Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG

CÁCH XỬ LÝ CỦA NGUYỄN DU ĐỐI VỚI
THƠ VÀ TỪ TRONG KIM VÂN KIỀU TRUYỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG

CÁCH XỬ LÝ CỦA NGUYỄN DU ĐỐI VỚI
THƠ VÀ TỪ TRONG KIM VÂN KIỀU
TRUYỆN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Nho Thìn



Hà Nội - 2013

ii


MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................I
MỤC LỤC ...................................................................................................... IV
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2.

Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu ..................................................... 2

2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 2
2.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................... 2
2.3. Mục đích nghiên cứu................................................................................. 2
3.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3

4.

Lịch sử vấn đề................................................................................................... 3


4.1. Vấn đề so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ............................ 3
4.2. Vấn đề cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ và từ trong Kim Vân Kiều
truyện

............................................................................................................. 9

5.

Đóp góp của luận văn .................................................................................... 12

6.

Cấu trúc luận văn............................................................................................ 13

NỘI DUNG..................................................................................................... 14
CHƢƠNG 1. TRUYỆN KIỀU VÀ KIM VÂN KIỀU TRUYỆN NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN THỂ LOẠI ........................................................................ 14
1.1. Kim Vân Kiều truyện với truyền thống tự sự của tiểu thuyết chương hồi . 14
1.2. Truyện Kiều với truyền thống tự sự - trữ tình của truyện thơ Nôm............ 17
CHƢƠNG 2. THƠ VÀ TỪ TRONG KIM VÂN KIỀU TRUYỆN .................. 25
2.1. Dung hợp văn thể và đặc điểm thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện ............. 25
2.1.1. Hiện tượng dung hợp văn thể trong Kim Vân Kiều truyện .................. 25
2.1.2. Đặc điểm thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện................................... 28
2.2. Thơ từ trong Kim Vân Kiều Truyện với chủ đề tư tưởng tác phẩm............. 30
iv


2.3. Thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện với vai trò khắc họa nhân vật............... 33
2.3.1. Thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện với vai trò ngầm ẩn số phận nhân
vật Thúy Kiều .................................................................................................. 33

2.3.2. Thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện với vai trò khắc họa nội tâm, tính
cách, tài năng nhân vật Thúy Kiều .................................................................. 37
2.3.2.1. Nhóm thơ từ thể hiện con người đa sầu đa cảm của Thúy Kiều ........ 38
2.3.2.2. Nhóm thơ từ thể hiện niềm vui trong tình đầu của Thúy Kiều........... 40
2.3.2.3. Nhóm thơ từ thể hiện nỗi đau đớn, xót xa về thân phận, nỗi nhớ nhà
và người yêu của Thúy Kiều khi phải trải qua các biến cố, gian truân cuộc
đời

........................................................................................................... 41

2.3.2.4. Nhóm thơ từ thể hiện con người quyết đoán, lý chí như trang nam nhi
của Thúy Kiều.................................................................................................. 48
2.3.2.5. Nhóm thơ từ chủ yếu thể hiện tài năng thơ ca của Thúy Kiều........... 52
2.3.3. Thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện với vai trò khắc họa nội tâm, tính
cách nhân vật Thúc Sinh ................................................................................. 55
2.3.4. Thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện với vai trò bộc lộ ý định của nhân
vật

........................................................................................................... 56

CHƢƠNG 3. CÁCH XỬ LÝ CỦA NGUYỄN DU ĐỐI VỚI THƠ VÀ TỪ
TRONG KIM VÂN KIỀU TRUYỆN ............................................................. 60
3.1. Quan điểm nghiên cứu nghệ thuật tả nội tâm của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều của các nhà nghiên cứu.................................................................................. 60
3.2. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với bài từ Điệu Nguyệt nhi cao thể hiện tư
tưởng tác phẩm Kim Vân Kiều truyện .................................................................. 67
3.3. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ khắc họa nhân vật trong
Kim Vân Kiều truyện ............................................................................................. 75
3.3.1.


Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ ngầm ẩn số phận

Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện .......................................................... 76

v


3.3.2.

Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ với vai trò khắc họa

nội tâm, tính cách, tài năng nhân vật Thúy Kiều ............................................ 79
3.3.2.1. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ thể hiện con người
đa sầu đa cảm của Thúy Kiều ......................................................................... 79
3.3.2.2. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ thể hiện niềm vui
trong tình đầu của Thúy Kiều ......................................................................... 83
3.3.2.3. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ thể hiện nỗi đau đớn
và xót xa về thân phận, nỗi nhớ nhà và người yêu của Thúy Kiều khi phải trải
qua các biến cố, gian truân cuộc đời .............................................................. 86
3.3.2.4. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ thể hiện con người
quyết đoán, lý chí như trang nam nhi của Thúy Kiều ..................................... 98
3.3.2.5. Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ chủ yếu thể hiện tài
năng thơ ca của Thúy Kiều ........................................................................... 110
3.3.3.

Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ với vai trò khắc họa

nội tâm, tính cách nhân vật Thúc Sinh. ......................................................... 112
3.3.4.


