Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THU TRANG

TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

ĐỖ THỊ THU TRANG

TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Hương

Hà Nội - 2013


MC LC


PHầN Mở ĐầU ................................................................................................... 1
I. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 6
II. Lịch sử vấn đề. ............................................................................................. 7
3. Giới hạn đề tài: ........................................................................................... 10
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu. .......................................................................... 10
5. Đóng góp của luận văn............................................................................... 11
6. Kết cấu của luận văn. ................................................................................. 11
Phần nội dung ............................................................................................. 12
Ch-ơng 1: Tiểu thuyết của Lê Lựu trong bối cảnh ............ 12
tiểu thuyết Việt Nam đ-ơng đại .................................................... 12
1.1 Khái l-ợc về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới .. Error! Bookmark not
defined.
1.1.1 Nhng tin ca cụng cuc i mi vn hc Vit Nam sau 1975 12
1.1.2.Khỏi lc v tiu thuyt Vit Nam thi kỡ i mi ........................... 15
1.1.2.1. Nhng nột chung v th loi tiu thuyt...................................... 15
1.1.2.2. Khỏi lc v tiu thuyt Vit Nam thi kỡ i mi ...................... 16
1.2. Tiu thuyt Lờ Lu t sau 1975 ............................................................. 22
1.2.1. Khỏi lc v tiu thuyt ca Lờ Lu thi kỡ i mi ...................... 22
1.2.2. Nhng i mi, cỏch tõn ca tiu thuyt Lờ Lu ........................... 26
Ch-ơng 2: Những nguồn cảm hứng chủ đạo của tiểu
thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới .......................................................... 28


2.1. Cảm hứng nhận thức lại lịch sử ............................................................. 28
2.2. Cảm hứng bi kịch .................................................................................... 35
2.3. Cảm hứng thế sự ...................................................................................... 50
Ch-ơng 3: Nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới
.............................................................................................................................. 69
3.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ................................................................ 69
3.2. Nghệ thuật xây dựng không gian ........................................................... 76

3.2.1. Khụng gian nụng thụn nghốo kh, tm ti, lc hu ........................ 77
3.2.2. Khụng gian ụ th ngt ngt, bc bi ............................................... 81
3.2.3. Khụng gian tõm tng ...................................................................... 87
3.3. Nghệ thuật trần thuật ............................................................................. 91
3.3.1. Điểm nhìn trần thuật ........................................................................ 91
3.3.2. Giọng điệu trần thuật ........................................................................ 96
3.3.3. Ngôn ngữ ......................................................................................... 101
3.5. Ngh thut xõy dng nhõn vt ............................................................. 106
3.5.1. Ngh thut to tỡnh hung th thỏch ............................................ 106
3.5.2. Ngh thut miờu t ngoi hỡnh nhõn vt ....................................... 113
Phần kết luận ........................................................................................... 121
Danh mc Tài liệu tham khảo ........................................................ 124


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1.1.Với chiến thắng vĩ đại mùa xuân 1975, dân tộc ta đã giành đƣợc độc lập, tự
do trên toàn cõi Tổ quốc thống nhất. Chiến tranh kết thúc, đất nƣớc trở về cuộc sống
bình thƣờng, lịch sử văn học bƣớc sang một giai đoạn mới.
Nếu văn học 1945 - 1975 mang đến những hình tƣợng con ngƣời lí tƣởng,
những con ngƣời " quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" thì văn học sau 1975 đến nay đã
mang một diện mạo mới. Hoàn cảnh thay đổi, lịch sử thay đổi thì hệ quả tất yếu là tâm
tƣ, tình cảm, nhận thức của con ngƣời cũng thay đổi. Văn học không nằm ngoài quy
luật phát triển đó. Cuộc chiến đấu giành quyền sống, quyền tự do cho cả dân tộc đã kết
thúc thắng lợi thì giờ đây cuộc chiến đấu giành quyền sống, quyền hạnh phúc của từng
cá nhân con ngƣời đƣợc đặt lên hàng đầu. Con ngƣời với muôn vàn sự phức tạp đa
chiều, nhiều phƣơng diện đã mang đến một đòi hỏi tất yếu là văn học phải thay đổi để
phản ánh nó. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng
lãng mạn của văn học giai đoạn trƣớc 1975 mờ nhạt dần, thay vào đó là cảm hứng đời
tƣ, thế sự. Đất nƣớc cần đƣợc đổi mới toàn diện và sâu sắc, văn học cũng đòi hỏi nhƣ

vậy. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định " Đổi mới đang là yêu cầu
bức thiết", " có ý nghĩa sống còn". Đại hội Đảng lần thứ VI là một sự kiện lịch sử trọng
đại đã cắm một cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học nƣớc nhà.
Một phong trào nói thẳng, nói thật, những vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức
về cái tôi... đã trở thành chủ đề nổi bật. Những vấn đề này thể hiện rõ nét ở tất cả các
thể loại văn học trong đó có tiểu thuyết.
1.2. Trên dòng chuyển đổi mạnh mẽ ấy, chúng ta bắt gặp Lê Lựu - một cây bút
xuất sắc, một trong những ngƣời đi tiên phong góp phần to lớn vào sự đổi mới của nền
văn học Việt Nam đƣơng đại. Trƣớc Thời xa vắng ngƣời đọc đã biết đến Lê Lựu với


những truyện ngắn: Trong làng nhỏ, Nguời cầm súng, Người về đồng cói... và tiểu
thuyết đầu tay: Mở rừng. Nhƣng phải đến Thời xa vắng Lê Lựu mới chính thức trở
thành một hiện tƣợng, trở thành trung tâm của nhiều cuộc tranh cãi, nhiều bài phê bình,
đánh giá, tìm hiểu. Sau thành công vang dội của Thời xa vắng, Lê Lựu không ngủ yên
trên vinh quang, ông tiếp tục cho ra đời những tác phẩm gây nhiều tiếng vang: Đại tá
không biết đùa (1989); Chuyện làng Cuội (1990); Sóng ở đáy sông (1995); Chuyện hai
nhà (2000). Tất nhiên không phải tác phẩm nào cũng là đỉnh cao của văn học, nhƣng
có thể khẳng định các tác phẩm trên là minh chứng cho tinh thần lao động hăng say,
miệt mài, nghiêm túc và phong cách sáng tạo độc đáo của tác giả.
1.3. Lê Lựu từng đoạt nhiều giải thƣởng văn học cao quý nhƣ Giải thƣởng Nhà
nƣớc về Văn học nghệ thuật, Giải thƣởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhiều tác phẩm
nổi tiếng của ông nhƣ Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông đã đƣợc chuyển thể điện ảnh và
tạo đƣợc tiếng vang lớn, rộng rãi trong công luận.
1.4. Hành trình tiểu thuyết của Lê Lựu sau 1975 cũng phản ánh khá rõ tiến trình
vận động, đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. Tìm hiểu hành trình tiểu thuyết
của Lê Lựu sau 1975, do vậy cũng góp phần làm sáng tỏ những nỗ lực cách tân, thành
tựu chung của tiểu thuyết và văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Chính vì những lí do đó chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Tiểu thuyết Lê Lựu

