Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐÀ NẴNG TRONG HAI NĂM 2002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.51 KB, 13 trang )

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐÀ NẴNG
TRONG HAI NĂM 2002-2003:
1.Tình hình rủi ro chung
Trong những năm qua, ngân hàng được đánh giá là hoạt động có hiệu quả, NHCT Đà Nẵng
là một trong hai Ngân hàng Thương mại Quốc doanh trên địa bàn được xếp ngân hàng loại một.
Công tác tín dụng năm qua tại ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực. Ngân hàng đã tăng
cường công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau cho vay - thực hiện đúng cơ chế tín dụng.
Từ đó, chất lượng tín dụng không ngừng được nâng lên, dư nợ tăng trưởng lành mạnh, nợ quá hạn
giảm. Tình hình cụ thể của ngân hàng, ta hãy xem xét qua bảng sau:
Bảng 6 TÌNH HÌNH DƯ NỢ bq , NỢ QUÁ HẠN bqVÀ NỢ KHÓ ĐÒI bq CỦA TÍN DỤNG
NGẮN HẠN VÀ TRUNG DÀI HẠN
Chỉ tiêu 2002 2003 Chênh lệch
Số tiền Số tiền Số tiền Tỉ lệ%
1. Dư nợ bq Tr.đ 1.231.189 1.385.600 154.411 12,54
- Ngắn hạn 1.014.995 1.079.495
- Trung dài hạn 216.144 306.105
2. Nợ quá hạn bq Tr.đ 19.774 11.901 -7.873 -39,82
- Ngắn hạn 12.407 7.479
- Trung dài hạn 7.367 4.422
3. Nợ khó đòi bq Tr.đ 2.154 320 -1.834 -85,14
- Ngắn hạn 1.747 228
- Trung dài hạn 407 92
4. NQH bq/DN bq % 1,61 0,86 -0,75 -46,58
- Ngắn hạn 1,22 0,69
- Trung dài hạn 3,41 1,44
5. NKĐ bq/NQH bq % 10,89 2,69 -8,20 -75,30
- Ngắn hạn 14,08 3,05
- Trung dài hạn 5,52 2,08
Qua bảng trên, ta khẳng định một điều rằng rủi ro tín dụng luôn tồn tại, các khoản tín dụng
luôn tiềm ẩn rủi ro. Đó là hiện thực khách quan. Rủi ro tín dụng như trình bày ở phần Lý luận là
rủi ro khách hàng không trả được nợ đúng, đầy đủ khi đến hạn, được biểu hiện qua nợ quá hạn


