trường Nam Định và Hà Nam năm 1880 và 1886

Bảng 3.4.

Quê quán Cử nhân trường Sơn Nam, Nam Định từ khoa thi 1807 đến 1879

Bảng 3.5.

Quê quán Cử nhân trường Hà Nam từ khoa thi 1884 đến 1915


Bảng 3.6.

Bổ nhiệm Cử nhân trường Nam Định và Hà Nam

Bảng 4.1.

Thời gian hoạt động của các trường thi Hương trong nước

Bảng 4.2.

Số Cử nhân của các trường từ năm 1807 đến 1840

Bảng 4.3.

Số Cử nhân của các trường từ năm 1841 đến 1918

Bảng 4.4.

Số Cử nhân được bổ nhiệm làm quan theo vùng

Bảng 4.5.

Số Cử nhân được bổ nhiệm làm quan trong tương quan cả nước

Bảng 4.6.

Số lượng người dự thi, thi đỗ các kỳ của các trường thi Hương khoa thi năm
1858



Bảng trong Phụ lục
Bảng 1.

Cung ứng của triều đình đối với quan trường thi Hương

Bảng 2.

Cung ứng của triều đình đối với các trường thi Hương

Bảng 3.

Nội dung các kỳ thi Hương từ thời Gia Long đến Tự Đức

Bảng 4.

Số lượng quan trường thời Gia Long và đầu Minh Mệnh
(từ 1807 đến nửa đầu năm 1825)

Bảng 5.

Số lượng quan trường thời Minh Mệnh (từ nửa sau năm 1825 trở đi)

Bảng 6.

Đề điệu, Giám thí, Giám khảo của trường Thăng Long, Bắc Thành

Bảng 7.

Chánh, Phó chủ khảo của trường Bắc Thành, Hà Nội


Bảng 8.

Chức vụ, Phẩm hàm của các Chánh, Phó chủ khảo trường Thăng Long - Hà Nội

Bảng 9.

Giải ngạch của trường Hà Nội

Bảng 10.

Số lượng dân đinh một số tỉnh miền Bắc năm 1847

Bảng 11.

Số lượng Hương cống/Cử nhân trường Thăng Long - Hà Nội.

Bảng 12.

Bổ nhiệm Hương cống/Cử nhân trường Thăng Long – Hà Nội

Bảng 13.

Ngày tổ chức các kỳ thi ở trường Sơn Nam - Nam Định

Bảng 14.

Đề điệu, Giám thí, Giám khảo của trường Sơn Nam (từ 1807 đến 1825)

Bảng 15.


Chánh, Phó chủ khảo trường Nam Định (từ 1828 đến 1879)

Bảng 16.

Chánh, Phó chủ khảo trường Hà Nam (từ 1888 đến 1915)

Bảng 17.

Chức vụ, phẩm hàm Chánh, Phó chủ khảo trường Sơn Nam, Nam Định và Hà Nam

Bảng 18.

Giải ngạch của trường Nam Định

Bảng 19.

Số lượng dân đinh một số tỉnh miền Bắc năm 1847 (tiếp theo)

Bảng 20.

Số lượng Hương cống/Cử nhân trường Sơn Nam - Nam Định và Hà Nam

Bảng 21.

Quê quán Hương cống/Cử nhân trường Hà Nội (từ 1813 đến 1915)

Bảng 22.

Quy mô các trường thi Hương thời Nguyễn


Bảng 23.

Số lượng Hương cống/Cử nhân các trường thi Hương thời Nguyễn

Bảng 24.

Số sĩ tử và Cử nhân của các trường khoa thi năm 1858

Bảng 25.

Số Hương cống/Cử nhân các vùng Bắc – Trung – Nam thời Nguyễn

Bảng 26.

Bổ nhiệm Hương cống/Cử nhân các trường thi Hương

Bảng 27.

Các kỳ Ân khoa thi Hương thời Nguyễn

Bảng 28.

Số lượng Hương cống/Cử nhân qua các kỳ Ân khoa thời Nguyễn


Bảng 29.

Số lượng Hương cống/Cử nhân các trường được bổ nhiệm làm quan

Bảng 30.


Nội dung các kỳ thi Hương đầu thời Minh

Bảng 31.

Nội dung các kỳ thi Hương thời Minh – Thanh (1757 – 1787)

Bảng 32.

Nội dung các kỳ thi Hương cuối thời Thanh
(sau cải cách năm 1901 và bị xóa bỏ năm 1905)


DANH MỤC BẢN ĐỒ - SƠ ĐỒ

Bản đồ, Sơ đồ trong Nội dung Luận án
Bản đồ 2.1.

Vị trí trường thi Hương Hà Nội trong Bản đồ Hà Nội

Bản đồ 2.2.

Bản đồ Hà Nội năm 1866 do Trần Huy Bá vẽ lại

Bản đồ 2.3.

Hà Nội từ năm 1875 đến 1888

Bản đồ 3.1.


Bản đồ Nam Định năm 1883

Bản đồ 3.2.

Bản đồ Nam Định 1883 chồng xếp trên bản đồ thành phố Nam Định hiện nay

Sơ đồ 2.1.

Sơ đồ Trường thi Hà Nội năm 1875

Sơ đồ 3.1.

Trường thi Hương Nam Định

Sơ đồ trong Phụ lục Luận án
Sơ đồ 1.

Vị trí trường thi Hương Hà Nội

Sơ đồ 2.

Cấu trúc trường thi Hương Nam Định (bản vẽ của Orband)

Sơ đồ 3.

Cấu trúc trường thi Hương Nam Định (bản vẽ của Trần Văn Giáp)

Sơ đồ 4.

Cấu trúc trường thi Hương ở Huế năm 1915



DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ các chức quan giữ vị trí Chánh, Phó Chủ khảo trường Thăng
Long – Hà Nội
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ đỗ Tiến sĩ của Cử nhân trường Thăng Long - Hà Nội
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ đỗ Tiến sĩ các hạng của Cử nhân trường Thăng Long – Hà Nội
Biểu đồ 2.4. Phẩm hàm của Cử nhân trường Thăng Long – Hà Nội khi được bổ
nhiệm chức quan
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ các chức quan giữ vị trí Chánh, Phó Chủ khảo trường Nam Định
và Hà Nam.
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ đỗ Tiến sĩ của Cử nhân trường Nam Định và Hà Nam
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ đỗ các hạng Tiến sĩ của Cử nhân trường Nam Định và Hà Nam
Biểu đồ 3.4. Độ tuổi đỗ Cử nhân của trường Hà Nam
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ đỗ Cử nhân của các huyện thuộc tỉnh Nam Định