Cách xử lý của Nguyễn Du đối với nhóm thơ từ bộc lộ ý định nhân

vật trong Kim Vân Kiều truyện..................................................................... 115
KẾT LUẬN .................................................................................................. 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. B
PHỤ LỤC ..........................................................................................................I

vi


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” của truyện Nôm nói

riêng và văn học cổ Việt Nam nói chung. Hơn thế nữa, Truyện Kiều lại được
sáng tạo trên cơ sở vay mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
tài nhân nên trong lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều, để hiểu sâu sắc những giá
trị của tác phẩm và những đóng góp của Nguyễn Du cho nền văn học nước
nhà, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh hai tác phẩm là việc dĩ
nhiên. Đây là một trong những hướng nghiên cứu tất yếu, đã đạt nhiều thành
tựu nhưng vẫn cần đi sâu hơn nữa.
Từ trước tới nay có rất nhiều công trình nghiên cứu so sánh lớn nhỏ
khác nhau về hai tác phẩm này trên rất nhiều phương diện: nghệ thuật tự sự,
cách miêu tả xã hội,… nhưng vấn đề cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ
và từ trong Kim Vân Kiều truyện vẫn chưa được các nhà nghiên cứu thực sự
quan tâm. Ta thấy việc đưa thơ từ vào văn bản tác phẩm không phải là một
nét mới trong lịch sử hình thành và phát triển tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa.
Mối liên hệ giữa thơ từ, vận văn với văn xuôi tự sự trong tiểu thuyết cổ điển

Trung Quốc cũng theo chiều hướng từ ít đến nhiều, từ điểm xuyết rời rạc đến
gắn bó chặt chẽ, thống nhất hữu cơ. Trong tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện,
để khắc họa nhân vật và thể hiện tư tưởng tác phẩm, Thanh Tâm tài nhân đã
đan xen lời 92 bài thơ từ với phần văn xuôi (kể cả bài từ Điệu Nguyệt nhi cao
của Kim Thánh Thán ở đầu hồi 1). Kim Vân Kiều truyện thừa hưởng kinh
nghiệm xen thơ từ của tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh, lại cũng có ảnh
hưởng đến các tiểu thuyết chương hồi khác, trong đó có Hồng lâu mộng.
Nhưng khi vay mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã lược bỏ hết phần lời của những bài thơ từ đó nhưng nhà
nghiên cứu nào cũng phải ghi nhận nghệ thuật tả nội tâm nhân vật bậc thầy
1


của Nguyễn Du cùng sự thay đổi về tư tưởng của tác phẩm này. Vậy ông đã
xử lý thơ từ của Kim Vân Kiều truyện như thế nào? Nghiên cứu để trả lời câu
hỏi ấy rõ ràng có ý nghĩa trong văn học sử Việt Nam nói chung và việc nhận
thức tài năng sáng tạo, cụ thể là tài năng tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du
nói riêng. Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài Cách xử lý của Nguyễn Du đối
với thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện nhằm góp phần khiêm tốn bổ sung
cho hướng nghiên cứu này.
2.

Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu

2.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: thơ, từ trong Kim Vân Kiều truyện

và cách xử lý của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đối với những bài thơ từ đó.

Trong luận văn, chúng tôi sử dụng:
- Bản Truyện Kiều của Nguyễn Du, Đào Duy Anh hiệu khảo và chú giải,
bản in trong Truyện Kiều tác phẩm và lời bình, in theo bản in của NXB Văn
học, 1984.
- Bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân, người dịch:
Nguyễn Đức Vân và Nguyễn Khắc Hanh, người giới thiệu và hiệu đính:
Nguyễn Đăng Na, NXB Đại học Sư phạm, 2008.
2.2.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: thơ, từ trong Kim Vân Kiều truyện

với các đoạn thơ tương ứng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, qua đó thấy
được cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện.
2.3.

Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ và từ trong Kim

Vân Kiều truyện giúp độc giả:

2


- Thấy rõ đặc trưng thể loại của hai tác phẩm Truyện Kiều và Kim Vân Kiều
truyện
- Thấy được nghệ thuật trữ tình, cũng như tả nội tâm nhân vật và sự sáng
tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Phƣơng pháp nghiên cứu


3.

Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu như trên, trong luận
văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu để thống kê, tổng hợp thơ và từ
trong Kim Vân Kiều truyện
- Phương pháp so sánh, đối chiếu các văn bản và phân tích văn bản để so
sánh, đối chiếu thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện với các đoạn thơ tương
ứng trong Truyện Kiều để tìm ra cách xử lý của Nguyễn Du đối với các bài
thơ từ đó.
4.

Lịch sử vấn đề

4.1.

Vấn đề so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện



Nghiên cứu trong nước
Các nhà nho Việt Nam thế kỷ XIX cùng thời Nguyễn Du chủ yếu viết

ra những điều tâm đắc của mình với Truyện Kiều, ít chú trọng so sánh với
Kim Vân Kiều truyện. Sang thế kỷ XX, Truyện Kiều được nghiên cứu ở nhiều
phương diện, việc so sánh hai tác phẩm trở thành vấn đề nghiên cứu khoa học.
Lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều đã diễn ra qua ba chặng: từ đầu thế kỷ cho
đến 1945, từ 1945 tới 1975, từ 1975 cho đến nay. Mỗi chặng nghiên cứu này
có những đặc trưng riêng, chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, tư tưởng,
chính trị và văn hóa lúc bấy giờ.