bình quân (NQH bq) và nợ khó đòi bình quân (NKĐ bq)
Qua hai năm, NQH bq, NKĐbq mặc dù có tồn tại nhưng đã có xu hướng giảm mạnh. Cụ thể
năm 2002, NQH bq là 19.774 triệu đồng, năm 2003 là 11.901 triệu đồng. Như vậy NQHbq đã
giảm về mặt tuyệt đối 7.873 triệu đồng tương ứng với số tương đối là 39,82%, trong đó có sự giảm
đều của cả NQH bq ngắn hạn và trung dài hạn. NQH bq ngắn hạn năm 2002 là 12.407 triệu đồng
chiếm 62,74% trên nợ NQH bq, NQH bq trung dài hạn có giá trị 7.367 triệu đồng, chiếm 37,26%
trên NQH bq. Như vậy, NQH bq tập trung chủ yếu trong lĩnh vực cho vay ngắn hạn, điều này cũng
dễ hiểu vì lĩnh vực này có mức dư nợ lớn nhất là 1.014.995 triệu đồng (năm 2002). Thông thường,
lĩnh vực nào có dư nợ cho vay lớn thì rủi ro hàm chứa lớn.
Cuối năm 2003, NQH bq cả hai bộ phận này đều giảm xuống còn 7.479 triệu đồng NQH bq
ngắn hạn, tương ứng với mức giảm 4.928 triệu đồng, tức là 39,72% và 4.422 triệu đồng NQH bq
trung và dài hạn, tương ứng với mức giảm 2.945 triệu đồng, tức giảm 39,98% so với năm 2002 –
chất lượng tín dụng có khả quan hơn. Đây là điều đáng mừng của ngân hàng .
NQH bq được chia làm ba loại: NQH bq dưới 6 tháng, NQH bq từ 6-12 tháng và NQH bq
trên 12 tháng trong đó NQH bq trên 12 tháng được coi là NKĐ bq. Năm 2002, NKĐ bq có giá trị
2.154 triệu đồng gồm 1.747 triệu đồng NKĐ bq ngắn hạn và 407 triệu đồng NKĐ bq trung dài
hạn, đến cuối năm 2003, NKĐ bq chỉ còn 320 triệu đồng, trong đó 228 triệu đồng NKĐ bq ngắn
hạn và 92 triệu đồng NKĐ bq trung dài hạn. Như vậy, so với 2002, NKĐ bq đã giảm một lượng
1.834 triệu đồng, tương ứng với tốc độ giảm 85,14%. Rõ ràng đây là một thành quả rất lớn của Chi
nhánh, một lượng lớn NKĐ bq đã được thu và hạn chế đến mức thấp nhất NKĐ bq phát sinh trong
năm 2003 .
NQH bq giảm mạnh trong khi dư nợ lại tăng, chính sự biến động ngược chiều này làm cho tỉ
lệ NQH bq giảm xuống một cách nhanh chóng. Năm 2002, tỉ lệ này là 1.61%; năm 2003 chỉ còn
0,86% giảm 0,75% với tốc độ 46,58%. Hiện tại, cứ 100 đồng dư nợ bq thì ngân hàng có 0,86 đồng
NQH bq. So với các Ngân hàng Thương mại khác thì đây là con số lý tưởng .
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung
thường xuyên xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tiền tệ, đã có tác động nhất định đến
hoạt động của các doanh nghiệp trong nước. Chi nhánh NHCT Đà Nẵng với đối tượng cho vay
chủ yếu là các doanh nghiệp, công ty TNHH, cổ phần nên không tránh khỏi rủi ro. Nhưng hiện tại,
tỉ lệ NQH bq của ngân hàng được đánh giá là thấp. Điều này chứng tỏ sự thành công của ngân

hàng khi thực hiện cho vay có chọn lọc, theo quan điểm tăng trưởng dư nợ đi đôi với việc an toàn
lành mạnh tài chính, công tác thu hồi nợ được ngân hàng chú trọng, quan tâm nhiều, chất lượng tín
dụng ngày càng được nâng cao.
Việc loại trừ hoàn toàn những rủi ro này là không thực tế mà vấn đề đặt ra ở đây là phải tiến
hành nghiên cứu phân tích thực trạng và nguyên nhân để hạn chế tới mức thấp nhất, cải thiện hơn
nữa việc kinh doanh của mình. Đây là nghệ thuật thể hiện " tài cán" trong kinh doanh của mỗi
ngân hàng .
2. Rủi ro tín dụng trong ngắn hạn
Tín dụng là nghiệp vụ hàng đầu có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của một ngân hàng. Và tín dụng ngắn hạn là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng
thương mại bởi khả năng thu hồi vốn nhanh, đảm bảo nguồn vốn và cho vay mới. Đối với
NHCTVN Chi nhánh Đà Nẵng cũng vậy, cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu
cho vay và nó mang tính chất quyết định đến lợi nhuận của ngân hàng trong hoạt động cho vay
này.
a) Phân tích theo thành phần kinh tế:
Bảng 7: BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CỦA CHO VAY NGẮN HẠN
THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
Đvt: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu DNbq
NQH
bq
NQHbq/
DNbq(%
)
NKĐ
bq
NKĐbq/
NQHbq
(%)

- KTNN
- KTNQD
915.132
99.863
8.530
3.877
0,92
3,88
1.123
624
13,17
16,10
Tổng
1.014.995 12.407 1,22 1.747 14,08
- KTNN
- KTNQD
885.075
194.420
5.914
1.565
0,67
0,81
171
57
2,89
3,64
Tổng 1.079.495 7.479 0,69 228 3,05
Chênh
-KTNN
-KTNQD