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giáo dục và khoa cử Việt Nam thời trung đại là phương thức tuyển lựa
nhân sự, nhân tài cho bộ máy chính quyền và là “bước đường đầu tiên của sự nhập
thế hành đạo” của kẻ sĩ [295, tr.68]. Mặc dù có nhiều loại hình thi khác nhau,
trong khoa cử truyền thống, khoa thi chính yếu và quan trọng là khoa thi Tiến sĩ,
gồm 3 cấp thi Hương, thi Hội và thi Đình. Trong 3 cấp thi này, thi Hương là kỳ thi
đầu tiên, tổ chức ở địa phương, chọn ra những người có năng lực lên kinh đơ vào
thi Hội, thi Đình. Mặc dù thi Hương là kỳ thi cơ bản, quan trọng nhưng dựa vào
tính chất và yêu cầu về độ khó tăng dần của các kỳ thi, đa phần các nhà nghiên
cứu về giáo dục khoa cử thời trung đại thường tập trung nghiên cứu những khía
cạnh khác nhau của thi Hội và thi Đình để từ đó tìm hiểu hình thức, nội dung tư

tưởng của Nho giáo cũng như các vấn đề có liên quan đến giáo dục Nho học.1 Vẫn
theo hướng tiếp cận này, trong giáo dục Nho học, các học giả, các nhà nghiên cứu
có xu hướng nghiêng về tìm hiểu về loại hình trường có chức năng, đào tạo
(trường học) như Quốc Tử Giám (Thăng Long, Huế); trường học các cấp phủ,
huyện, tổng ở địa phương… mà ít tìm hiểu các trường có nhiệm vụ tổ chức các kỳ
thi (trường thi Hương, thi Hội), một phần vì sự thiếu vắng của tư liệu và phần
khác là do loại hình trường thi này chiếm tỷ lệ khơng nhiều so với các trường có
chức năng dạy học.
Như vậy, có thể thấy, vẫn cịn những khoảng trống trong nghiên cứu về giáo
dục Nho học ở Việt Nam, đặc biệt ở kỳ thi Hương. Trong nghiên cứu hiện nay, các
nghiên cứu về trường thi Hương mới dừng lại ở quy mơ các các bài tạp chí chun
ngành, kỷ yếu hội thảo, hoặc một phần của cuốn sách, mà chưa có một cơng trình
nghiên cứu nào đi vào phân tích, lý giải một cách đầy đủ và hệ thống về quy mơ, vị
trí, cấu trúc, chức năng của trường thi Hương cũng như những vấn đề có liên quan
để có cái nhìn tồn diện về kỳ thi đầu tiên trong kỳ thi Tiến sĩ.
1.2. Có những lý do nhất định để chọn thi Hương thời Nguyễn làm đối tượng
nghiên cứu. Thi Hương ở Việt Nam bắt đầu từ thời Trần, nhưng dưới thời Trần và
thời Lê, cơ bản các tài liệu ghi chép về thi Hương cịn lại khơng nhiều, nếu có thường
ở dạng gia phả, hương ước, văn bia… nằm rải rác tại các địa phương nên việc tiếp
cận nghiên cứu khó khăn, địi hỏi nhiều thời gian và cơng sức. Trong khi đó, triều
1

Có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu như: Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 – 1919) do Ngô Đức Thọ
chủ biên năm 2006, Tiến sĩ Nho học Thăng Long – Hà Nội (1075 – 1919) của Bùi Xn Đính năm 2003,
Bước đầu tìm hiểu văn sách Đình đối thời Nguyễn - luận văn Thạc sỹ khoa học Ngữ văn của Đinh Thanh
Hiếu năm 2003, Khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam (Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tư,
1919) của Phạm Văn Khoái năm 2010, Văn sách thi Đình Thăng Long – Hà Nội trong tủ sách 1000 năm
Thăng Long – Hà Nội năm 2010, Nhà nước phong kiến Việt Nam với việc sử dụng các đại khoa học vị Tiến sĩ
(1075 – 1919) của Lê Thị Thanh Hòa năm 2011…


1


Nguyễn là triều đại còn lưu lại khá đầy đủ các tư liệu liên quan đến thi Hương, trong
đó phải kể đến bộ Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục ghi chép họ tên,
quê quán, độ tuổi thi đỗ… của hơn 5000 Hương cống/Cử nhân thời Nguyễn.
Hơn nữa, là vương triều cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều
Nguyễn nằm trong giai đoạn lịch sử khá đặc thù so với các triều đại trước đó. Đây
là triều đại lần đầu tiên lãnh thổ Việt Nam có diện tích lớn nhất, trải dài từ ải Nam
Quan tới mũi Cà Mau, với sự đa dạng văn hóa, kinh tế, xã hội của nhiều tộc người,
vùng miền... Nếu như ở những thế kỷ trước, Đại Việt về cơ bản chỉ tiếp xúc và giao
lưu văn hóa với hai nền văn minh lớn của châu Á là Trung Hoa và Ấn Độ, thế kỷ
XIX, triều Nguyễn còn đặt trong bối cảnh tiếp nhận thêm sự tiếp xúc và giao lưu
văn hóa, văn minh phương Tây. Do vậy nghiên cứu hoạt động khoa cử của thời kỳ
này cung cấp cái nhìn về thực chất của giáo dục Nho học đặt trong mối quan hệ của
nó với yêu cầu thực tại của xã hội Việt Nam thế kỷ XIX cũng như góp phần tìm
hiểu cơ chế, tâm thức của người Việt trong “guồng máy” học tập và thi cử vốn đã
tồn tại trước đó hàng trăm năm.
Trong thi Hương thời Nguyễn, luận án chọn nghiên cứu trường thi Hương
Hà Nội, Nam Định (sau sáp nhập thành trường Hà Nam) cho phép tìm hiểu hoạt
động thi Hương thời Nguyễn trong một chỉnh thể thống nhất về thời gian (từ khoa
thi năm 1807 đến năm 1915) cũng như không gian (nằm gọn ở miền Bắc) để có cái
nhìn đầy đủ, rõ ràng hơn.
1.3. Nghiên cứu giáo dục khoa cử thời Nguyễn, ngồi việc tìm hiểu sự phát
triển nội tại của nền giáo dục Nho học Việt Nam, cịn góp phần tìm hiểu ảnh hưởng
của văn hóa Trung Hoa tại Việt Nam bởi Việt Nam có nhiều đặc điểm văn hóa
tương đồng với các nước Đông Á, cùng chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa. Đặt
trong bối cảnh, Hàn Quốc chấm dứt nền giáo dục Hán học theo mơ hình Trung
Quốc vào năm 1894 và bản thân Trung Quốc – nơi khởi nguồn của nền giáo dục
Hán học - kết thúc vào năm 1905 thì Việt Nam là nước cuối cùng trong 3 nước

Đông Á, chấm dứt khoa cử muộn nhất vào năm 1919. Vì vậy, chọn giáo dục và
khoa cử của triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam làm đối tượng
nghiên cứu ít nhiều góp phần làm rõ diện mạo bức tranh giáo dục khoa cử của các
nước chịu ảnh hưởng mơ hình giáo dục Hán học của Trung Hoa.
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục và khoa cử giai đoạn trung đại là một trong những đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Triều Nguyễn – triều đại
cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, chứng kiến sự chấm dứt hoàn
toàn của nền giáo dục Hán học, bước sang nền giáo dục cận đại theo mơ hình
phương Tây nên vấn đề giáo dục thời Nguyễn càng được đặc biệt quan tâm nghiên