3


 Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX tới 1945
Nhìn chung, việc so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện trong
các thập niên đầu thế kỷ XX chưa thật sự sâu sắc và phong phú. Với bài viết
Văn chương và nhân vật trong truyện Thúy Kiều đăng trên tạp chí Nam Phong
năm 1922, có lẽ người đầu tiên so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện
trên báo quốc ngữ là Nguyễn Đôn Phục (năm 1922). Trong bài viết của mình,
ông mới chỉ nhắc tới cái hay về nghệ thuật của Truyện Kiều, việc so sánh
Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện chỉ như là nguyên nhân khiến tác phẩm
này nổi tiếng chứ chưa có ý thức so sánh sâu hơn. Năm 1924, Phạm Quỳnh đã
công bố một bài viết đề cao Nguyễn Du trên Nam Phong đọc tại lễ kỷ niệm
ngày mất Nguyễn Du. Trong bài viết này, tuy Phạm Quỳnh chưa đi sâu so sánh
trực tiếp hai tác phẩm nhưng ông là người đầu tiên nhấn mạnh sự đặc biệt của
Truyện Kiều so với nguyên tác và nền văn hóa Trung Quốc. Ngô Đức Kế trong
bài Luận về chính học cùng tà thuyết Quốc văn - Kim Vân Kiều - Nguyễn Du
đã nhắc tới Kim Vân Kiều truyện nhưng không nhằm mục đích so sánh mà để
phê phán cả Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều.
Người mở ra hướng nghiên cứu so sánh hai tác phẩm ở cấp độ chi tiết,
hướng thứ nhất trong nghiên cứu so sánh hai tác phẩm, chính là học giả Đào
Duy Anh với công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều truyện (1943). Ông là
nhà nghiên cứu đầu tiên khẳng định Truyện Kiều không phải là một bản dịch
của Kim Vân Kiều truyện mà là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du, nhưng
ta dễ dàng nhận thấy các nhận xét so sánh của ông trong công trình này đều
có lợi cho Truyện Kiều. Ông cho rằng những gì Nguyễn Du rút gọn, lược bỏ
hay thay thế đều cần thiết và hợp lý. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do
ông đã không chú ý tới đặc trưng thể loại của Kim Vân Kiều truyện và mục
đích sáng tác của tác giả mà chỉ lấy Truyện Kiều làm chuẩn mực để đánh giá.

Theo đó, những công trình nghiên cứu theo hướng này sau Đào Duy Anh đều

4


tập trung khẳng định những sáng tạo của Nguyễn Du và đánh giá thấp những
thế mạnh về thể loại của Kim Vân Kiều truyện.
 Giai đoạn 1945 tới 1975
Giữa thế kỷ XX, nội dung xã hội trong Truyện Kiều bắt đầu được quan
tâm và hướng nghiên cứu so sánh thứ hai được mở ra từ đó. Các nhà nghiên
cứu đã kết hợp so sánh sự khác biệt giữa hai tác phẩm về từng phương diện cụ
thể và vẫn dựa trên những so sánh chi tiết. Chúng ta có thể kể tới các nhà
nghiên cứu lớn tiêu biểu như: Hoài Thanh, Nguyễn Lộc,... Công trình nghiên
cứu sớm nhất về Truyện Kiều theo quan điểm cách mạng là Hoài Thanh với
công trình Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
(1949). Điều ông quan tâm so sánh hai tác phẩm là sự khác nhau về cách thể
hiện nhân vật và xã hội, cuối cùng ông đã chỉ ra một số đóng góp và sáng tạo
mới của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài nhân. Nhưng việc so sánh này vẫn
lấy Kim Vân Kiều truyện làm nền để tôn cao Truyện Kiều. Nguyễn Lộc khi
viết về Truyện Kiều (in trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết
thế kỷ XIX) cũng không đi ngoài xu hướng này. Cũng như nhiều nhà nghiên
cứu khác, ông đã ghi nhận sáng tạo của Nguyễn Du so với Thanh Tâm tài
nhân nhưng nhìn chung ông vẫn đi tìm tính hợp lý cho những sáng tạo hay
thay đổi của Nguyễn Du để phê phán Kim Vân Kiều truyện và chủ yếu so sánh
sáng tạo của Nguyễn Du về phương diện lược bỏ chi tiết, việc tả tình chứ
chưa đi vào so sánh việc xử lý thơ từ của nguyên tác.
Đặng Thanh Lê đã đặt lối đi riêng cho mình trong ngành Kiều học với cuốn
Truyện Kiều và thể loại Truyện Nôm, trong cuốn sách này tác giả đã dành một
số trang so sánh hai tác phẩm nhưng chúng đã bị chìm lấp trong nhiều trang viết
về giá trị độc đáo của Truyện Kiều. Ngoài ra, ta phải kể tới: Lê Đình Kỵ với

cuốn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970), bài báo

5


Nguyễn Du và đạo đức phong kiến (qua nhân vật Thúy Kiều), Lê Xuân Lít với
Truyện Kiều – Kim Vân Kiều truyện nhìn từ góc độ chi tiết,...
 Từ sau 1975 tới nay
Cuối thế kỷ XX diện mạo nghiên cứu Truyện Kiều thêm phong phú và
khoa học khi có sự xuất hiện của những công trình nghiên cứu chuyên sâu hướng nghiên cứu về nghệ thuật của Truyện Kiều.
Tiếp tục triển khai ý tưởng của Đào Duy Anh, Phạm Đan Quế giới
thiệu cuốn Truyện Kiều đối chiếu vào cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Cuốn
sách này đối chiếu tỉ mỉ từng chi tiết giống và khác giữa hai tác phẩm, sự
thêm bớt cũng được khảo kĩ lưỡng. Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ra
đời sau đó cũng có nội dung gần giống như Truyện Kiều đối chiếu. Những
nhận xét của ông rút ra trong hai cuốn sách này nhìn chung không có gì mới
so với nhận xét của những nhà nghiên cứu đi trước cùng hướng so sánh này.
Chúng ta không thể không kể tới hai công trình Tìm hiểu phong cách
Nguyễn Du trong Truyện Kiều (Phan Ngọc) và Thi pháp Truyện Kiều (Trần
Đình Sử). Phan Ngọc đã so sánh hai tác phẩm trên hầu hết các phương diện
và cố gắng chứng minh sự khác biệt cũng như tính ưu việt của các giải pháp
Nguyễn Du đã lựa chọn so với Thanh Tâm tài nhân nhưng cuốn sách của ông
còn bộc lộ không ít sai lầm cần được chỉ rõ. Trong công trình của mình, rút
được kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu đi trước, Trần Đình Sử thấy
rằng phải so sánh Truyện Kiều trong một tương quan rộng hơn: “Trong bối
cảnh ảnh hưởng của văn học Trung Quốc, Truyện Kiều là một sự lựa chọn về
thể loại, và không thể không đề cập tới mối quan hệ giữa Truyện Kiều và tiểu
thuyết chương hồi Trung Quốc... Với tư cách là một truyện thơ Nôm, Truyện
Kiều có nhiều mối quan hệ với thơ ca cổ điển Trung Quốc. Đây là điều mà
các học giả Trung Quốc, cũng như Việt Nam tiến hành so sánh Truyện Kiều