-30.057
94.557
-2.616
-2.312
-0,26
-3,07
-952
-567
-10,28
-12,46
Tốc độ
tăng giảm
(%)
- KTNN
- KTNQD
-3,28
94,69
-30,67
-59,63
-27,96
-79,12
-84,77
-90,87
-78,06
-77,39
Khách hàng của ngân hàng có thể chia làm hai thành phần kinh tế chính: kinh tế Nhà nước
và kinh tế ngoài quốc doanh (KTNN và KTNQD)- trong đó bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn
(Co TNHH), công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, tập thể và những đối tượng khác. Năm 2002
thành phần KTNN có mức dư nợ bq ngắn hạn 915.132 triệu đồng trong đó NQH bq là 8.530 triệu
đồng, chiếm 68,75% trên tổng số NQH bq ngắn hạn, tuy nhiên so với dư nợ bq của thành phần

kinh tế này thì nó chỉ chiếm 0,93%, có nghĩa là bình quân trong 100 đồng dư nợ ngắn hạn thì chỉ
có 0,93 đồng NQH. Với tỉ lệ như vậy có thể thấy rằng thành phần này có rủi ro rất thấp. Đối với
thành phần KTNQD năm 2002, dư nợ bq của thành phần kinh tế này là 99.863 triệu đồng trong đó
NQH bq có giá trị 3.877 triệu đồng tương đương với tỉ trọng 31,25% NQH bq ngắn hạn, và chiếm
3,88% so với dư nợ bq của thành phần này. Như vậy, nếu so sánh tỷ lệ NQHbq/dư nợ bq thì thành
phần KTNQD có tỷ lệ cao hơn nhiều so với KTNN (gấp 4,17 lần), điều đó đồng nghĩa với việc rủi
ro tín dụng ngắn hạn của bộ phận này cũng cao hơn.
Trong 12.407 triệu đồng NQH bq ngắn hạn năm 2002 có 1.747 triệu đồng NKĐ bq trong đó
KTNN là 1.123 triệu đồng, chiếm 64,28%, và KTNQD là 624 triệu đồng, chiếm 35,72 %.
Chất lượng tín dụng hay mức độ rủi ro tín dụng được đo lường, thể hiện ở tỉ lệ
NQHbq/DNbq, NKĐbq /NQHbq. Năm 2002 tỉ lệ NQHbq/DNbq (gọi tắt là tỉ lệ NQH bq) là
1,22%, tỉ lệ NKĐbq/NQHbq (tỉ lệ NKĐbq) là 14,08%. Có thể nói rằng mức độ rủi ro tín dụng của
ngân hàng không cao vì thông thường thì tỉ lệ NQH bq <3% được coi như an toàn. Còn NKĐ bq
mặc dù chiếm tỷ trọng khá cao trong NQH bq nhưng ngược lại NQH bq lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
trong tổng dư nợ bq, do vậy nếu so với dư nợ bq thì NKĐ bq như vậy là không đáng kể.
Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các công ty, doanh nghiệp
không ngừng ra đời và phát triển, vốn là nhu cầu không thể thiếu của những đối tượng này. Đây là
một thị trường đầy tiềm năng, là cơ hội chuyển hướng kinh doanh của các ngân hàng. Xác định
được xu hướng này, trong định hướng hoạt động của Chi nhánh trong thời gian tới rất chú trọng
đến thành phần KTNQD. Và bước đầu đã đạt được những thành công khá khả quan khi dư nợ bq
ngắn hạn của thành phần này không ngừng tăng, năm 2003 đạt 194.420 triệu đồng, tăng 94,69% so
với 2002.
Quy mô tín dụng bq ngắn hạn năm 2003 của ngân hàng đạt 1.079.495 triệu đồng, tăng
6,36% so với 2002, tuy nhiên dư nợ bq của thành phần KTNN lại không tăng chứng tỏ trong năm
qua ngân hàng không mở rộng quan hệ thêm đối với đơn vị doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Điều
này cũng dễ hiểu bởi trong định hướng hoạt động của mình Chi nhánh cũng đã chủ trương ưu tiên
đẩy mạnh cho vay đối với thành phần KTNQD vì đây là những đối tượng đầy tiềm năng. Điều
đáng mừng ở đây là tỷ lệ nợ NQH bq đã giảm với tốc độ rất nhanh nhờ sự biến động ngược chiều
giữa dư nợ bq và NQH bq. Cụ thể dư nợ tăng với tốc độ 6,36% thì NQH bq đã giảm với tốc độ
39,72%. Trong đó có sự giảm đều của các thành phần kinh tế mặc dù với tốc độ giảm khác nhau:

KTNN giảm 2.616 triệu đồng, tương ứng với tốc độ 30,67%; KTNQD giảm 2.312 triệu đồng
tương ứng với tốc độ 59,63%. Từ đó tỉ lệ NQH bq giảm và chỉ còn 0,69%. Trong đó thành phần
KTNN còn 0,67%, thành phần KTNQD còn 0,81%.
Đối với NKĐ bq cũng giảm một lượng đáng kể và hiện chỉ còn 228 triệu đồng năm 2003,
giảm 1.519 triệu đồng, tương ứng với tốc độ 86,95%, trong đó chủ yếu là nhờ sự giảm NQH bq
của thành phần KTNN: Giảm từ 1.123 triệu đồng xuống còn 171 triệu đồng, tức giảm một lượng
là 952 triệu đồng tương ứng với tốc độ 84,77%, bên cạnh đó KTNQD cũng giảm một lượng 567
triệu đồng tương ứng với tốc độ 90,87%.
Tỉ lệ NKĐbq/NQHbq cũng giảm và chỉ còn 3,05% (giảm với tốc độ 78,34%) trong đó tỉ lệ
NKĐ bq của thành phần KTNN giảm với tốc độ 78,06%, KTNQD là 77,39%.
Để đạt được kết quả như trên phải kể đến sự quan tâm tới công tác kiểm tra nội bộ hoạt động
tín dụng của ngân hàng, thanh tra chuyên trách kiểm tra theo định kỳ. Hàng ngày, qua cân đối vốn
kinh doanh, nếu trên bảng cân đối phát sinh NQH rơi vào cán bộ tín dụng (CBTD) nào cho vay thì
CBTD đó giải trình và đôn đốc người vay thu xếp để trả nợ vay ngân hàng. Do CBTD bám sát
khách nợ, sự kiểm tra đôn đốc kịp thời của ban lãnh đạo, nên nếu có trường hợp nào phát sinh
NQH thì chỉ sau một thời gian ngắn người vay sẽ trả hết nợ NQH cho ngân hàng. Như vậy, với nỗ
lực phấn đấu giảm thấp rủi ro ngân hàng đã đưa NQH bq, NKĐ bq ngày càng giảm thấp, huy vọng
rằng thành quả này sẽ được tiếp tục phát huy hơn nữa.
b) Phân tích theo ngành nghề
Hiện nay, cơ cấu cho vay theo ngành nghề của ngân hàng bao gồm hai ngành cơ bản: thương
mại dịch vụ (TMDV) và công nghiệp. Cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 8 : BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CỦA CHO VAY NGẮN HẠN THEO
NGÀNH
Đvt : triệu đồng
Năm Chỉ tiêu DN bq
NQH
bq
NKĐ
bq
Tỉ lệ

NQHbq
%
Tỉ lệ
NKĐbq
%
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3. Xây dựng
102.819
880.001
32.175
761
11.218
428
35
1.685
27
0,74
1,28
1,33
4,60
15,02
6,31
Tổng 1.014.995 12.407 1.747 1,22 14,08
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3. Xây dựng
94.456
938.405
46.634

444
6.799
236
9
219
0
0,47
0,72
0,51
2,03
3,22
0
Tổng 1.079.495 7.479 228 0,69 3,05
Chênh
lệch
1. Công nghiệp
2.Thương mại- dịch vụ
3.Xây dựng
-8.363
58.404
14.459
-317
-4.419
-192
-26
-1.466
-27
-0,27
-0,56
-0,82