2


cứu. Nhìn tổng quan, có thể chia các cơng trình nghiên cứu, bài viết về thời Nguyễn
và giáo dục thời Nguyễn thành mấy nhóm sau:
2.1. Các tài liệu thời Nguyễn và trước đó:
Trước thời Nguyễn, các quy định, chính sách liên quan đến giáo dục Nho
học của các triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Lê trung hưng được ghi chép trong nhiều tư
liệu lịch sử như: Việt sử lược 越 史 略, Việt sử tiết yếu 越 史 節 要, Đại Việt sử
ký toàn thư 大 越 史 記 全 書, Đại Việt sử ký tục biên 大 越 史 記 續 編, Đại
Việt sử ký tiền biên 大 越 史 記 前 編… Trong các sách này, hoạt động gắn liền
với giáo dục được nhắc đến nhiều nhất là thi Hội, thi Đình rồi mới đến thi Hương.
Ngồi các sách nói trên, có thể kể đến những ghi chép, nghiên cứu về giáo
dục của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục 見 聞 小 錄, Đại Việt thông sử 大 越
通 史, Vân đài loại ngữ 蕓 薹 類 語; của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút 雨
中 隨 筆… Những tư liệu này giúp người nghiên cứu có hiểu biết, hình dung rõ
ràng về thi Hương trước thời Nguyễn. Quyển “Thể lệ thượng” trong Kiến văn tiểu
lục cung cấp những thơng tin có giá trị về khoa cử bên cạnh một số vấn đề khác như
lễ nghi, phong tục, quan chức, bổng lộc, chế độ tuyển dụng… của Đại Việt dưới

thời Lý, Trần và Lê sơ [84, tr.7]. Ngồi ra, trong phần “Khoa mục chí” của cuốn
Lịch triều hiến chương loại chí 歷 朝 憲 章 類 誌, Phan Huy Chú dành hẳn
quyển XXVII để nói về thể lệ thi Hương thời Lê trung hưng. Nhìn chung, do tính
chất là kỳ thi đầu tiên, dễ hơn so với thi Hội và thi Đình nên tư liệu về thi Hương
thời Lê và trước thời Lê không nhiều và khá rải rác.
Thời Nguyễn, việc tìm hiểu, nghiên cứu về giáo dục có thể tìm thấy trong
các bộ chính sử do Quốc Sử quán và Nội các triều Nguyễn biên soạn như: Khâm
định Việt sử thông giám cương mục 欽 定 越 史 通 鑒 綱 目, Đại Nam thực lục
大 南 寔 錄, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ 欽 定 大 南 會 典 事 例,
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên 欽 定 大 南 會 典 事 例 續 編... ,
Minh Mệnh chính yếu 明 命 正 要, Đồng Khánh Khải Định chính yếu 同 慶 啟
定 正 要... Các tài liệu này giúp tìm hiểu các quy định của nhà Nguyễn đối với
giáo dục khoa cử như: các quy định liên quan đến kỳ thi Hương và các trường thi
Hương; chiếu, dụ, sắc chỉ của các vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức
về các hoạt động giáo dục, khoa cử liên quan đến sĩ tử và quan trường, cách thức tổ
chức thi, chấm bài… Ngoài ra, các tài liệu liên quan đến giáo dục thời Nguyễn cịn
được nhắc đến trong Đại Nam nhất thống chí 大 南 一 統 誌, Quốc triều Hương
khoa lục 國 朝 鄉 科 錄, Quốc triều khoa bảng lục 國 朝 科 榜 錄… mà chúng
tơi sẽ phân tích kỹ hơn ở phần nguồn tư liệu của Luận án.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu từ đầu thế kỷ XX đến nay
Liên quan đến các sách, các cơng trình nghiên cứu và các bài viết chuyên
khảo được xuất bản từ đầu thế kỷ XX đến nay có thể chia làm hai nhóm: các cơng

3


trình liên quan đến giáo dục thời Nguyễn nói chung và các cơng trình liên quan đến
thi Hương, các trường thi Hương thời Nguyễn.
2.2.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục thời Nguyễn
Ngồi các tài liệu chính sử đã trình bày ở trên, trong khoảng 50 năm đầu của

thế kỷ XX xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu về giáo dục khoa cử Việt Nam
thời cổ trung đại của các học giả Việt Nam. Đặc điểm chung của giai đoạn này là
tác giả của các công trình nghiên cứu ngồi vốn kiến thức Tây học cịn là những nhà
Hán học uyên bác. Phần lớn các bài viết trong giai đoạn này được công bố trên các
tạp chí Nam Phong, Thanh Nghị, Tri Tân… Năm 1919, Dương Bá Trạc giới thiệu
những nét đại cương về giáo dục khoa cử thời phong kiến qua bài “Khảo cứu về sự
thi ta” trên tạp chí Nam Phong [119]; năm 1942, Nguyễn Văn Tố giới thiệu bài viết
“Quyển thi văn bình chú” trên tạp chí Tri Tân [272, 273]; Nguyễn Tường Phượng
với bài “Khoa thi Hương năm Tân Mão (1891)” trên tạp chí Tri Tân năm 1943
[203, 204] … Trong khoảng thời gian này, đáng kể nhất là cuốn Lược khảo về khoa
cử Việt Nam (từ khởi thủy đến Mậu Ngọ 1918) của Trần Văn Giáp xuất bản năm
1941 [88]. Mặc dù khơng phân tích sâu nhưng cuốn sách của Trần Văn Giáp đã giới
thiệu những nét đại cương nhất về giáo dục và khoa cử Hán học từ khi hình thành
đến lúc kết thúc. Có thể nói, những loạt bài và cơng trình cơng bố vào nửa đầu thế
kỷ XX đã thành công bước đầu trong việc giới thiệu, giúp người đọc có những hình
dung nhất định về giáo dục và khoa cử Việt Nam truyền thống.
Những năm 80 - 90 của thế kỷ XX, các cơng trình nghiên cứu đề cập đến giáo
dục và khoa cử Việt Nam thời phong kiến nói chung và nhà Nguyễn nói riêng ngày
một nhiều, như: Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945 của Vũ Ngọc
Khánh (năm 1985) [133]; Giáo dục Việt Nam thời cận đại của Phan Trọng Báu (năm
1994) [14]; Nho học ở Việt Nam – Giáo dục và thi cử của Nguyễn Thế Long (năm
1995) [163]; Khoa cử và giáo dục Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng (năm 1998, sau đó
tái bản nhiều lần) [252]; Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời
phong kiến của Nguyễn Tiến Cường (năm 1998) [54]… Điểm chung của những cuốn
sách này là giới thiệu về khoa cử Việt Nam qua nhiều thời kỳ lịch sử. Các sách được
biên soạn theo trật tự thời gian với các nội dung cơ bản như: sách học trong nhà
trường, quan điểm triết học của Nho giáo, hệ thống trường học ở trung ương và địa
phương, cách thức tổ chức thi cử, ân điển và những đãi ngộ đối với người đỗ đạt... Vì
diện vấn đề và thời gian trình bày trải rộng nên những cuốn sách này chỉ trình bày
những nội dung khái lược, ít đi sâu phân tích từng khía cạnh cụ thể, các nhận xét đều