hầu như chưa đề cập tới” [54, tr. 58]. Ông cũng chỉ ra những bất đồng trong

6


giới nghiên cứu về hai tác phẩm và bước đầu gợi ra hướng giải quyết, tuy
nhiên do chưa đặt vấn đề so sánh hai tác phẩm như một đề tài riêng biệt nên
cũng chưa so sánh toàn diện, kỹ lưỡng và cũng còn nhiều vấn đề cần bàn lại.
Chúng ta cũng không thể không kể tới các bài viết của các nhà nghiên cứu
sau: Nguyễn Hữu Sơn với Tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du trong sự
đối sánh với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (Văn nghệ, số 44 1990, sau được in trong Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm), Trần Nho Thìn
với Triết lý Truyện Kiều trong bối cảnh văn hoá xã hội Việt Nam cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX (in trong Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa),...
Đặc biệt năm 1993, nhóm tác giả Nguyễn Thạch Giang – Triệu Ngọc Lan
– Lô Úy Thu đã tiến hành khảo sát và so sánh chi tiết Truyện Kiều và nguyên
tác để chỉ ra phần nào là sáng tạo của Nguyễn Du, phần nào theo ý của Thanh
Tâm tài nhân.
Ta cũng không thể không kể tới Luận án tiến sĩ Ngữ văn Đoạn trường tân
thanh, cuộc tái tạo nghệ thuật của Nguyễn Du của Nguyễn Thị Bích Hồng, bảo
vệ tại Viện Văn học năm 2007. Luận án này đã đi sâu nghiên cứu những sáng
tạo của Nguyễn Du từ nghệ thuật tự sự cho tới phương diện tư tưởng khi vay
mượn cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân để sáng tạo Truyện Kiều và hệ thống
hoá một cách chi tiết lịch sử nghiên cứu so sánh hai tác phẩm này.
 Nghiên cứu nước ngoài
Bài Nguyễn Du, nhà thơ kiệt xuất Việt Nam và Truyện Kiều của ông của
Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương chỉ dừng lại mức độ so sánh hai tác phẩm về
phương diện ngôn ngữ.
Tháng 8 năm 2004, cuốn chuyên luận Nghiên cứu câu chuyện Vương
Thúy Kiều của Trần Ích Nguyên - GS văn học chuyên giảng dạy và nghiên

cứu tiểu thuyết cổ Trung Hoa ở Đài Loan - được Phạm Tú Châu dịch ra tiếng
7


Việt. Tác giả đã tiến tới định vị một cách đích đáng cho Kim Vân Kiều truyện
cũng như ảnh hưởng của nó trong và ngoài nước từ Minh Thanh về sau nhưng
việc nhắc tới Kim Vân Kiều truyện quan hệ đối sánh với Truyện Kiều còn rất
chừng mực.
Công trình So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam của
Đổng Văn Thành đăng trên Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng năm 1986 cũng
được Phạm Tú Châu dịch sau đó ít lâu. Văn bản Đổng Văn Thành dựa vào để
so sánh với Kim Vân Kiều truyện là một bản dịch của giáo sư Hoàng Dật Cầu.
Qua việc so sánh Kim Vân Kiều truyện và bản dịch này, Đổng Văn Thành đã
đưa ra một số ý kiến xoay quanh những vấn đề chung của Kim Vân Kiều
truyện nhưng trong việc đưa ra nhận định về mối quan hệ giữa hai tác phẩm
lại có nhiều điều bất ổn, đó là do tư tưởng của nước lớn pha trộn với việc
thiếu thông tin về Truyện Kiều. Những nhà nghiên cứu tên tuổi của Việt Nam
đã không ngần ngại bày tỏ chính kiến với những gì Đổng Văn Thành đưa ra:
Nguyễn Khắc Phi với Nhân đọc bài Kim Vân Kiều truyện của Đổng Văn
Thành, Phạm Tú Châu với Sóng gió bất kỳ từ một bản dịch, Hoàng Văn Lâu
với Cũng là một kiểu so sánh văn học... Nhưng chính bài viết của Đổng Văn
Thành đã khơi ra một vấn đề lớn còn tồn tại trong lịch sử so sánh Truyện
Kiều, nó khiến các nhà nghiên cứu Việt Nam phải nhìn nhận lại giá trị của
Kim Vân Kiều truyện cũng như cách so sánh đúng đắn hai tác phẩm này là
phải dựa trên tiêu chí thể loại.
N.I.Niculyn đã nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ở
phương diện đề tài, kết cấu, hình tượng nhân vật, hình thức thể loại.
K.C.Leung trong Chu trình diễn hóa của Kiều: Lại bàn về kế thừa và sáng
tạo bằng sự khảo cứu khá kĩ lưỡng chu trình diễn hóa của Kiều ở Trung Quốc
đã đánh giá lại về Kim Vân Kiều truyện.


8


4.2.