thời kì đổi mới.
II. Lịch sử vấn đề
Cái tên Lê Lựu không còn xa lạ gì đối với độc giả. Ông thuộc lớp nhà văn quân
đội, ra đời và trƣởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nƣớc. Sau hành trình
sáng tác dẻo dai, Lê Lựu đã tạo dựng đƣợc phong cách riêng độc đáo, thu hút đƣợc sự
quan tâm mến mộ của nhiều thế hệ công chúng.
Cho đến nay đã có rất nhiều bài nghiên cứu về các tiểu thuyết của Lê Lựu nhƣ:
"Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn" của Phong Vũ, "Mỗi người
phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" hay "Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác


phẩm" in trên báo Văn nghệ tháng 12- 1986, "Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng"
của Lê Thành Nghị, " Chuyện phiếm với anh Sài" của Hồng Vân, "Nghĩ về một Thời xa
vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một Thời xa vắng" của
Nguyễn Văn Lƣu, "Đọc "Thời xa vắng" của Lê Lựu" của Hoàng Ngọc Hiến, "Một đóng
góp vào việc nhận diện con người hôm nay" của Vƣơng Trí Nhàn, ''Một giờ với nhà
văn Lê Lựu" của Nguyễn Hữu Sơn, "Lê Lựu - Thời xa vắng" của Đinh Quang Tốn, "Lê
Lựu - Chân dung văn học" của Trần Đăng Khoa, “Hiệu ứng Thời xa vắng” của Bảo
Ninh… Trong đó nhiều bài viết tập trung vào tiểu thuyết đặc sắc: Thời xa vắng.
Trần Đăng Khoa trong Chân dung và đối thoại đã nhận xét: "Với 300 trang
sách, tiểu thuyết Thời xa vắng đã ôm chứa một dung lượng lớn. Đúng là một chặng
đường lịch sử oai hùng. Chặng đường 30 năm, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng
toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết, bằng số phận có thể nói là
bi thảm của anh nông dân Giang Minh Sài…". Theo Trần Đăng Khoa, Lê Lựu đã có
nhiều trang viết đạt tiêu chuẩn Nam Cao. Dù khen hay chê thì hầu hết các nhà nghiên
cứu đều phải công nhận "Thời xa vắng của Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực
quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận và đánh giá lại hiện thực. Sự phản ánh chân
thực, sinh động cái hoàn cảnh nhào nặn nên con ngƣời đó, sự nín nhịn, nhẫn nhục và
vùng vẫy cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lí và hành động của anh ta đã đƣợc
Lê Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh ngƣời đọc, gợi ra những liên tƣởng có

ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi ngƣời đang rất quan tâm. Thời xa vắng phản ánh khá
sâu sắc một giai đoạn tâm lí của nông dân, giai đoạn vùng lên, hòa theo, nhập thân
hoàn toàn vào đời sống của một xã hội mới".
Lê Thành Nghị với "Thời xa vắng - một tâm sự nóng bỏng", Thiếu Mai với
"Nghĩ về một Thời xa vắng", Nguyễn Văn Lƣu với " Nhu cầu nhận thức lại thực tại
qua một Thời xa vắng", Nguyễn Hà với " Suy tư từ một Thời xa vắng"… đều chỉ ra một
cách sâu sắc về những cách tân mới mẻ của Lê Lựu. Đó chính là đã đặt ra vấn đề nhận
thức lại một Thời xa vắng - một thời yêu hộ, sống hộ, sống bằng ý nghĩ, tình cảm của
ngƣời khác.


Hoàng Ngọc Hiến và sau này là Nguyễn Thu Hằng lại nhìn thấy đề tài ngƣời
nhà quê và đô thị, thấy đƣợc "ngƣời nhà quê vĩ đại" của anh cu Sài.
Vƣơng Trí Nhàn trong bài " Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm
nay" đã chỉ ra những đóng góp cũng nhƣ hạn chế về mặt nội dung và nghệ thuật của
nhà văn. Với " Lê Lựu - Thời xa vắng", Đinh Quang Tốn lại đi khá sâu vào sự nghiệp
và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm. Còn "Chân dung và đối thoại" Trần Đăng Khoa lại
chủ yếu khai thác nghệ thuật của Thời xa vắng. Một số tiểu thuyết của Lê Lựu: Thời xa
vắng, Sóng ở đáy sông, Đại tá không biết đùa đã đƣợc đƣa vào từ điển tác phẩm học và
đều đƣợc công chúng quan tâm, phê bình.
Bài viết " Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới" của Đỗ Hải Ninh cũng nêu ra
đƣợc những vấn đề cơ bản của tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới nhƣng tác giả chƣa đi
sâu vào phân tích cụ thể và cũng chƣa nghiên cứu một cách hệ thống.
Xung quanh ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu ta thấy đƣợc thái độ thẳng
thắn và sự trân trọng của các tác giả đối với cái tâm, cái tài, cái chí của Lê Lựu. Có
những ý kiến khen ngợi đánh giá cao, cũng có những điểm phê bình, chỉ ra mặt còn
gƣợng gạo, khiên cƣỡng về nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm nhƣng tựu chung lại
tất cả đều khẳng định khả năng viết bền, viết nghiêm túc và những đóng góp không
nhỏ của Lê Lựu đối với nền văn học đổi mới. Đúng nhƣ nhà nghiên cứu Đinh Quang
Tốn nhận xét: "Nếu trong tổng số 600 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, cứ 10 người

chọn lấy 1 người tiêu biểu thì Lê Lựu là 1 trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi
hiện đại, chọn lấy 30 tác phẩm thì có mặt Thời xa vắng".
Bên cạnh những bài viết của các nhà văn, nhà phê bình, nghiên cứu về Lê Lựu,
còn có một số khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ đề cập đến vấn đề tiểu thuyết của
Lê Lựu.
Nhìn chung, có thể thấy cho đến nay số bài viết về sáng tác của Lê Lựu rất
nhiều, song chƣa có công trình luận văn nào khảo sát một cách toàn diện, hệ thống tiểu
thuyết của Lê Lựu. Chính vì thế, trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu về Lê
Lựu, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “ Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới”. Với đề


tài này ngƣời viết mong muốn có một cái nhìn khái quát, toàn diện hơn về tiểu thuyết
của Lê Lựu, từ đó thấy đƣợc đặc điểm tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới và những
cách tân, đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam.
3. Giới hạn đề tài
Với gần nửa thế kỉ miệt mài sáng tác, Lê Lựu đã đóng góp một khối lƣợng tác
phẩm khá đồ sộ, phong phú gồm: 9 tập truyện, 2 tập kí và 8 cuốn tiểu thuyết. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn, chúng tôi không thể tiến hành khảo sát, phân tích tất cả
các sáng tác của Lê Lựu mà chỉ tập trung chủ yếu ở 4 tác phẩm tiêu biểu của nhà văn:

- Thời xa vắng ( 1984)
- Chuyện làng Cuội ( 1990)
- Sóng ở đáy sông ( 1995)
- Hai nhà ( 2000)
Luận văn tiến hành khảo sát, phân tích, tìm hiểu đặc điểm tiểu thuyết của Lê
Lựu từ đó làm nổi bật sự đổi mới, cách tân và đóng góp của Lê Lựu, đối với thể loại
tiểu thuyết.
Ngoài ra, chúng tôi cũng khảo sát sáng tác của Lê Lựu ở các thể loại: Truyện
ngắn, tạp văn… để có cơ sở so sánh, đánh giá toàn diện. Đồng thời mở rộng một số
tiểu thuyết của các cây bút cùng thời nhằm so sánh, làm nổi bật đặc sắc của tiểu thuyết

Lê Lựu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau:
4.1. Phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại.
4.2. Phƣơng pháp hệ thống, khái quát.
4.3. Phƣơng pháp so sánh.