mang tính khái quát. Trong đó, nội dung giáo dục thời Nguyễn chỉ chiếm dung lượng
nhất định so với những vấn đề giáo dục khác mà các sách đề cập.
Ngoài các sách bàn về giáo dục, thập niên 90 của thế kỷ XX và một số năm
đầu thế kỷ XXI, xuất hiện ngày một nhiều những cơng trình chun sâu về triều
Nguyễn trong đó có đề cập đến giáo dục trong xu hướng nhìn nhận, đánh giá lại
4


triều Nguyễn với tinh thần khoa học khách quan hơn, như: Triều Nguyễn – Những
vấn đề lịch sử, tư tưởng và văn học (năm 1994); Những vấn đề văn hóa xã hội thời
Nguyễn (năm 1992, 1995) [296, 297]; Những vấn đề lịch sử và văn chương triều
Nguyễn (năm 1997) [68]; Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam
(năm 2002) [188]; Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn (năm 2002)
[284]; Lịch sử nhà Nguyễn – Một cách tiếp cận mới (năm 2005) [157]; Những vấn
đề lịch sử triều Nguyễn (năm 2007) [189]… Các cuốn sách trên được xuất bản trên
tinh thần nền sử học nước nhà vốn “quan tâm nhiều và chủ yếu đến một lịch sử giữ
nước mà chưa thật quan tâm đúng mức đến một lịch sử dựng nước, trong đó có lịch
sử trị nước (quản lý đất nước) gắn liền với vai trị và đóng góp của các triều đại
phong kiến Việt Nam” [189, tr.5]. Đặt trong quan điểm đó, sự nhìn nhận lại nhà
Nguyễn chính là sự nhìn nhận lại toàn bộ thế kỷ cận kề với thế kỷ XX – thế kỷ
“giống như cái bản lề, là cầu nối giữa xã hội truyền thống và hiện đại trong những
điều kiện thử thách ác liệt của sự áp đặt chế độ thực dân đến từ bên ngồi” [189,
tr.5]. Vì vậy, nội dung của các cuốn sách trên bàn đến nhiều vấn đề chính trị, bang
giao, kinh tế, xã hội, văn hóa, tơn giáo của nhà Nguyễn, trong đó có giáo dục. Trong
những nghiên cứu về triều Nguyễn, từ sau năm 2000, đáng lưu ý là hội thảo khoa
học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX) do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thanh Hóa đồng tổ
chức năm 2008 với tinh thần tiếp cận lịch sử một cách ngày càng khách quan hơn1,
có nhiều đóng góp, nhận thức mới trong nghiên cứu về triều Nguyễn, trong đó có 4
báo cáo đề cập đến vấn đề giáo dục.

Vào thập niên đầu của thế kỷ XXI, ngoài những cơng trình bàn chung về
nhà Nguyễn và vương triều Nguyễn, những cơng trình, những nghiên cứu về Nho
giáo và Nho học ở Việt Nam nhận được sự quan tâm mạnh mẽ của giới nghiên
cứu trong và ngoài nước, xuất hiện nhiều hơn các nhà nghiên cứu trẻ. Điểm mới
của các cơng trình này là nghiên cứu Nho giáo, Nho học được tiến hành theo
nhiều cách tiếp cận khác nhau như nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu lịch sử xã
hội, xã hội học lịch sử…
Năm 2006 và năm 2009, Viện Harvard – Yenching (Hoa Kỳ) và Viện nghiên
cứu Hán Nôm tổ chức hai cuộc hội thảo quốc tế bàn những vấn đề liên quan đến
Nho giáo ở Việt Nam. Trong cuộc hội thảo thứ 2 (năm 2009) với tiêu đề Nghiên
cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành, các nhà nghiên cứu đi
sâu thảo luận những vấn đề liên quan đến tiến trình lịch sử của Nho giáo ở Việt
Nam, quá trình lưu hành và tiếp cận kinh điển Nho gia ở Việt Nam, cách tiếp cận
liên ngành trong nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam và những vấn đề của Nho giáo
trong thời đại ngày nay. Trong cuộc hội thảo này, liên quan đến giáo dục Nho học
thời Nguyễn có bài của Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Thị Oanh và Phùng Minh Hiếu.
1

Chữ dùng của GS. Phan Huy Lê trong Báo cáo đề dẫn của Hội thảo.

5


Trong bài viết với với tiêu đề “The Effort to Update Confucian Principles of
Government under Tự Đức’s Reign” (Những cố gắng cập nhật hóa các ngun tắc
chính trị Khổng giáo dưới triều Tự Đức) [336], Nguyễn Thế Anh cho rằng các nhà
cầm quyền dưới triều Tự Đức đã rập khuôn hệ thống cai trị của nhà nước theo mẫu
Trung Hoa với niềm tin “hệ thống này chứa đựng những phương thức kinh nghiệm
phổ cập, chứ không phải chỉ là để áp dụng riêng cho Trung Quốc” [336, tr.58] và
nhà Nguyễn đã sử dụng chúng để chống chọi với sự bành trướng của văn minh

phương Tây. Đó cũng là một trong những lý do vì sao nhà Nguyễn tiếp tục duy trì
nền giáo dục Hán học truyền thống ở mức lâu nhất có thể. Trong bài “Tìm hiểu về
Nho giáo dưới triều vua Gia Long (Qua Đại Nam thực lục và Quốc sử di biên)”
[198], Nguyễn Thị Oanh đã chỉ ra vai trò, chủ trương và các biện pháp của vua Gia
Long trong đầu thế kỷ XIX nhằm từng bước quy phục lịng dân, bảo vệ sự an tồn
bền vững của vương triều. Đặc biệt vua Gia Long từ sớm đã chăm lo phát triển giáo
dục, tạo tiền đề cho sự phát triển của giáo dục Nho học dưới thời Nguyễn. Đáng chú
ý là bài viết “Xu hướng tái định chế khoa cử Nho học đầu thời Nguyễn (nhìn từ
những điển lệ trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ) của tác giả trẻ Phùng Minh
Hiếu [104]. Trong nghiên cứu của mình, Phùng Minh Hiếu cho rằng nhà Nguyễn có
nhiều nỗ lực trong việc “tái thiết chế khoa cử đầu thời Nguyễn” [104, tr.121] khiến
cho nền giáo dục này có diện mạo tương đối hoàn bị, và “trong chừng mực nhất
định nó đã đáp ứng được mục tiêu hay những mong muốn của nhà cầm quyền
phong kiến khi thực thi tái thiết khoa cử” [104, tr.107-108].
Cùng năm 2009, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội tổ chức hội thảo Kinh điển Nho gia tại Việt Nam bàn về những
vấn đề Nho học Việt Nam; hệ thống sách Đại toàn, Tiết yếu và việc tiếp nhận chúng
tại Việt Nam; những bình giải của các nhà Nho Việt Nam về kinh điển Nho gia.
Trong hội thảo có nhiều bài tham luận liên quan đến hệ thống sách vở của giáo dục
Nho học như: “Diên cách Chu Tử học tại Việt Nam: từ Tứ thư chương cú tập chú
đến Tứ thư ước giải” của Nguyễn Tuấn Cường, “Phương Đình tùy bút lục và thực
chất thái độ của Nguyễn Văn Siêu đối với cách chú giải kinh điển Nho gia của Chu
Hy” của Phạm Văn Ánh, “Tác phẩm Lễ kinh chủ Nhân và những luận giải đặc sắc
về Lễ của Lê Văn Ngữ” của Lê Phương Duy…
Bước sang thế kỷ XXI, các cơng trình nghiên cứu như sách, bài viết chuyên
sâu về giáo dục thời Nguyễn tiếp tục được quan tâm nghiên cứu và xuất bản.
Trong số các cơng trình liên quan đến những vấn đề giáo dục khoa cử truyền
thống xuất bản sau năm 2000, cơng trình có nhiều điểm mới trong cách tiếp cận
nghiên cứu – theo hướng xã hội học lịch sử - là cuốn Quan và Lại ở miền Bắc Việt
Nam – Một bộ máy hành chính trước thử thách (1820 – 1918) của Emmanuel