Vấn đề cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ và từ trong Kim Vân

Kiều truyện
Vấn đề cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ và từ trong Kim Vân
Kiều truyện chưa được các nhà nghiên cứu thực sự quan tâm để coi đây là đề
tài cần nghiên cứu chuyên sâu. Ta có thể kể tới các bài báo, công trình nghiên
cứu Truyện Kiều có đề cập tới vấn đề này như sau:
Lê Hoài Nam trong Những sáng tạo của Nguyễn Du qua việc so sánh
Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân trong Thông
báo khoa học của Đại học Vinh năm 1964 đã bàn tới vấn đề này. Theo tác giả,
Kim Vân Kiều truyện còn có tới 33 bài thơ từ (không kể bài Chiêu hồn của
Tống Ngọc được chép lại) tả tình, vịnh cảnh của các nhân vật trong truyện.
Ông coi đây là phương tiện miêu tả tính cách nhân vật và góp phần tăng thêm
rất nhiều thành phần trữ tình của tác phẩm nhưng đồng thời ông cũng cho rằng
chúng có hạn chế là làm nặng nề cho tác phẩm và nhiều khi làm chậm trễ
không cần thiết sự phát triển các tình tiết của truyện. Cũng theo tác giả,
Nguyễn Du đã xử lý một cách sáng tạo các bài thơ từ tầm thường này như sau
(theo tác giả chỉ có bài Khốc hoàng thiên là có giá trị còn các bài khác rất
xoàng): lược bỏ hết hoặc chuyển ý tình của các bài thơ, từ khúc đó vào độc
thoại nhân vật, ngôn ngữ tác giả miêu tả tâm lý nhân vật và thiên nhiên, lời
bình luận trữ tình của tác giả.
Đổng Văn Thành trong bài nghiên cứu Kim Vân Kiều Trung Quốc Việt Nam công bố lần đầu trên Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng, số 4 (tháng
6 - 1986) và số 5 (tháng 9 - 1987) do Phạm Tú Châu dịch cũng nhắc tới một
số bài thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện như sau:

- Ông tiến hành phân tích sơ lược bài từ Điệu nguyệt nhi cao và cho rằng
bài từ này đã nêu lên chủ đề Kim Vân Kiều truyện là “hồng nhan bạc mệnh,
hồng phấn trái thời”. Theo ông, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã gộp

9


đoạn miêu tả tâm lý ngắn gọn, nội dung than thở cho thân thế trong tổ khúc
Thập bất hài và trong bài thơ luật của Thúy Kiều trong nguyên tác, làm nên
một tình cảm biểu lộ ra thật cảm động và mẫu mực điển hình cho thành công
về cải biên của Nguyễn Du. Như vậy, Đổng Văn Thành đã ghi nhận việc thể
hiện chủ đề tư tưởng của truyện qua bài từ Điệu Nguyệt nhi cao, một phần đã
thấy được sự sáng tạo và tính trữ tình của Nguyễn Du khi xử lý tổ khúc Thập
bất hài trong Kim Vân Kiều truyện nhưng đáng tiếc lại chưa đi sâu tìm hiểu
vấn đề này để đánh giá đúng đắn và đầy đủ hơn về cách xử lý của Nguyễn Du
đối với phần thơ từ này.
- Theo ông, về việc mượn những danh cú trong thi từ cổ Trung Quốc,
Nguyễn Du có nhiều chỗ dùng không thỏa đáng làm mất đi tính chân thực: Để
khen một câu thơ hết sức bình thường của Kiều đề trên tranh phong cảnh của
Kim Trọng, Nguyễn Du dùng câu thơ có sẵn của Đỗ Phủ tự khen tài thơ của
mình khi ông đã về già là câu “Bút lạc kinh phong vũ” (Tay tiên gió táp mưa
sa), khen nét chữ Thúy Kiều “Tinh khéo như thiếp tựa Lan Đình” (So vào với
thiếp Lan Đình nào thua), khen tài thơ của Kiều “Quán quân trên thi đàn đâu
nhường cho ai” (Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này). Qua đó, ta thấy Đổng
Văn Thành đã không hiểu cách dùng điển cố của Nguyễn Du. Thực ra Đổng
Văn Thành không biết tiếng Việt, ông đọc Truyện Kiều qua bản dịch sang
Trung văn của người Trung Quốc nên bị khúc xạ qua quan điểm người dịch
nên hiểu sai lệch văn bản là thực tế khó tránh khỏi.
Phan Ngọc trong Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều cho
rằng: “Con người trong tiểu thuyết truyền thống là con người hành động, tả xung

hữu đột, không một phút ngồi yên.... Thúy Kiều, Từ Hải, Kim Trọng ở đây đều
lăng xăng cả ngày. Khi ngồi yên không có việc gì làm thì họ phải làm thơ. Họ làm
tới 89 bài thơ, một số lượng khá lớn” [37, tr. 100]. Như vậy, theo ông, việc nhân

10


vật trong truyện làm thơ từ chỉ là hành động bên ngoài, không có vai trò nhiều
trong việc thể hiện nội tâm nhân vật.
Nhận định của Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều:
- Qua việc phân tích, so sánh bài Khóc trời cao của Thúy Kiều trong Kim
Vân Kiều truyện với đoạn thơ tương ứng trong Truyện Kiều, ông đã khẳng
định truyền thống đan xen thơ từ mạnh mẽ trong nền văn học Trung Quốc,
cho rằng thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện tuy có tác dụng tả nội tâm nhân
vật nhưng hiệu quả không cao và khiến mạch văn không liền mạch. Ngoài ra,
ông còn khẳng định giá trị nghệ thuật hơn hẳn của đoạn thơ tương ứng trong
Truyện Kiều so với bài Khốc hoàng thiên trong Kim Vân Kiều truyện.
- Theo ông, Nguyễn Du lược đi thơ từ nhân vật sáng tác là để cái tài của
nhân vật nhạt đi và trừu tượng hơn bởi cái tài của Kiều chủ yếu là cái cớ để
nàng bị cuốn vào vòng tai vạ, phù hợp với tư tưởng tài mệnh tương đố.
- Ông cho rằng Thúy Kiều của Thanh Tâm tài nhân ít khi nhớ nhà, còn
Thúy Kiều của Nguyễn Du đã 7 lần nhớ nhà và dù là có nhớ, tính chất cũng
đã khác xa, sau đó ông lấy đoạn thơ Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích làm đối
sánh để chỉ ra chất lượng hơn hẳn của 22 câu thơ tả cảnh của Nguyễn Du.
- Ông còn nhận xét về việc xen thơ trong Kim Vân Kiều truyện và lý giải
nguyên nhân Nguyễn Du lược thơ từ trong Truyện Kiều như sau: “Ở đây nhân
vật trong hồn thơ lai láng nhưng khép kín, không phải cái chất thơ mà người
đọc có thể chia sẻ ngay được bởi nó được diễn đạt theo một kênh thơ riêng.
Việc để cho nhân vật làm thơ, chép thơ nhân vật vào truyện, có thể chứng tỏ
rằng tác giả chỉ thừa nhận chất thơ trong hình thức thơ, mà chưa khai thác