5. Đóng góp của luận văn
Luận văn cố gắng nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện, hệ thống để khái quát
những đặc điểm đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu trong thời kì đổi mới trên cả hai
phƣơng diện nội dung và nghệ thuật thể hiện. Đồng thời khẳng định đóng góp đáng
quý của Lê Lựu vào tiến trình đổi mới văn học nói chung và thể loại tiểu thuyết nói
riêng.
Qua đó, có thể làm sáng tỏ ở một phạm vi nhất định quy luật vận động, phát
triển của tiểu thuyết và văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Tiểu thuyết của Lê Lựu trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
đương đại.
Chương 2: Những nguồn cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kì
đổi mới.
Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới.


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU TRONG BỐI CẢNH
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1.


Khái lược tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới

1.1.1. Những tiền đề của công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975
Sau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nƣớc có nhiều chuyển biến quan trọng. Các
nhà văn thuộc các thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chƣa thoát
khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân
lí”, cái biểu tƣợng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và
màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm. Ít có ngƣời cầm bút nào thoát khỏi sự ảnh hƣởng
của ý thức hệ. Cái tôi của nhà văn trƣớc sức ép của hoàn cảnh lịch sử buộc phải mang
tâm thế nâng cao trình độ chính trị để có thể “nhìn ra những công việc lớn của cách
mạng”, chính nhiệm vụ chính trị và quán tính của một hình thái ý thức đã đòi hỏi nhà
văn, nhà thơ tăng cƣờng tính thời sự cho văn học, đã yêu cầu họ phải ra sức sáng tạo
trên tƣ thế của những chiến sĩ để sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Báo
cáo của nhà thơ Hữu Thỉnh tại Hội nghị những ngƣời viết văn trẻ lần thứ ba, chỉ rõ có
ba đề tài – chủ đề lớn đang đặt ra cho ngƣời cầm bút: Chủ nghĩa xã hội, cách mạng về
quan hệ sản xuất, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, lí tƣởng, cách sống… của lớp thanh niên
mới trong cuộc sống hôm nay. Có thể tìm thấy chẳng những cách tạo hình cho xã hội
xã hội chủ nghĩa, mà còn cả những vấn đề của chiến tranh, cách mạng và lao động sản
xuất trên các trang văn xuôi, thơ ca và phê bình văn học.Sự thay đổi ngữ cảnh văn hoá


– xã hội có tính chất bƣớc ngoặt, tác động tích cực đến giới sáng tác đƣợc đánh dấu
bằng sự kiện đất nƣớc bƣớc vào công cuộc đổi mới toàn diện.
Đầu năm 1986, Ban Bí thƣ ra Chỉ thị về công tác tƣ tƣởng (15/4/1986), mở rộng
dân chủ, sau đó ra Thông báo tuyên truyền trên báo chí về phê bình và tự phê bình (đợt
1: Ngày 20/5/1986, đợt 2: ngày 21/6/1986).
Cuối năm 1986, Đại hội Đảng VI đƣợc tiến hành, đánh dấu sự đổi mới của Đảng
về tƣ duy, nhận thức, trƣớc hết ở quan niệm đề cao thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, phát huy tinh thần dân chủ, quyền làm chủ của nhân

dân, chống sức ỳ và tính bảo thủ của quan niệm cũ, mở ra một bối cảnh mới cho sự
sáng tạo.
Có thể nói, sự mở rộng dân chủ của xã hội đem lại cho hoạt động sáng tạo và
phê bình văn chƣơng một cơ hội lớn để điều chỉnh các quy tắc diễn ngôn. Ngƣời viết
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trƣớc để phát biểu chính kiến, sáng tạo văn học có
nhiều khởi sắc và đạt nhiều thành tựu.
Mặc dù chƣa có một cuộc thảo luận rộng rãi cũng nhƣ chƣa có sự tổng kết về
vấn đề này, nhƣng nhìn chung các nhà văn và các nhà lý luận đều có xu hƣớng coi thời
gian từ 1986 đến 1996 là một giai đoạn đánh dấu sự đổi mới trong văn học Việt Nam
hiện đại. Dĩ nhiên bất cứ sự thay đổi và phát triển nào cũng đều đƣợc chuẩn bị từ trƣớc
đó và giai đoạn văn học này cũng vậy, nó có những mầm mống, những thử nghiệm và
những bài học từ nhiều năm trƣớc, trong suốt quá trình vận động của văn học cách
mạng Việt Nam, bắt đầu từ những cuộc tranh luận về văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc
năm 1948. Song những tiền đề vẫn cứ là tiền đề nếu chúng không có cơ hội để phát
triển.
Nền tảng của mọi sự đổi mới trong văn học thời kỳ này bắt nguồn từ sự tự ý
thức của nhà văn, tức là giác ngộ về vai trò của văn học trong xã hội, quan hệ giữa văn
học và chính trị, ý nghĩa của văn học đối với con ngƣời. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị


Đảng Cộng sản Việt Nam (1987) – Nghị quyết duy nhất của Bộ chính trị dành riêng
cho văn nghệ từ trƣớc tới thời điểm đó – đã mở ra một cách nhìn mới về vị trí và chức
năng của văn nghệ. Giờ đây văn học nghệ thuật không còn đƣợc hiểu đơn giản chỉ nhƣ
là công cụ của chính trị, là vũ khí của công tác tƣ tƣởng, là phƣơng tiện tuyên truyền,
giáo dục quần chúng, mà là “một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn
hóa”, “là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người
về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của
các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội…”.
Mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị đƣợc đặt ra và thảo luận công khai trên
báo chí. Không khí ấy giúp ngƣời cầm bút tự tin hơn trong những tìm tòi sáng tạo của

mình khi viết về các vấn đề phức tạp của cuộc sống, mạnh dạn đƣa ra những kiến giải
riêng trƣớc những tình huống, những sự kiện và tính cách đƣợc miêu tả trong tác phẩm.
Ở đây, đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị không phải là
yêu cầu tách rời văn nghệ với chính trị, nhƣ một số ngƣời đã nghĩ. Nhận thức này chỉ
giúp nhà văn hiểu rõ hơn đặc trƣng của văn học cũng nhƣ vị trí và sứ mạng riêng của
ngƣời cầm bút đối với cuộc sống, khuyến cáo họ không dừng lại ở việc minh họa các
khẩu hiệu, cổ vũ cho các phong trào, giúp vào việc thực hiện các chủ trƣơng, chính
sách của Nhà nƣớc, mà phải miêu tả số phận của con ngƣời, mang đến cho con ngƣời
cái đẹp, tình yêu cuộc sống cũng nhƣ sự từng trải, làm phong phú thêm kinh nghiệm
sống của mỗi cá nhân, đồng thời phải nghiên cứu những vấn đề của xã hội đang diễn ra
hay đã lùi vào quá khứ, từ đó rút ra những bài học, những tƣ tƣởng mang tính khái
quát, không chỉ quan trọng về triết học, đạo đức, nhân sinh mà còn có thể mang ý nghĩa
chính trị lớn lao.