Poisson (năm 2006) [207]. Mặc dù không trực tiếp bàn về giáo dục khoa cử thời
Nguyễn nhưng Poisson đã chọn kết quả của hoạt động khoa cử theo như cách gọi
6


của ông là “đường dây tuyển dụng” làm đối tượng nghiên cứu. Đó chính là những
người chịu trách nhiệm quản lý (quan) và những nhân viên thừa hành (lại). Thông
qua hành trạng, tiểu sử cuộc đời của các quan, lại trong bộ máy hành chính, Poisson
chỉ ra chiến lược làm quan cũng như sự vận hành của bộ máy quan lại, qua đó tái
hiện phần nào hoạt động giáo dục khoa cử truyền thống, chỉ ra những mối quan hệ
chặt chẽ giữa giáo dục khoa cử và hệ thống quan lại của nhà Nguyễn.
Năm 2011, Nguyễn Công Lý cho ra mắt cuốn sách Giáo dục khoa cử và
quan chế ở Việt Nam thời phong kiến, thời Pháp thuộc [169]. Tuy mới xuất bản,
nhưng đây là cuốn sách được biên soạn theo lối tư duy truyền thống liệt kê, mô tả
sự kiện giáo dục và khoa cử Việt Nam qua các triều đại và kéo dài tới thời Pháp
thuộc với mục đích “để thế hệ trẻ hơm nay có tư liệu để tìm hiểu vấn đề khi cần
thiết” đồng thời “góp phần vào việc bảo lưu tinh hoa giá trị tinh thần truyền thống
của cha ông” [169, tr.VIII]. Với dung lượng 200 trang, cuốn Hệ thống giáo dục và
khoa cử Nho giáo triều Nguyễn của Nguyễn Ngọc Quỳnh xuất bản năm 2011 [238]
trình bày khái lược về hệ thống giáo dục và khoa cử của triều Nguyễn. Trong
nghiên cứu của mình, qua kết quả thống kê, Nguyễn Ngọc Quỳnh thấy được sự gia
tăng của tỷ lệ đỗ Cử nhân vùng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam và chỉ ra
nguyên nhân của hiện tượng này là do “tinh thần học hành khoa cử của các vùng
nay đang vươn lên” mà chưa luận giải được một trong những nguyên nhân sâu xa
của sự thay đổi đến từ chính sách khoa cử của triều Nguyễn.
Tạp chí Huế Xưa và Nay là một trong những tạp chí có đóng góp trong việc
cơng bố nhiều bài nghiên cứu có liên quan đến triều Nguyễn. Lê Nguyễn Lưu là
một trong những tác giả có nhiều bài viết về giáo dục khoa cử thời Nguyễn đăng
trên tạp chí này như: “Giáo dục triều Nguyễn – cái giá của Nho học” [166], “Hệ
thống tổ chức giáo dục thế kỷ XIX” [165], “Những thành tựu của nền giáo dục triều

Nguyễn” [167]. Ngồi ra, trên tạp chí cịn có các bài: “Vài nét về chính sách giáo
dục khoa cử của các vị vua đầu triều Nguyễn” của Nguyễn Văn Đăng [77], “Mấy
nét về giáo dục, đào tạo nhân tài thời Nguyễn” của Đặng Thị Tịnh [266]… Những
bài nghiên cứu trên tạp chí Huế Xưa và Nay góp phần hình thành nhận thức ngày
càng rõ hơn về những đóng góp của triều Nguyễn đối với hoạt động giáo dục và
khoa cử thế kỷ XIX.
Một trong những sức hút đối với các tác giả nghiên cứu về giáo dục khoa cử
thời Nguyễn từ sau khi Pháp xâm lược là sự chuyển đổi cơ bản từ nền giáo dục Hán
học truyền thống sang loại hình giáo dục Tây học. Trong số các cơng trình liên quan
đến sự chuyển giao mơ hình giáo dục cận đại, cần nhấn mạnh các tác phẩm của
Trịnh Văn Thảo. Với cách tiếp cận nghiên cứu lịch sử xã hội, qua cuốn sách Nhà
trường Pháp ở Đông Dương (năm 2009) [250], Trịnh Văn Thảo cho rằng việc Pháp
xâm lược Việt Nam khơng phải là sự chuyển giao quyền lực chính trị từ Nhà nước
này sang Nhà nước khác mà phải được coi là “một quá trình giải cấu trúc và cấu tạo
7


lại những bản sắc tập thể trong một thời gian dài” [250, tr.9]. Vì vậy, nội dung
chính của sách xoay quanh những chính sách của nhà trường Pháp ở Đơng Dương
từ hệ tư tưởng, quy mô, cơ cấu giáo dục đến sách giáo khoa và những vấn đề liên
quan đến học sinh, sinh viên Đông Dương thời bấy giờ. Trong cuốn sách thứ hai với
tiêu đề Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 – 1954) – Nghiên cứu Lịch sử xã hội
[251], cách tiếp cận nghiên cứu lịch sử xã hội của Trịnh Văn Thảo được trình bày rõ
ràng hơn khi ông kết nối tiểu sử của các nhà Nho Việt Nam thời Nguyễn qua ba thế
hệ năm 1862, 1907 và 1925 để chỉ ra sự khủng hoảng bên trong hệ thống giáo dục
truyền thống và những vấn đề duy tân ở Việt Nam. Điểm chung của hai cuốn sách
này ở chỗ Trịnh Văn Thảo không bàn nhiều đến nhà Nguyễn mà tập trung nhiều
hơn vào chính quyền thuộc địa và sự thay đổi của xã hội Việt Nam truyền thống
dưới tác động của quá trình thuộc địa nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Liên quan đến giáo dục Việt Nam thời thuộc địa, một trong những cơng trình