chất thơ ngay trong văn tự sự. Giữa hai loại văn chưa tạo được sự hòa hợp.
Nguyễn Du đã tạo ra được chất thơ trong văn tự sự, và do vậy việc chép thơ
nhân vật trở nên không cần thiết nữa” [54, tr. 225].

11


- Ông nhận xét về thơ từ trong hồi 13 của Kim Vân Kiều truyện và đoạn
thơ tương ứng trong Truyện Kiều như sau: “Thanh Tâm tài nhân đã dành gần
hết một hồi 13 để tả cuộc chia tay hết sức chi tiết... Đó thật là cuộc chia tay
của hai người bạn văn nhân, chén tạc chén thù, viện dẫn nào Biệt phú, Hận
phú của Giang Yêm, nào Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, chứ đâu chỉ là cuộc
chia tay của hai vợ chồng. Nguyễn Du đã thuật lại trong 28 dòng đầy lưu
luyến, ai oán, thi vị” [54, tr. 227]. Như vậy, ông cho rằng việc đan xen thơ từ,
bình thơ của Kiều - Thúc Sinh ở hồi 13 chưa hợp lý bởi không phù hợp với
hoàn cảnh, mối quan hệ của nhân vật và khẳng định tính hợp lý cũng như giá
trị nghệ thuật hơn hẳn của đoạn thơ tương ứng trong Truyện Kiều.
Trong Triết lý “Truyện Kiều” trong bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX in trong Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa của NXB Giáo dục xuất bản năm 2008, Trần Nho Thìn cũng
nhắc tới cách xử lý của Nguyễn Du đối với thơ từ trong Kim Vân Kiều truyện
khi sáng tạo Truyện Kiều. Theo tác giả, đối với các bài thơ Kiều làm “theo
đơn đặt hàng”, không có cảm xúc mà chỉ mang tính chất phô diễn tài năng thì
Nguyễn Du không miêu tả cụ thể mà chỉ lướt qua. Như vậy Trần Nho Thìn đã
đặc biệt chú ý tới nguồn cảm hứng, cảm xúc sáng tác thơ từ của nhân vật.
Điều này có quan hệ mật thiết với quan niệm của ông về triết lý Truyện Kiều
là tài sắc và tài tình.
5.

Đóp góp của luận văn

Luận văn sẽ hệ thống hóa lịch sử so sánh hai tác phẩm theo một hướng

quan tâm chưa được chú ý đúng mức, đó là cách xử lý của Nguyễn Du đối với
thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện. Những tiêu chí mà luận văn xác lập sẽ:
- Góp phần tìm hiểu những sáng tạo của Nguyễn Du khi vay mượn cốt
truyện Kim Vân Kiều truyện nói chung, nghệ thuật trữ tình cũng như nghệ
thuật tả nội tâm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nói riêng.
12


- Kết quả của luận văn có thể ứng dụng cho việc giảng dạy Truyện Kiều
ở bậc THCS và THPT, dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và những
người yêu thích Truyện Kiều.
6.

Cấu trúc luận văn
Ngoài Danh mục từ viết tắt, Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham

khảo, Nội dung luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện nhìn từ phương diện
thể loại.
Chương 2: Thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện.
Chương 3: Cách xử lý của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đối với thơ
và từ trong Kim Vân Kiều truyện.

13


NỘI DUNG
Chƣơng 1. TRUYỆN KIỀU VÀ KIM VÂN KIỀU TRUYỆN NHÌN TỪ

PHƢƠNG DIỆN THỂ LOẠI
Ta thấy việc nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện
đã bộc lộ nhiều vấn đề bất ổn, đặc biệt nếu so sánh các kết quả nghiên cứu
của một số nhà nghiên cứu Việt Nam như Phan Ngọc, Nguyễn Lộc,... với một
vài học giả Trung Quốc, đặc biệt là Đổng Văn Thành. Nguyên nhân căn bản
dẫn tới vấn đề trên là do họ đã lấy một trong hai tác phẩm làm tiêu chí, làm
chuẩn mực để so sánh sao cho có lợi cho hướng khai thác của mình. Rút kinh
nghiệm của những nhà nghiên cứu đi trước, trong Thi pháp Truyện Kiều, Trần
Đình Sử nhận định: “Trong bối cảnh ảnh hưởng của văn học Trung Quốc,
Truyện Kiều là một sự lựa chọn thể loại, không thể không đề cập tới mối quan
hệ giữa Truyện Kiều và tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc” [54, tr. 59] và
“So sánh Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc đang là một đề tài để ngỏ cho
những tìm tòi mới trong giao lưu tinh thần của hai dân tộc qua một kiệt tác”
[54, tr. 57]. Vì thế, trước khi tiến hành tìm hiểu cách xử lý của Nguyễn Du đối
với thơ và từ trong Kim Vân Kiều truyện, chúng tôi tiến hành tìm hiểu những
đặc trưng về mặt thể loại của hai tác phẩm này để xác định nguyên tắc đồng
cấp giữa hai tác phẩm, từ đó có thể tránh tình trạng so sánh khập khiễng.
1.1.