-2,57
-11,80
-6,31
Tốc độ
tăng%
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3.Xây dựng
-8,13
6,64
44,94
-41,66
-39,39
-44,86
-74,26
-87,00
-100
-36,49
-43,75
-61,65
-55,87
-78,56
-100
Qua bảng trên ta thấy ngành thương mại dịch vụ (TM-DV) có dư nợ bq chiếm tỉ trọng chủ
yếu trong tổng dư nợ bq ngắn hạn, năm 2002 đạt 880.001 triệu đồng chiếm 86,70% còn ngành
công nghiệp đạt mức 102.819 triệu đồng tương ứng 10,13%. NQH bq ngắn hạn năm 2002 là
12.407 triệu đồng trong đó NQH bq của TM-DV đã có 11.218 triệu đồng chiếm 90,42% trong khi
công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 9,58% NQH bq ngắn hạn. Mặc dù vậy, tỉ lệ NQH bq các
ngành cũng không chênh lệch nhau nhiều lắm. Cụ thể: tỉ lệ NQH bq của ngành TM-DV là 1,28%,
ngành công nghiệp 0,74%, còn của xây dựng là 1,33%.

Sở dĩ NQH bq của ngành TM-DV cao như vậy là do trong kinh doanh mua bán hiện nay
người ta rất ít áp dụng hình thức thanh toán ngay (giao hàng xong là nhận tiền), mà người ta
thường sử dụng hình thức thanh toán sau, thanh toán gối đầu (tức là tiền hàng của đợt giao hàng
thứ nhất chỉ được thanh toán khi bán xong và nhận đợt giao hàng thứ hai). Do đó đối với các
doanh nghiệp có khả năng tài chính yếu thì rất dễ dẫn đến tình trạng NQH. Với những khách hàng
này không thể xếp họ vào thành phần những khách hàng xấu bởi họ không hề cố ý gây ra. Mặc
khác, đây thường là những khoản nợ ngắn hạn (dưới 6 tháng) nên khả năng thu hồi vốn là rất cao.
Đối với NKĐ bq cũng vậy, ngành công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 3,55%, còn lại là của
ngành TM-DV với 96,45%, do đó ngành TM-DV là ngành có tỉ lệ NKĐ bq (14,70%) cao hơn so
với ngành công nghiệp (4,60%) và xây dựng (6,31%).
Sang năm 2003, tình hình đã có nhiều khả quan hơn khi dư nợ bq tăng, thì NQH bq đã giảm
với một lượng rất đáng kể. Điều đó giúp cho tỉ lệ NQH bq của cả hai ngành đều giảm xuống. Cụ
thể: dư nợ bq tăng 6,36% còn NQH giảm xuống còn 7.479 triệu đồng trong đó ngành TM-DV là
6.799 triệu đồng, giảm 39,39%, ngành công nghiệp là 444 triệu đồng, giảm 41,66%, xây dựng là
236 triệu đồng, giảm 44,86%.
NKĐ bq giảm mạnh và chỉ còn 228 triệu đồng, tương đương với tốc độ 86,95%, ngành TM-
DV giảm 1.466 triệu đồng với tốc độ 87,00%, ngành công nghiệp giảm 26 triệu đồng với tốc độ
74,28%, ngành xây dựng không còn NKĐ bq. Như vậy, cùng với sự giảm mạnh của NQH bq,
NKĐ bq đã làm cho tỉ lệ NQH bq, NKĐ bq giảm nhanh. Cụ thể: tỉ lệ NQH bq của ngành TM-DV
giảm từ 1,28% xuống còn 0,72% giảm với tốc độ 43,75%, ngành công nghiệp giảm từ 0,74 xuống
còn 0,47%, giảm với tốc độ 36,49%, xây dựng giảm 61,65%. Tỉ lệ NKĐ bq /NQH bq ngành công
nghiệp giảm còn 2,03% với tốc độ 55,87%; ngành TM-DV giảm còn 3,22% với tốc độ 78,56%.
Năm 2003, ngân hàng đã có những giải pháp tích cực trong việc thu hồi nợ, thu lãi. Song,
NQH giảm cũng phải kể đến sự bám sát tình hình hoạt động của từng đơn vị vay vốn của CBTD
và họ đã cho gia hạn kịp thời. Hầu hết các khoản nợ ngân hàng đều được gia hạn nếu trong trường

×