1.1.2. Khái lƣợc về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
1.1.2.1. Những nét chung về thể loại tiểu thuyết
Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận và hiện
đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa
đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ
thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Không phải ngẫu
nhiên mà thể loại tiểu thuyết chiếm địa vị trung tâm trong hệ thống thể loại văn học cận
đại, hiện đại.
Nhà văn Phạm Quỳnh trong Bàn về tiểu thuyết cho rằng: “Tiểu thuyết là một
truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự ngƣời ta, phong tục xã hội hay là những
sự lạ tích kì đủ làm cho ngƣời đọc hứng thú, hay nói cách khác, đó là một truyện bịa
đặt thú vị.
Tiểu thuyết có khả năng rất lớn trong việc tái hiện những bức tranh đời sống với
quy mô lớn, trong đó nó chứa đựng những vấn đề sâu sắc của đời sống xã hội, con
ngƣời. Nghĩa là tiểu thuyết có khả năng phản ánh hiện thực một cách sinh động, khái

quát cả bề rộng lẫn chiều sâu. Trên thực tế, có rất nhiều nhà văn đã thành công trong sự
nghiệp viết văn của mình nhờ thể loại tiểu thuyết. Phƣơng Tây có Bandắc, Stăngđan,
Huygô, L.Tônxtôi… Phƣơng Đông, mà chủ yếu là Trung Quốc có Thi Nại Am, Tào
Tuyết Cần, La Quán Trung, Ngô Thừa Ân… Ở Việt Nam, thể loại tiểu thuyết cũng có
sức hấp dẫn với nhiều nhà văn. Các tên tuổi lớn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,
Vũ Trọng Phụng… đều trƣởng thành và khởi sắc từ tiểu thuyết.
Cấu trúc của tiểu thuyết hết sức linh hoạt. Ƣu thế của thể loại không chỉ bộc lộ ở
khả năng mở rộng đƣờng biên hiện thực mà còn ở khả năng thâu tóm, dồn ép nhân vật,
sự kiện vào một khoảng không gian ngắn, thời gian hẹp… để tạo nên những bức tranh
hiện thực có quy mô vừa và nhỏ. Trên nền của những bức tranh đời sống đã đƣợc thu
hẹp đó, nhà văn thuận lợi hơn khi đi sâu vào những cảnh ngộ riêng của nhân vật.
Chúng ta sẽ bắt gặp điều này khi đến với các tác phẩm Lão Gôriô của Banzắc, Anna
Carêrina của L.Tônxtôi, Những người khốn khổ của Victo Huygô, Sống mòn của Nam


Cao, Thời xa vắng của Lê Lựu, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng của
Chu Lai…
Trong tiểu thuyết, khoảng cách giữa ngƣời kể chuyện và nhân vật đƣợc rút ngắn
thậm chí bị xóa bỏ. Nhà văn có thể thâm nhập, đi sâu vào tận cùng mọi ngõ ngách tâm
trạng của nhân vật.
Nhân vật là yếu tố tập trung nhất quan niệm của nhà văn, thể hiện quan điểm
nghệ thuật, phong cách của nhà văn. Chính vì vậy con ngƣời trong tiểu thuyết là những
con ngựời nếm trải. Đó là những con ngƣời luôn có suy nghĩ, đấu tranh, dằn vặt nội
tâm và luôn suy tƣ trăn trở trƣớc số phận và cuộc đời.
1.1.2.2. Khái lƣợc về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
Cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nƣớc đƣợc hoàn toàn giải
phóng. Hoàn cảnh thay đổi, con ngƣời thay đổi do đó văn học cũng phải thay đổi để
phản ánh hiện thực. Từ năm 1975 đến nay, văn học Việt Nam đã trải qua 3 chặng
đƣờng phát triển:
Từ 1975 – 1985: Thời kì chuyển tiếp từ văn học sử thi mang cảm hứng lãng

mạn thời chiến sang văn học thời hậu chiến.
Từ 1985 đến những năm đầu thập kỉ 90: Văn học có sự chuyển đổi mạnh mẽ
mang đậm màu sắc đời tƣ, thế sự.
Từ giữa những năm 90 đến nay: Văn học hƣớng đến những cách tân nghệ thuật
đồng thời đi sâu vào nội tâm con ngƣời.
Sau 1975 đất nƣớc thống nhất, hòa bình đƣợc lập lại, cả nƣớc lại sôi nổi bƣớc
vào một thời kì mới xây dựng xã hội chủ nghĩa và khắc phục hậu quả nặng nề của
chiến tranh. Từ cuộc sống thời chiến chuyển sang cuộc sống thời bình, với không khí
mới, hoàn cảnh mới. Nhịp sống khẩn trƣơng, vội vã trong chiến tranh đã lắng lại, con
ngƣời cũng trở lại với nhịp sống bình thƣờng, trở về với đời thƣờng cùng những nỗi lo
toan thƣờng nhật.


Quá trình đổi mới tiểu thuyết từ sau 1975 bắt đầu tƣơng đối sớm nhƣng âm
thầm truyền tải qua các tác phẩm: Miền cháy (1977) của Nguyễn Minh Châu; Cha và
con và…( 1979) của Nguyễn Khải… Có thể nói tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
tiếp nối dòng cảm hứng sử thi của văn học giai đoạn 1945 – 1975 nhƣng đã có sự đổi
mới trên bình diện tƣ duy nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo, kết cấu tác phẩm... Tiểu
thuyết giai đoạn này đã hạn chế cái nhìn lí tƣởng, anh hùng hóa nhân vật. Từ cảm hứng
ngợi ca hào sảng các nhà văn đã đi sâu vào sự chiêm nghiệm, suy tƣ. Thời kì này chất
đời tƣ, thế sự lấn át hoàn toàn chất sử thi, anh hùng ca của văn học thời kì trƣớc. Văn
học phát triển theo khuynh hƣớng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán
mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Sự đổi mới của văn học diễn ra trên nhiều bình diện,
nhiều thể loại… Trong đó thể loại tiểu thuyết đƣợc ghi nhận là một trong những thể
loại có nhiều thành tựu. Bầu sữa nuôi dƣỡng tiểu thuyết bao giờ cũng là cuộc sống thực
với tất cả sự phong phú, đa dạng và phức tạp của nó. Nhƣng không phải bất cứ cuộc
sống nào cũng là mảnh đất thuận lợi của tiểu thuyết. Thể loại văn học này đặc biệt phát
triển trong những thời kì mà xã hội có biến chuyển dữ dội.
Với tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đƣợc coi nhƣ một trong những ngƣời tiên
phong trong công cuộc đổi mới này. Cùng với các tên tuổi nhƣ Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Khắc Trƣờng, Dƣơng
Hƣớng…Lê Lựu đã góp phần tạo nên sự chuyển đổi đáng kể trong văn học nói chung,
thể loại tiểu thuyết nói riêng. Sự đổi mới trƣớc hết và quan trọng là đổi mới tƣ duy
nghệ thuật. Bằng cảm quan, bằng sự nhạy cảm của ngƣời nghệ sĩ, các nhà văn đã khám
phá và phản ánh những bi kịch đời thƣờng của cá nhân con ngƣời với cảm hứng cảm
thông và phê phán mạnh mẽ. Những tác phẩm tiêu biểu thời kì này nhƣ: Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu); Thời xa vắng (Lê Lựu); Mùa lá rụng
trong vườn (Ma Văn Kháng); Thân phận tình yêu (Bảo Ninh); Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai); Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng) đã chứng minh điều đó.
Văn học thời kì này từ chỗ thiên về phản ánh những cái tích cực, tốt đẹp chuyển
sang phản ánh hiện thực trong sự vận động đa dạng, đa chiều. Sự đan xen phức tạp