Kim Vân Kiều truyện với truyền thống tự sự của tiểu thuyết chƣơng

hồi
Ông Trương Đình Hòe, một học giả người Việt Nam đang sống và làm
việc tại Pháp, đã xác định văn hệ Kim Vân Kiều truyện, kết quả có 20 tác
phẩm cùng đề tài về Vương Thúy Kiều thuộc nhiều thể loại khác nhau: sử,
truyện, thơ,... Trần Đình Sử viết: “Mãi đến đời Khang Hy nhà Thanh, khoảng
1662 - 1729, Thanh Tâm tài nhân mới mở rộng quy mô truyện thành một pho
tiểu thuyết chương hồi... Thanh Tâm tài nhân viết Kim Vân Kiều truyện trước
14



hết theo môtip cặp đôi truyền thống tài tử giai nhân, thư sinh - kỹ nữ” [54, tr.
32]. Ông cũng cho rằng: “Kim Vân Kiều truyện không còn thuần túy tiểu
thuyết tài tử giai nhân, mà đã chuyển sang loại “tiểu thuyết nhân tình” có
khuynh hướng viết những điều mắt thấy tai nghe đời thường, có khuynh
hướng hiện thực” [54, tr. 40]. Nhưng trước hết, ta thấy Kim Vân Kiều truyện
nằm trong dòng tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, là sự minh họa rõ nét các
đặc điểm của tự sự chương hồi truyền thống.
Tiểu thuyết chương hồi chiếm một vị trí rất quan trọng trong diện mạo
tiểu thuyết Trung Quốc. Được hình thành từ những người kể chuyện rong với
các biến cố lịch sử, truyền thuyết và pho sử thi dân gian nên đặc điểm nổi bật
của thể loại này là sự xuất hiện đậm đặc của yếu tố tự sự. Trong truyện, người
kể thường dùng bút pháp “bạch miêu”, kể hoàn toàn khách quan, tuyệt nhiên
không bày tỏ thái độ chê trách hay tán dương đối với nhân vật hay câu
chuyện. Trần Đình Sử giải thích: “Thuật ngữ bạch miêu vốn là của hội họa,
dùng chỉ bút pháp, chỉ nét vẽ, không tô màu, không tô đậm nhạt. Bù lại, bạch
miêu đòi hỏi miêu tả đường nét thật chi tiết, cụ thể, đầy đủ, không để đối
tượng khuất vào bóng tối. Điều này làm nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết
Trung Quốc” [54, tr. 185].
Ta thấy nhân vật chính là hạt nhân cơ bản cấu thành chất tự sự cho tiểu
thuyết chương hồi. Trong thể loại này, nhân vật là những con người hành
động, tính cách đơn tuyến, sự biến động tâm lý nếu có chỉ là những thay đổi
nhất thời và thường nhanh chóng đi vào ổn định. Khi miêu tả tính cách nhân
vật, người kể là người quan sát và ghi chép lại, trước sau thống nhất thái độ
khách quan và cũng không có ý định đi sâu miêu tả nội tâm nhân vật. Muốn
diễn tả nội tâm nhân vật, tác giả thường để nhân vật “nói” hay “nghĩ thầm” và
xem đó như những sự kiện khách quan, hoặc để nhân vật làm bài thơ, bài ca.

15



Nảy sinh từ truyền thống thể loại ấy, Kim Vân Kiều truyện không đi
chệch khỏi quỹ đạo thông thường, tác phẩm là sự minh họa rõ nét các đặc điểm
của tự sự chương hồi truyền thống. Với 20 hồi, Kim Vân Kiều truyện giữ
nguyên cấu trúc phổ biến của tiểu thuyết chương hồi truyền thống: kết cấu
chương hồi, mỗi hồi là vài sự kiện chính được bao bọc bởi rất nhiều chi tiết sắp
xếp cặn kẽ tỉ mỉ. Ngoài bút pháp “bạch miêu”, Kim Vân Kiều truyện còn có
thêm lời bình luận suy lý ở đầu mỗi hồi. Đây là lối bình luận đạo đức của người
ngoài cuộc, viện dẫn tiền lệ để thuyết minh nhằm đề cao nhân vật. Theo Trần
Đình Sử, hình thức tự sự của Kim Vân Kiều truyện là: “Hình thức tự sự ngôi
thứ ba mang tiêu cự bằng không của một người kể biết đánh giá, nhận định
nhân vật theo những đạo lý phổ quát” [54, tr. 182] và “Thanh Tâm tài nhân
cũng thường để cho nhân vật làm thơ như một phương tiện để trang trải nỗi
lòng” [54, tr. 196]. Vì thế, trong tác phẩm của mình, Thanh Tâm tài nhân đã
dẫn lời của 92 bài thơ từ vào phần văn xuôi để thể hiện tư tưởng và khắc họa
nhân vật.
Trần Đình Sử viết: “kế thừa các truyền thống lớn của tiểu thuyết Trung
Quốc từ truyền kỳ đời Đường, tiểu thuyết thế sự Kim Bình Mai, tiểu thuyết
anh hùng Tam quốc diễn nghĩa, tiểu thuyết tài tử giai nhân kết hợp được yếu
tố “kỳ”, “xảo”, yếu tố con người đời thường, yếu tố cơ trí, mưu mẹo với yếu
tố giáo huấn, khuyến thiện, trừng ác.... chỉ có yếu tố con người đời thường
đem lại hai hệ quả mới: tăng cường miêu tả chi tiết cụ thể và đã chú ý miêu tả
tâm lý con người. Các yếu tố này biểu hiện đặc biệt trong Kim Vân Kiều
truyện.... Yếu tố giáo huấn thể hiện ở cái chí treo gương bất hủ của Kiều. Yếu
tố miêu tả, phân tích tâm lý cũng có chỗ đặc sắc... Phân tích tâm lý đòi hỏi
phải miêu tả chi tiết cụ thể, nhỏ nhặt, và nhiều chỗ Thanh Tâm tài nhân cũng
đạt được việc lấy tâm trạng mà soi sáng hành động” [54, tr. 45]. Ông cũng ghi
nhận những ưu điểm của Kim Vân Kiều truyện so với các tiểu thuyết tài tử