xuất bản mới đây nhất là cơng trình Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc Kỳ (1884 -1945) của
Trần Thị Phương Hoa (năm 2012) [107]. Trên cơ sở luận án Tiến sĩ, chọn Bắc Kỳ làm
địa bàn nghiên cứu chính, cơng trình của Trần Thị Phương Hoa tập trung giải quyết
những vấn đề liên quan đến nhà trường Pháp Việt ở Bắc kỳ từ 1884 đến 1945. Trọng
tâm của cuốn sách tìm hiểu, diễn giải cách thức, sự vận hành của nền giáo dục Tây
học vào Việt Nam nhiều hơn là lý giải sự suy giảm và lụi tàn của nền giáo dục cũ.
2.2.2. Các cơng trình liên quan đến thi Hương thời Nguyễn
Thập niên 90 của thế kỷ XX, Emmanuel Poisson và Philippe Langlet đã công
bố một số bài viết như: “Quan chức, thuộc viên hành chính cấp tỉnh và địa phương
tại Bắc kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX – Những tiếp cận bước đầu”, “Tập sự, một
phương tiện đào tạo quan lại” (Emmanuel Poisson) [205; 206]; Một số nhận xét về
xuất xứ của những người đỗ đạt qua các kỳ thi cử do triều đình Việt Nam tổ chức
(1802 – 1858) (Philippe Langlet) [148]… Đây là 3 trong nhiều bài viết có giá trị,
với cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về đội ngũ trí thức Bắc kỳ, sau khi đỗ thi
Hương, thi Hội.
Năm 2000, Phạm Đức Thành Dũng (và các đồng nghiệp) cho ra mắt cuốn
Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn [67] đề cập đến cả 2 loại hình thi văn
và thi võ dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, dung lượng về phần thi Hương trong sách
không lớn, dừng ở những nét đại cương. Phần mô tả về trường thi Hương Thừa
Thiên khơng nằm ngồi những quy định của triều Nguyễn được chép trong Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ. Sách chưa đề cập đến các trường thi Hương khác
trong cả nước. Chiếm dung lượng lớn trong sách là phần văn bia Tiến sĩ và Tạo sĩ.
Năm 2003, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, một Việt kiều tại Pháp cơng bố cơng
trình Khoa cử Việt Nam, gồm 2 tập (tập thượng - thi Hương; tập hạ - thi Hội). Từ ý
định ban đầu là “sưu tầm ảnh khoa cử” [239, tr.5], Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã khai
thác tư liệu và biên soạn thành 2 tập sách dày dặn chuyên khảo về khoa cử. Tuy
8


nhiên, như lời nhận xét của bà: “tôi không phải là “nhà nghiên cứu” [239, tr.5] nên

những thông tin trong cuốn sách tập trung vào việc sưu tầm, thống kê các hoạt động
khoa cử đã được ghi chép trong các tài liệu chính sử theo biên niên. Ngồi ra, sách
cũng trích dẫn nhiều tài liệu khác viết về khoa cử của Phạm Đình Hổ, Ngơ Tất Tố,
Chu Thiên, Đặng Thai Mai… khiến cho nội dung sách bị dàn trải, thiếu những phân
tích, nhận xét của riêng tác giả về hoạt động giáo dục khoa cử Việt Nam thời trung
đại. Mặc dù vậy, đóng góp của Nguyễn Thị Chân Quỳnh qua 2 cuốn sách là rất
đáng ghi nhận.
Về trường thi Hương Hà Nội: trên thực tế cho đến nay, chưa có cuốn sách
nào viết riêng về trường thi Hương Hà Nội. Những thông tin về trường Hà Nội chỉ
được nhắc đến như một phần nội dung trong các cuốn sách nghiên cứu về lịch sử
của Thăng Long – Hà Nội của các tác giả trong và ngoài nước. Cuốn Hà Nội giai
đoạn 1873 – 1888 của André Masson (năm 2003) [173] ghi chép nhiều thơng tin
hữu ích về trường Hà Nội giai đoạn Pháp xâm chiếm và đánh thành Hà Nội. Trong
cuốn Lịch sử Hà Nội [199], Philiippe Papin cũng đưa ra những nhận xét và kiến giải
của mình về vị trí, vai trị của trường thi Hà Nội trong q trình Hà Nội trở thành
thuộc địa của Pháp, tuy nhiên nội dung này chiếm dung lượng nhỏ trong cuốn sách.
Năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, tủ sách
Thăng Long ngàn năm văn hiến được xuất bản. William Logan cho ra mắt cuốn Hà
Nội – Tiểu sử một đô thị [162] giới thiệu Hà Nội với tư cách một đơ thị có lịch sử
lâu đời, trong đó Logan cho biết trường thi Hương Hà Nội vốn nằm tại địa điểm nay
là Thư viện Quốc gia Việt Nam. Trong nỗ lực giới thiệu tư liệu nước ngoài về
Thăng Long – Hà Nội, Nguyễn Thừa Hỷ và các cộng sự của mình cơng bố cuốn
sách Tư liệu văn hiến Thăng Long – Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây [124]
giới thiệu nhiều tư liệu hữu ích về lịch sử, văn hóa, xã hội, diện mạo của Thăng
Long – Hà Nội dưới con mắt của người nước ngồi, trong đó có những ghi chép của
bác sĩ Hocquard về trường thi Hà Nội từ sau khi người Pháp đánh thành Hà Nội.
Trên cơ sở tư liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Đào Thị Diến thông báo
nhiều tư liệu liên quan đến lịch sử Hà Nội nói chung trong đó có giáo dục Hà Nội
thời Nguyễn qua 2 tập sách Hà Nội qua tài liệu và tư liệu lưu trữ 1873-1945 [56;
57]. Trong tủ sách này, Bùi Xn Đính có cuốn Giáo dục và khoa cử Nho học

Thăng Long – Hà Nội [81], tuy nhiên sách không bàn nhiều đến hoạt động thi
Hương và trường thi Hương Hà Nội.
Giáo dục của Thăng Long – Hà Nội được Hoàng Mai Phương nhắc đến trong
bài viết “6 khoa thi Hương trường Thăng Long triều Nguyễn” đăng trên tạp chí Xưa
và Nay năm 2000 [202] và Hà Mạnh Khoa bàn đến năm 2006 với tiêu đề “Giáo dục
thời Nguyễn ở Thăng Long – Hà Nội (1802 – 1919) [137]. Tuy nhiên, hai bài viết
này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu thi Hương ở Thăng Long với số lượng trang
khiêm tốn, chưa có những phân tích, nhận xét chuyên sâu. Năm 2010, Nguyễn Hải
9