giữa cái tốt và cái xấu; cái đƣợc và cái mất; cái tích cực và cái tiêu cực; bóng tối và ánh
sáng trở thành nội dung phản ánh chủ yếu của văn học.
Văn học còn có sự đổi mới tƣ duy nghệ thuật trong cách nhìn, trong quan niệm
về con ngƣời. Con ngƣời đƣợc nhìn nhận trong sự toàn diện, đa chiều và đa sự. Con
ngƣời trong tiểu thuyết đƣợc mô tả là những thể mâu thuẫn trong thống nhất. Đó là sự
tổng hòa của các phạm trù tốt - xấu; cao quý - thấp hèn; mạnh mẽ - nhu nhƣợc… Tuy
nhiên, các nhà tiểu thuyết luôn gửi gắm niềm tin đối với con ngƣời và cuộc sống qua
những hình tƣợng nghệ thuật. Con ngƣời luôn vƣơn lên chiếm lĩnh những giá trị muôn
đời của Chân, Thiện, Mĩ. Con ngƣời không đƣợc tô vẽ lí tƣởng hóa mà sống thật với
bản chất hiện thực. Đó là những con người này nhƣ cách gọi của Hêghen.
Bên cạnh sự thay đổi về tƣ duy nghệ thuật, văn học thời kì này còn có sự thay
đổi về cảm hứng sáng tạo. Nếu trƣớc năm 1975, cảm hứng chủ đạo trong văn học là
cảm hứng sử thi lãng mạn thì sau năm 1975 văn học đậm đặc cảm hứng đời tƣ, thế sự
đầy suy tƣ, lắng đọng. Văn học từ sự phản ánh cái ta, cái chung mang tính cộng đồng
thì nay đã đi sâu vào nội tâm, cá nhân, cá thể. Nhà văn quan tâm mô tả nỗi niềm tâm
sự, những bất hạnh, bi kịch, những hạnh phúc ngọt ngào trong cuộc sống cá nhân con
ngƣời ở những không gian cụ thể. Chính hiện thực cuộc sống phong phú, bề bộn, phức

tạp nhiều chiều đã trở thành mảnh đất màu mỡ để tài năng các nhà văn có điều kiện nở
rộ. Những số phận đầy bi kịch của con ngƣời hiện lên ám ảnh, day dứt trong sáng tác
của Lê Lựu, Bảo Ninh, Chu Lai…
Đi sâu phản ánh thân phận con ngƣời, tiểu thuyết sau 1975 đã bộc lộ cảm hứng
phê phán mạnh mẽ. Trong sáng tác của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Dƣơng
Hƣớng… cảm hứng phê phán đƣợc biểu hiện qua việc phản ánh những kẻ thực dụng,
mƣu đồ, tha hóa nhân cách đạo đức, về sự hoành hành của cái ác; sự tồn tại mặc nhiên
của những mối thù truyền kiếp giữa các gia đình, các dòng họ, xóm làng.
Phê phán, lên án cái xấu, cái ác, lên án sự tha hóa biến chất của con ngƣời các
nhà tiểu thuyết dƣờng nhƣ tha thiết truyền tải đến mọi ngƣời lời cảnh tỉnh hãy nuôi
dƣỡng những giá trị nhân bản, nhân văn có ở mỗi ngƣời. Hãy cứu lấy nhân cách con


ngƣời trƣớc khi quá muộn. Không né tránh, chạy trốn thực tại, các nhà tiểu thuyết đi
sâu, đón nhận và khám phá hiện thực để từ đó sáng tạo nên những hình tƣợng nghệ
thuật chân thật, ý nghĩa nhất. Nói nhƣ Nam Cao trƣớc đó, “hãy đứng trong lao khổ, mở
hồn ra để đón lấy những lao khổ ở đời…
Chiêm nghiệm, suy tƣ về quá khứ cũng là cảm hứng nổi bật trong tiểu thuyết
thời kì này. Tuy nhiên chiêm nghiệm, hồi cố không phải để thƣơng tiếc hay lật tung lại
quá khứ mà là để hƣớng tới những điều tốt đẹp hơn ở hiện tại và tƣơng lai. Cuộc sống
quá khứ, hiện tại hay tƣơng lai dù có nhiều khó khăn trắc trở nhƣng con ngƣời luôn cố
gắng vƣơn lên hoàn thiện chính mình, đấu tranh với hoàn cảnh để sống tốt hơn, có ý
nghĩa hơn.
Bên cạnh sự đổi mới về tƣ duy nghệ thuật, văn học thời kì này còn có sự thay
đổi mạnh mẽ về hình thức nghệ thuật. Các nhà tiểu thuyết sau 1975 không chỉ có
những khám phá mới mẻ về nội dung tƣ tƣởng mà còn có những cách tân tiêu biểu về
hình thức nghệ thuật. Điều này đƣợc thể hiện khá rõ qua các phƣơng diện: kết cấu,
dung lƣợng, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu, thời gian và không
gian nghệ thuật…Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, công cuộc đổi mới này càng
có nhiều khởi sắc.

Ở phƣơng diện dung lượng, tiểu thuyết thời kì này có sự co ngắn, cô đọng. Nội
dung cốt truyện có khi đƣợc triển khai linh hoạt theo đồ thị cảm xúc, suy tƣ của nhân
vật chứ không nhất thiết phải bám vào trình tự cốt truyện 5 thành phần truyền thống.
Tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết mang dung lƣợng ngắn là: Thiên sứ của Phạm Thị
Hoài; Thân phận tình yêu của Bảo Ninh; Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh; Thời xa
vắng của Lê Lựu… Tuy nhiên không thể chỉ dựa vào số lƣợng câu chữ để đánh giá tác
phẩm. Một điều dễ nhận thấy là dù co ngắn dung lƣợng nhƣng tiểu thuyết thời kì này
đã phản ánh đƣợc hiện thực cuộc sống, số phận con ngƣời ở nhiều chiều, ở cả bề rộng
và chiều sâu. Có khi cốt truyện không thể tóm tắt đƣợc; cũng có khi sự kiện chính yếu
chỉ là một khoảnh khắc dằn vặt trong nội tâm nhân vật; và cũng có khi đó là sự đấu
tranh của cá nhân nhân vật với chính mình, với mọi ngƣời và với hoàn cảnh.


Sự cách tân đổi mới trên bình diện dung lƣợng kéo theo sự đổi mới trong kết
cấu tiểu thuyết. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 1986 có nhiều kiểu kết
cấu đa dạng, nhiều tầng. Ở đó có sự đan cài hòa quyện giữa quá khứ, hiện tại và tƣơng
lai. Sự phá vỡ cấu trúc truyền thống – kiểu cấu trúc lịch sử - sự kiện và thay vào đó là
kiểu cấu trúc của tâm hồn, chiêm nghiệm suy tƣ là đặc điểm dễ nhận thấy ở tiểu thuyết
Việt Nam thời kì đổi mới. Ngoài ra kiểu cấu trúc luận đề cũng đƣợc sử dụng nhiều.
Trên phƣơng diện nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng có nhiều cách tân đáng
kể. Nhân vật văn học là những con ngƣời đƣợc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng
phƣơng tiện văn học. Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng không thể thiếu nhân
vật, bởi đó là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tƣợng. Chức
năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống con ngƣời, thể hiện
những hiểu biết, những ƣớc ao và kì vọng về con ngƣời. Nhà văn sáng tạo nhân vật là
để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các cá nhân đó. Nhân vật
tiểu thuyết thời kì này mang đậm màu sắc hiện thực, gần gũi đời thƣờng và có sức ám
ảnh lâu bền. Những nhân vật nhƣ Giang Minh Sài (Thời xa vắng), Kiên (Thân phận
tình yêu), Vạn (Bến không chồng)… là những đứa con tinh thần của Lê Lựu, Bảo Ninh,
Dƣơng Hƣớng… Con ngƣời trong tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là cái loa phát thanh

tƣ tƣởng của nhà văn mà hơn thế, chúng sinh động đầy sức sống và thật nhƣ cuộc đời.
Ở đó, ta cũng bắt gặp những băn khoăn, trăn trở trong tâm hồn; những khao khát, đam
mê phồn thực…Con ngƣời nhiều khi phải đấu tranh, dằn vặt với chính mình để tìm ra
chân lí, để đƣợc sống thật với chính mình.
Chính những quan niệm mới, những sáng tạo mới về nhân vật đã chi phối sự đổi
mới trong việc kiến tạo những không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật của tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn này. Không gian và thời gian nghệ thuật là những hình thức
tồn tại của thế giới. Bất kì một sự miêu tả, trần thuật nào cũng xuất phát từ một điểm
nhìn, diễn biến trong một trƣờng nhìn và ở một thời gian nhất định. Sự đổi mới cách
tân nghệ thuật bao giờ cũng đồng nghĩa với việc cách tân cấu trúc không – thời gian
nghệ thuật. Nếu văn học giai đoạn trƣớc thời gian – không gian nghệ thuật mang tính


tuyến tính thì sau 1975, thời gian – không gian nghệ thuật đa chiều, đa tuyến. Lúc này
không gian đƣợc mở rộng, nhiều tầng. Không gian không phải đƣợc xây dựng bằng
những chiều kích thƣớc của toán học, mà hơn thế đó là không gian của tâm tƣởng,
không gian đƣợc xác lập bằng cảm xúc và cách nhìn nhận của con ngƣời. Thời gian
cũng vậy. Đó không phải là đại lƣợng thời gian vật lí mà là thời gian của tình cảm, thời
gian tâm lí. Không – thời gian nghệ thuật trong giai đoạn văn học này không còn mang
tính sử thi rộng lớn, cộng đồng nữa mà chủ yếu là những khoảng không gian nhỏ hẹp,
gần gũi gắn bó với đời sống thƣờng nhật của con ngƣời. Đôi khi đó chỉ là những
khoảng không vô cùng nhỏ để nhân vật trải nghiệm và tự bộc lộ mình. Thời gian nghệ
thuật cũng đƣợc xây dựng theo hƣớng tâm lí hóa, cảm xúc hóa. Thời gian không bám
theo trục sự kiện mà là thời gian của cảm xúc. Sáng tác của Bảo Ninh, Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng thể hiện rất rõ điều này.
Tiểu thuyết thời kì đổi mới còn ghi nhận sự cách tân mạnh mẽ về đề tài, cảm
hứng, giọng điệu, ngôn ngữ. Nếu tiểu thuyết trƣớc 1975 ngập tràn cảm hứng lãng mạn
với giọng điệu ngợi ca, hào sảng; ngôn ngữ mang tính cộng đồng trang trọng thì sau
1975, bao trùm tiểu thuyết là cảm hứng đời tƣ thế sƣ; giọng điệu trầm tƣ, sâu lắng
mang đậm tính chiêm nghiệm và bởi vậy ngôn ngữ mộc mạc, in đậm dấu ấn cuộc sống

đời thƣờng.
Không nằm ngoài quy luật đổi mới của văn học, tiểu thuyết Lê Lựu cũng góp
tiếng nói đáng kể trong việc cách tân, hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam. Nhà văn đã đi
sâu, thâm nhập vào tận cùng những góc cạnh của cuộc sống và tâm hồn con ngƣời để
từ đó, mỗi tác phẩm của ông là một sự trải nghiệm, đúc kết về chính con ngƣời và hiện
thực. Không quá lời khi nói rằng Lê Lựu là một trong những ngƣời đã đặt những viên
gạch đầu tiên và miệt mài xây nên bức tƣờng thành vững chắc, tân kỳ của tiểu thuyết
Việt Nam thời kì đổi mới.


1.2. Tiểu thuyết Lê Lựu từ sau 1975
1.2.1. Khái lƣợc về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kì đổi mới
Lê Lựu sinh ngày 12/12/1942 tại một làng ngoại đê sông Hồng thôn Mẫn Hòa,
xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, Hƣng Yên. Ông sinh trƣởng trong một gia đình nông
dân bình thƣờng nhƣ mọi gia đình nông dân Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ
nhỏ Lê Lựu đã sống với đồng đất, quê hƣơng “Oai oái như phủ Khoái xin tương”. Quê
ông là một vùng quê nghèo, những vụ lúa thƣờng không đủ nuôi ngƣời. Có lẽ vì thế mà
ông có những trang văn chân thực về cảnh nghèo, về cái đói nơi thôn quê. Cái làng Hạ
Vị của ông tựa nhƣ cái làng Vũ Đại của Nam Cao. Có thể nói những nhà văn chân
chính bao giờ cũng tìm thấy lí tƣởng và nhựa sống ở ngay trên mảnh đất nuôi dƣỡng
mình dù đó là sỏi đá cằn khô.
Từ những năm 60, Lê Lựu rời ghế nhà trƣờng bƣớc vào quân đội. Tại thời điểm
lúc đó phong trào “ba nhất đang hừng hực khí thế. Lê Lựu từ một cậu bé ở xa phủ, xa
huyện cũng hòa mình vào không khí thi đua công - nông - binh toàn miền Bắc, làm lính
thông tin rồi chuyển sang làm báo. Vài năm sau chiến tranh, Lê Lựu về làm việc ở tòa
soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội trong nhiều năm. Trong đời thƣờng Lê Lựu giản đơn,
chân thực và có phần “lôi thôi, lếch thếch”. Tuy nhiên ẩn sâu trong sự luộm thuộm đến
cẩu thả đó là tâm hồn sống chân thật, thẳng thắn gần gũi vô cùng với cuộc đời.
Cuộc sống riêng tƣ của nhà văn cũng không bình lặng nhƣ mọi ngƣời mà phần
nhiều là do hoàn cảnh. Ông lấy vợ lần đầu ở làng quê, hai ngƣời có con chung, sau