Kế, trên cơ sở đề tài khoa học cấp Nhà nước, đã chủ biên cuốn sách “Giáo dục
Thăng Long – Hà Nội – Quá trình, kinh nghiệm lịch sử và định hướng phát triển”
[127]. Hoạt động giáo dục khoa cử của Hà Nội trong 1000 năm lịch sử đã được làm
rõ hơn, đặc biệt nhóm tác giả đi sâu tìm hiểu bài học lịch sử rút ra từ hoạt động giáo
dục và tìm mối tương quan giữa giáo dục và phát triển hiện nay. Phần thi Hương
thời Nguyễn được trình bày trong sách một cách vắn tắt, với dung lượng vừa phải
so với chỉnh thể.
Về trường thi Hương Nam Định, nguồn tư liệu sơ cấp có thể kể đến là 2 cuốn
địa chí: Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược 新 編 南 定 省 地 輿 誌 略
của Khiếu Năng Tĩnh [268] và Nam Định tỉnh dư địa chí mục lục 南 定 省 輿 地
誌 目 錄 của Nguyễn Ơn Ngọc [184]. Ngồi ra, một chun khảo về Nam Định
[25] được tác giả nước ngoài là Camille Chapoulart viết trước cách mạng tháng Tám
năm 1945 có nhắc vài dòng về lịch sử trường thi Hương Nam Định.
Năm 1944, trên tạp chí Tri Tân, Trần Văn Giáp cơng bố bài viết chun khảo
có giá trị về “Các nơi trường thi và cách xếp đặt trong trường thi Nam Định” [89]
trình bày một cách cụ thể, rõ ràng về quy mơ, cấu trúc của trường thi Nam Định.
Ơng cũng vẽ sơ đồ cấu trúc của trường Nam Định – một trong những nguồn tư liệu
quý giá mà ít trường thi Hương còn lưu giữ được. Hơn nữa, bài viết của Trần Văn
Giáp cịn có giá trị thời sự bởi nó được cơng bố 29 năm sau sau khi trường Nam

Định đóng cửa.
Năm 1992, Đặng Hữu Thụ cho xuất bản cuốn sách Làng Hành Thiện và các
nhà Nho Hành Thiện [258] ghi chép nhiều thơng tin bổ ích, phong phú về giáo dục
khoa cử của làng Hành Thiện, Nam Định. Tác giả đã có những mơ tả về trường thi
Hương Nam Định nhưng không đề cập đến các môn thi bổ sung tiếng Pháp và chữ
Quốc ngữ của trường Nam Định thời Pháp thuộc. Cuốn Thành Nam xưa của Vũ
Ngọc Lý (năm 1997) [170] dành khoảng trên 20 trang viết về trường Nam Định và
các khoa thi Hương nhưng ở dạng giới thiệu khái lược. Trong phần Văn hoá của sách
Địa chí Nam Định (năm 2003) [269] có giới thiệu về trường thi Nam Định, tuy nhiên
với số lượng trang nhất định so với tổng thể của cuốn sách trong từng phần viết nên
những thơng tin trình bày dừng ở mức khái lược nhất. Vài nét về trường thi Hương
Nam Định xưa cũng được nhắc đến trong cuốn Lịch sử Đảng bộ và nhân dân phường
Trường Thi (1986-2005) (năm 2009) [8] vì trường thi này trước đây nằm trên địa bàn
của phường Trường Thi, thành phố Nam Định hiện nay.
Về các trường thi Hương khác trong cả nước có cơng trình nghiên cứu của
Tố Am Nguyễn Toại về “Trường thi Thừa Thiên” [274], Đào Tam Tĩnh về
“Trường thi Hương Nghệ An” [267]; Vũ Ngọc Liễn về “Trường thi Bình Định”
[161], Nguyễn Đình Tư với “Trường thi Hương Gia Định” [285]… Do nguồn tư
liệu trong các tài liệu chính sử ghi chép về các trường thi này rất ít ỏi nên những bài
viết này chỉ giới thiệu một cách sơ lược về các trường thi Hương với các nội dung
10


cơ bản như thành lập năm nào, vị trí ở đâu, hoạt động trong khoảng thời gian nào và
lấy đỗ bao nhiêu Hương cống, Cử nhân, Sinh đồ, Tú tài. Ngoài ra, cuộc sống học
tập và thi cử của các nhà Nho được bàn đến qua các bài viết: “Ông Nghè 13 tuổi:
Trịnh Hoa Đường” của Nhật Nam trên tạp chí Tri Tân (năm 1941) [179]; “Đồn Tử
Quang” của Hồng Xuân Hãn trên tạp chí Thanh Nghị (năm 1944) [99]; “Ông Tú
Xương với câu chuyện thi cử” của Phan Văn Dật trên tạp chí Đại học (năm 1958)
[55] ; “Sĩ phu Gia Định – Bình Dương” của Nguyễn Đình Đầu (năm 2002) [79]…

2.2.3. Các cơng trình nghiên cứu nước ngồi về thời Nguyễn và giáo dục
thời Nguyễn
Vấn đề giáo dục và khoa cử thời Nguyễn thu hút khơng ít các học giả nước
ngoài quan tâm, nghiên cứu. Vốn là học giả chuyên nghiên cứu về Trung Hoa, khi
chuyển sang nghiên cứu Việt Nam, năm 1971 lần đầu tiên Alexander Barton
Woodside đã công bố cuốn sách “Vietnam and the Chinese model – A Comparative
Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth
Century”, sau đó được tái bản nhiều lần [348]. Đến nay đây vẫn được được coi là
một trong những cuốn sách “kinh điển” đối với các nhà nghiên cứu trong và ngồi
nước khi tìm hiểu về nhà Nguyễn Việt Nam đặt trong cái nhìn so sánh với văn minh
Trung Hoa. Chương 4 của cuốn sách được Woodside dành riêng trình bày và luận
giải về những tương đồng và khác biệt của giáo dục Việt Nam thời Nguyễn và nhà
Thanh, trong đó có bàn đến thi Hương. Ngồi cơng trình nói trên, Woodside cịn có
nhiều bài viết liên quan đến giáo dục Việt Nam và triều Nguyễn như: “Some
Feature of the Vietnamese Bureaucracy under the Early Nguyen Dynasty” năm
1965 [346]; “Problem of Education in the Chinese and Vietnamese Revolution”
năm 1977 [347]; “Exalting the Latercomer State: Intellectuals and the State during
the Chinese and Vietnamese Reforms” năm 1998 [349]. Năm 2006, Woodside cho
xuất bản cuốn sách “Lost Modernities: China, Vietnam, Korea, and the Hazards of
World History” [350], trong đó ông nhấn mạnh vai trò của khoa cử và mối quan hệ
sâu sắc của nó với đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của các nước Á đơng này.
Tác giả nước ngoài thứ 2 cần nhắc đến trong các nghiên cứu về giáo dục triều
Nguyễn là Nola Cooke. Liên tục trong các năm từ 1994 đến 1999, Nola Cooke cơng
bố nhiều bài chun khảo trên các tạp chí quốc tế về triều Nguyễn và giáo dục khoa
cử triều Nguyễn. Trong các nghiên cứu của mình, Nola Cooke nhấn mạnh yếu tố
Nam bộ có tác động mạnh mẽ đến chính sách giáo dục của chúa Nguyễn và các vua
triều Nguyễn như trong các bài viết: “Regionalism and the Nature of Nguyen Rule in
Seventeenth Century Dang Trong (Cochinchina)” [321]; “Southern Regionalism and
the Composition of the Nguyen Ruling Elite (1802 - 1883)” [322]. Bài viết đáng chú ý
nhất của Nola Cooke là “19th Century Vietnam Confucianization in Historial