nhiều năm mới li dị đƣợc. Ngƣời vợ thứ hai ở thành phố, nhƣng cuộc sống cũng không
bình lặng hơn. Thật khó khăn khi nói ông gặp may, hạnh phúc hay không hạnh phúc
trong cuộc đời. Chỉ biết rằng, chính cuộc sống riêng của ông đã đem đến cho ông
những trang viết giá trị.
Bƣớc vào làng văn Việt Nam, ngƣời đọc biết đến ông qua những sáng tác: Tết
làng Mụa (Văn nghệ quân đội 2/ 1964); Những người ở lại hậu phương (Văn nghệ
quân đội 5/1964); Gan góc Bạch Long Vĩ (Văn nghệ quân đội 7/1965); Các chiến sĩ tí
hon (Văn nghệ 1967)…Đặc biệt Người cầm súng đã đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn


do báo Văn nghệ tổ chức năm 1967 – 1968. Ngƣời đọc lúc này mới thực sự chú ý đến
nhà văn Lê Lựu. Tiếp nối mạch chảy này, Lê Lựu tiếp tục cho ra các tác phẩm Phía
trước mặt trời, Truyện kể từ đêm hôm trước và đến Người về đồng cói thì cái tên Lê
Lựu đã trở nên gần gũi với độc giả. Trần Đăng Khoa đã nhận xét: “Đến truyện ngắn
Người về đồng cói Lê Lựu đã có mùi tiểu thuyết, người đọc biết đây sẽ là nhà tiểu
thuyết có tài”.
Năm 1972, Lê Lựu đi Trƣờng Sơn và bắt đầu viết Mở rừng. Đây là cuốn tiểu
thuyết đầu tay của Lê Lựu và cũng là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho đề tài chiến tranh
và ngƣời lính cách mạng. Mở rừng trực tiếp viết về cuộc chiến tranh với cái nhìn đa
chiều không đơn giản. Nhà văn đề cập đến số phận của một lớp ngƣời trong cuộc chiến
tranh oai hùng và bi thảm (Đại tá Quang Văn, Vũ, Ngà). Lê Lựu cũng dựng lên bức
tranh nông thôn mà ở đó có những ngƣời mẹ, ngƣời em đang ngày đêm vừa lao động
sản xuất, vừa vững lòng tin vào những ngƣời đi xa. Đó là những con ngƣòi nguyện
cống hiến hết mình cho dân tộc. Tuy nhiên, cuộc đời, số phận mỗi ngƣời lại có một
điểm riêng. Số phận, cuộc đời mỗi cá nhân tựa nhƣ một mảnh rừng âm u, mù mịt. Tự
họ, họ phải đấu tranh, phải mở lối, tìm đƣờng đi cho chính mình. Nói cách khác, họ
phải tự mở rừng. “Muốn giành được thắng lợi phải tự mở lấy một con đường mới. Dân
tộc mình cũng vậy, muốn phát triển phải tự tìm lấy lối đi. Đối với cuộc đời mỗi con
người cũng phải thế” [ 77,449].
Năm 1979, cuốn tiểu thuyết thứ hai Ranh giới đã ra đời. Tác phẩm viết về sự lựa

chọn của con ngƣời trƣớc sự kiện đất nƣớc thống nhất năm 1975. Nhà nghiên cứu Bích
Thu nhận định: “Với Ranh giới, Lê Lựu đã đi vào đề tài mới, một lối viết mới nhưng
chưa hẳn là một bước tiến mới của anh đối với thể loại này” [110,102].
Bƣớc vào thời hậu chiến, con ngƣời phải đối mặt với biết bao đổi thay, bao sự
lựa chọn về cách sống, lí tƣởng. Phải sống nhƣ thế nào? Thay đổi nhƣ thế nào để vƣợt
lên trên hoàn cảnh? Nuối tiếc về quá khứ, về một thời đã xa liệu có phải là sự lựa chọn
đúng đắn? Tất cả những trăn trở, suy tƣ đó đƣợc tác giả hun đúc, gửi gắm trong tác
phẩm Thời xa vắng. Cuốn tiểu thuyết giành đƣợc giải thƣởng của Hội nhà văn Việt


Nam và nhanh chóng chiếm lĩnh đƣợc lƣợng độc giả đông đảo. Bộ phim Thời xa vắng
đƣợc dàn dựng, khởi chiếu một lần nữa minh chứng cho giá trị của tác phẩm. Không
những thế, Thời xa vắng đã tạo nên một hiện tƣợng văn học sôi nổi lúc bấy giờ. Tác
phẩm đã phản ánh một dung lƣợng hiện thực lớn - chặng đƣờng lịch sử từ sau Cách
mạng đến đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Cuốn tiểu thuyết viết về cuộc đời Giang
Minh Sài - một bi kịch cá nhân. Những điều Lê Lựu đề cập đến trong tác phẩm không
phải là những vấn đề to tát về lịch sử, xã hội mà đơn giản chỉ là câu chuyện đời thƣờng
về những số phận ngƣời không khó gặp trong xã hội. Thành công vang dội của cuốn
tiểu thuyết này là việc Lê Lựu đã nói lên đƣợc những vấn đề của cuộc sống hàng ngày,
những mối quan hệ trong gia đình, xã hội - điều mà bấy lâu nay, chúng ta tạm thời
quên đi, tạm thời gác lại để dồn tâm vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.
Tái hiện chân thực hiện thực của một thời kì lịch sử, Lê Lựu không đơn thuần là
đào sâu quá khứ, khơi sâu bi kịch của con ngƣời mà hơn thế ông đã bày tỏ một quan
niệm tích cực là phải đoạn tuyệt với cái cũ lạc hậu, kìm hãm sự phát triển tích cực của
con ngƣời. Đồng thời tác phẩm đề cập đến mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, đề
cao sự trân trọng những khát khao cá nhân; Con ngƣời phải sống bắt kịp thời đại, hòa
nhập với thời đại nhƣng không sa ngã, thoái hóa trƣớc thời đại.
Năm 1990 Lê Lựu trình làng cuốn tiểu thuyết Chuyện làng Cuội. Có thể khẳng
định Chuyện làng Cuội là một chuỗi sự phê phán có tính hệ thống ra đời mà theo Trần
Đăng Khoa tác phẩm là “đứa con bất hiếu của ông bố nhân từ”. Câu chuyện viết về

công cuộc cải cách ruộng đất với những ngƣời cán bộ tha hóa, dần trở thành những kẻ
lƣu manh, giả dối, lừa lọc mọi ngƣời. Cuốn tiểu thuyết đã gây nên một hiện tƣợng phê
bình mạnh mẽ với hai luồng ý kiến khen - chê rõ rệt. Có ý kiến cho rằng đó là: “sự kém
bản lĩnh của một mụ phù thủy non tay ấn trước những âm binh mà mình dựng nên”; Có
ngƣời lại nhận định tác phẩm là: “một cách nhìn bối rối đến định kiến đôi chỗ u uất và
cay nghiệt, một sự chao đảo trong bối cảnh xã hội phức tạp, biến động”. Cuốn tiểu
thuyết có lẽ chƣa đạt đƣợc hiệu quả nhƣ nhà văn mong muốn. Nó mới chỉ dừng lại ở ý


tƣởng chất liệu, cốt chuyện còn nhân vật mang tính phóng bút, ngôn ngữ dàn trải,
phong cách truyện mang đậm màu sắc tự nhiên chủ nghĩa.
Sau cuốn tiểu thuyết nhiều vấn đề này, năm 1995, Lê Lựu ra mắt bạn đọc tác
phẩm Sóng ở đáy sông. Nếu Thời xa vắng là cuộc đời bế tắc, lạc lõng, khuôn phép giáo
điều của anh bộ đội Giang Minh Sài thì Sóng ở đáy sông là sự bất hạnh đến tha hóa rồi
hoàn lƣơng của “tên giang hồ” Phạm Quang Núi. Cuốn tiểu thuyết đã dựng nên những
mâu thuẫn trong gia đình để từ đó làm cơ sở vững chắc cho những mâu thuẫn trong xã
hội. Khi gia đình không có tình thƣơng yêu và trách nhiệm làm nền tảng thì những đứa
con nhƣ Núi sẽ bị ném ra lăn lộn, mƣu sinh với đời. Một đứa trẻ thiếu sự chăm sóc của
mẹ, thừa sự lạnh lùng, vô tâm của cha thì tất yếu đứa trẻ đó sẽ tha hóa. Cách duy nhất
để cảm hóa chúng là tình yêu thƣơng của đồng loại, là sự giáo dục về nhân cách, lí
tƣởng và mục đích sống đúng đắn của xã hội. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết thành công
của Lê Lựu. Tác phẩm không những nhận đƣợc sự hoan nghênh của độc giả mà với
mƣời tập phim truyền hình Sóng ở đáy sông cho thấy tài năng và bản lĩnh cầm bút của
Lê Lựu.
Sau Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông, năm 2000 Lê Lựu
trình làng Hai nhà mà theo nhận xét của nhiều ngƣời tác phẩm là tập hai của Thời xa
vắng. Điều nổi bật trong cuốn tiểu thuyết này là những vấn đề tƣởng chừng nhỏ nhặt
nhƣ tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc gia đình lại có sức ám ảnh day dứt ngƣời đọc. Tác
giả đi thẳng trực tiếp vào vấn đề, lên án thói vô cảm, vô trách nhiệm và sự bản năng
trong cuộc sống gia đình. Đây cũng là bài học xƣơng máu cho mỗi ngƣời trong việc

tìm kiếm và gìn giữ tình cảm gia đình, xóm làng, bạn hữu…
Ngoài sở trƣờng truyện ngắn và tiểu thuyết, Lê Lựu còn có hai tác phẩm kí nổi
bật: Một thời lầm lỗi (1988) và Trở lại nước Mỹ (1989). Với gần nửa thế kỉ cầm bút,
vừa làm báo vừa sáng tác văn học, Lê Lựu đã để lại một số lƣợng tác phẩm phong phú:
9 tập truyện, 2 tập kí và 7 tiểu thuyết. Mặc dù số lƣợng tác phẩm chƣa đồ sộ nhƣng các
sáng tác của Lê Lựu đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc cách tân diện mạo
mới của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.


Quá trình sáng tác liên tục, miệt mài không mệt mỏi của Lê Lựu đã cho thấy cái
tâm và cái tài của ngƣời cầm bút. Xông xáo, hăm hở hòa nhập với mọi sự đổi thay của
cuộc đời để từ đó phác họa nên những bức chân dung con ngƣời, xã hội thời kì mới với
biết bao mối quan hệ đa chiều, phức tạp, với biết bao thói quen truyền thống cần đƣợc
nhìn nhận lại. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới ẩn chứa nhiều tầng, nhiều mảng hiện
thực. Thông qua những số phận nhân vật cụ thể, nhà văn đã mạnh dạn chỉ ra những hạn
chế về phƣơng diện xã hội cần đƣợc khắc phục, bởi đó là hàng rào ngăn cản hành trình
đi tìm ƣớc mơ của con ngƣời. Nhìn về quá khứ, tái hiện lịch sử nhƣng không mang tính
chất bi quan, yếm thế. Sáng tác của Lê Lựu giúp con ngƣời có cơ sở đề nhìn nhận,
đánh giá hiện thực cuộc sống bởi đó là những tác phẩm đƣợc viết nên từ sự chân thực,
sự trải nghiệm sâu sắc của chính nhà văn. Đúng nhƣ Lê Lựu từng nói: “Tôi là người
không biết bịa chuyện mà chỉ là người chép chuyện và kể ra những gì mình từng chứng
kiến mà thôi”.
1.2.2. Những đổi mới, cách tân của tiểu thuyết Lê Lựu
Thực tiễn đổi mới trong hai thập kỉ qua đã thổi vào văn học luồng gió mới.
Cùng thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí
thƣ Nguyễn Văn Linh với giới văn nghệ sĩ là yếu tố vô cùng quan trọng thúc đẩy quá
trình đổi mới văn học. Hòa cùng sự đổi mới chung của văn học, sáng tác của Lê Lựu có
những cách tân chủ yếu trên hai phƣơng diện đó là quan niệm về hiện thực và quan
niệm về con ngƣời. Chính sự cách tân này đã đóng góp to lớn vào việc nhận diện con
ngƣời và hiện thực trong thời đại mới.

Trƣớc hết là sự đổi mới quan niệm hiện thực của nhà văn. Trƣớc năm 1975,
hiện thực đƣợc thể hiện trong các sáng tác văn học là hiện thực mang màu sắc chính trị
rộng lớn. Sau năm 1975, văn học hƣởng ứng chủ trƣơng: “Đổi mới tư duy, nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Báo cáo chính trị Ban Chấp hành
Trung ƣơng - Đại hội Đảng VI). Quan niệm về hiện thực của nhà văn cũng từ đó có sự
thay đổi. Hiện thực đƣợc thể hiện không đơn giản xuôi chiều nhƣ trƣớc mà đa dạng,


×