Perspective Evidence from Palace Examination 1463-1883” [319] công bố năm
1994. Trong nghiên cứu này, Nola Cooke cho rằng Nam bộ có những đặc điểm riêng
11


về điều kiện tự nhiên và xã hội khiến nhà Nguyễn khó khăn trong việc tái thiết lập hệ
thống thi cử ở Nam bộ như ở miền Bắc. Theo bà, muốn hiểu nhà Nguyễn phải hiểu
quá trình Nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX [319, tr.229].
Tuy không trực tiếp bàn đến những vấn đề giáo dục, thi cử, nhưng nhiều học
giả nước ngồi quan tâm nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và ảnh
hưởng qua lại giữa chính trị, hệ tư tưởng – Nho giáo với sự phát triển của Việt Nam
thế kỷ XIX qua các bài nghiên cứu như: Politics and Society in Vietnam during the
early Nguyen Period (1802-62) (R.B.Smith – 1974) [340]; Foreign Influence and
the Vietnamese Cultural Core: A Discussion of the Premodern Period (John K.
Whitmore – 1987) [344]; Southern Vietnam under the reign of Minh Mang (1820 –
1840) (Choi Byung Wook) [318]…
Nhiều ý tưởng và nội dung của luận án này được hình thành và phát triển
trên cơ sở học tập, kế thừa những kết quả nghiên cứu đi trước của các học giả trong
và ngồi nước đã được trình bày ở trên.
3. Mục đích, giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là đi sâu tìm hiểu thi Hương thời Nguyễn
thông qua hai nghiên cứu trường hợp (case study) là trường thi Hương Hà Nội và
Nam Định. Các khía cạnh khác nhau của 2 trường thi này như: lịch sử hình thành,
biến đổi; quy mơ, cấu trúc; thời gian hoạt động, tổ chức các kỳ thi; nội dung, cách
thức và những thay đổi trong thi Hương (trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược
Việt Nam); những hoạt động có liên quan đến quan trường và sĩ tử… được tập trung
nghiên cứu từ đó có thể phác họa bức tranh cụ thể, chi tiết về trường thi Hương thời
Nguyễn ở miền Bắc.
Những nhận thức và hiểu biết qua hai nghiên cứu trường hợp được đặt trong
tương quan so sánh với các trường thi Hương khác trong cả nước (trường Nghệ An,

Thanh Hóa, Thừa Thiên, Bình Định, Gia Định) nhằm đi sâu tìm hiểu vai trị, chức
năng và ảnh hưởng xã hội của các trường thi Hương dưới thời Nguyễn. Ngồi ra,
thơng qua việc so sánh, phân tích hoạt động của các trường thi Hương, trong đó lấy
trường Hà Nội và Nam Định làm nhân cốt, luận án tìm hiểu chính sách giáo dục của
nhà Nguyễn xun suốt trong hơn 100 năm thực thi hoạt động khoa cử. Từ đó đi
đến lý giải liệu có hay khơng “chính sách giáo dục vùng” của nhà Nguyễn nhằm
đáp ứng nhu cầu tuyển lựa nhân sự cho quốc gia mà lãnh thổ mở rộng hơn rất nhiều
so với các triều đại trước đó?.
Khơng dừng lại ở việc nghiên cứu, mơ tả các trường thi Hương, luận án đặt
mục tiêu tìm hiểu mối quan hệ giữa khoa cử với các khía cạnh khác của đời sống xã
hội như chính trị, văn hóa, xã hội để thấy được mối quan hệ chặt chẽ của chúng

12


nhằm tiếp cận theo hướng cần nhìn giáo dục trong mối tương quan nhiều chiều, đặt
đối tượng nghiên cứu trong chỉnh thể toàn diện của lịch sử, xã hội.
Ngoài ra, trên cơ sở nhận thức về các trường thi Hương Việt Nam thời
Nguyễn, luận án tập trung phân tích, so sánh để thấy được những tương đồng và
khác biệt giữa các trường thi Hương của Việt Nam và Trung Hoa. Tìm hiểu q
trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa Trung Hoa của nhà Nguyễn dưới khía cạnh khoa
cử giúp hiểu được sự “khúc xạ” hay tính “chủ động” của nhà Nguyễn trong q
trình tiếp nhận mơ hình Trung Hoa.
Tuy nhiên, vì đi sâu nghiên cứu thi Hương thơng qua các trường thi nên luận
án không đặt nhiệm vụ giải quyết vấn đề tư tưởng Nho học Việt Nam thế kỷ XIX
thơng qua nội dung các bài thi. Nói cách khác, do tính chất là kỳ thi đầu tiên, chủ
yếu kiểm tra kiến thức sĩ tử ở mức độ thuộc và hiểu kinh điển, với số lượng người
tham dự lớn nên luận án khơng đặt nhiệm vụ phân tích các bài thi Hương để tìm
hiểu tư tưởng của Nho giáo, Nho học Việt Nam. Loại hình nghiên cứu này sẽ phù
hợp hơn khi phân tích, đánh giá các bài thi Hội hoặc thi Đình như nhiều tác giả đi

trước đã thực hiện.
Giới hạn thời gian nghiên cứu của luận án tính từ khoa thi Hương đầu tiên
của nhà Nguyễn tổ chức thời vua Gia Long năm 1807 đến kỳ thi Hương cuối cùng
được tổ chức ở miền Bắc năm 1915. Mặc dù triều Nguyễn tồn tại đến năm 1945,
nhưng khoảng thời gian từ năm 1918 - sau khi kỳ thi Hương cuối cùng chấm dứt –
đến năm 1945 không nằm trong phạm vi thời gian nghiên cứu của Luận án.
Đa phần trong các nghiên cứu trước đây, các nhà nghiên cứu thường dừng thời
điểm nghiên cứu khoa cử triều Nguyễn ở năm 1858 khi thực dân Pháp xâm lược Việt
Nam. Trong luận án này, chúng tơi muốn nhìn nền giáo dục khoa cử của nhà Nguyễn
trong suốt chiều dài lịch sử để thấy được hoạt động khoa cử và vai trị của nó trong xã
hội Việt Nam truyền thống từ khi hình thành cho tới khi nền giáo dục Hán học ở Việt
Nam hoàn toàn chấm dứt. Việc nghiên cứu xuyên suốt giúp luận án có nhận thức một
cách hệ thống, khách quan về quá trình hoạt động của khoa cử Việt Nam thời
Nguyễn, mặc dù đối tượng nghiên cứu chỉ dừng ở cấp thi Hương.
Về phạm vi không gian, luận án tập trung nghiên cứu 2 trường thi Hương Hà
Nội và Nam Định thuộc miền Bắc Việt Nam. Đây là 2 trường thi tập trung nhiều
tinh hoa đại diện cho giới trí thức của khu vực châu thổ đồng bằng sông Hồng – nơi
được coi là cái “nôi khoa bảng” của cả nước. Để có được những nhận xét khách
quan, xác đáng về 2 trường thi này, luận án cũng tìm hiểu các trường thi khác ở
miền Trung và miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên vì khơng thuộc đối tượng nghiên
cứu chính của luận án nên phạm vi tìm hiểu các trường thi ở miền Trung và miền
Nam nhằm mục đích, phân tích, so sánh nhiều hơn là nghiên cứu mô tả.

13


×