16



giai nhân khác: “Một là truyện nhấn mạnh tới quy luật tài mệnh tương đố...
Hai là có một cốt truyện hay, nhiều sự biến giày tía vò hồng, thể hiện tư tưởng
may rủi biến ảo khôn lường ở đời... Ba là bút pháp miêu tả tâm lý khai thác
nội tâm, ngôn ngữ độc thoại mặc dù còn thiếu nhất quán nhưng với tư cách là
một thủ pháp thì khá mới mẻ, đáng chú ý” [54, tr. 53].
Tóm lại, chúng tôi nhận thấy nếu xét về yêu cầu của nghệ thuật tự sự,
khả năng của người kể chuyện được bộc lộ trong việc nhìn sâu, nhìn kĩ một sự
vật rồi tả nó ra một cách tỉ mỉ thì Thanh Tâm tài nhân đã làm tốt công việc
này. Rõ ràng, ta cần phải công nhận thế mạnh tự sự của nguyên tác là văn
xuôi nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận thế mạnh của Truyện Kiều với
tư cách là truyện thơ mà lối “bạch miêu” không có được.
1.2.

Truyện Kiều với truyền thống tự sự - trữ tình của truyện thơ Nôm
Trong Thi pháp Truyện Kiều, Trần Đình Sử đã tiến hành khảo sát kỹ

lưỡng tính tổng hợp về thể loại của Truyện Kiều, ông viết: “Nguyễn Du đã
tổng hợp tài tình các thành tựu nghệ thuật tự sự và trữ tình của thời đại mình để
sáng tạo ra phẩm chất Truyện Kiều” [54, tr. 65]. Ông đã đặt Truyện Kiều vào
tương quan với thể loại ngâm khúc (đặc biệt là sự ảnh hưởng của Chinh phụ
ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc) và thể loại truyện thơ Nôm của thời đại
Nguyễn Du để phân tích nguồn cội các thành công rực rỡ Nguyễn Du đã đạt
được trong Truyện Kiều. Ông khẳng định: “Trên rất nhiều phương diện, từ tư
tưởng, cảm hứng, các phương thức tu từ, hình thức lời văn các khúc ngâm đã
thể hiện vai trò đi trước, đã tạo tiền đề và có ảnh hưởng tích cực tới sự ra đời và
nâng cao chất lượng văn học của Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đến lượt mình,
Truyện Kiều đã tiếp tục truyền thống thi pháp của ngâm khúc và nâng cao vượt
bậc cũng như nó đã phát triển vượt bậc các truyền thống thi pháp của truyện

Nôm” [54, tr. 83]. Về ảnh hưởng của thể loại ngâm khúc đối với Truyện Kiều,
ông nhấn mạnh: “Điểm quan trọng nhất là các khúc ngâm đã tạo thành một

17


kiểu trữ tình mới, có tính chất tự sự, có thể làm phong phú cho ngôn ngữ tự sự,
đó là lối trữ tình nhập vai... Cái vai kép vừa tự sự vừa trữ tình ấy là sự mở đầu
cho lối tự sự nửa trực tiếp trong Truyện Kiều... Hình thức đó đặc biệt đắc dụng
trong việc miêu tả trực tiếp ý nghĩ thầm kín của nhân vật” [54, tr. 79-80]. Về
ảnh hưởng của truyện Nôm đối với Truyện Kiều, cũng trong Thi pháp Truyện
Kiều, Trần Đình Sử đặc biệt chú ý các vấn đề sau: Truyện Nôm trước Truyện
Kiều đã có những thành tựu quan trọng, trực tiếp là Truyện hoa tiên đã có
những ảnh hưởng sâu sắc tới thi pháp Truyện Kiều. Truyện Nôm đã sáng tạo ra
lời kể, lời than, lời bình cố định, lời thoại mang nội dung tư tưởng, tâm lý.
Nhân vật được khắc họa như là những chủ thể có đời sống nội tâm nhất quán.
Xét về nội dung, Truyện Kiều tiếp tục những vấn đề của ngâm khúc và truyện
Nôm trước nó, đặc biệt là Truyện hoa tiên để thực sự đạt đỉnh cao của thể loại
truyện Nôm. Cuối cùng, xét về hình thức, Truyện Kiều đã phát triển những nét
mới trong thi pháp truyện Nôm và ngâm khúc lên một trình độ cao chưa từng
có. Như vậy, trong Thi pháp Truyện Kiều Trần Đình Sử đã chứng minh sự
dung hợp thể loại của Truyện Kiều nhưng trước hết, ta thấy Truyện Kiều là một
truyện thơ trường thiên thuộc thể loại thơ lục bát dân tộc, nằm trong truyền
thống tự sự - trữ tình độc đáo của Đông Nam Á.
Bao năm qua, truyện Nôm vẫn là một vấn đề phức tạp, những vấn đề
liên quan tới nó đều trở thành những vấn đề tranh cãi của các nhà nghiên cứu.
Về định nghĩa truyện Nôm, Dương Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử
yếu) đã xác định: “Truyện Nôm là tiểu thuyết viết bằng văn vần”. Trần Đình
Sử - Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học) xem truyện
Nôm là “truyện thơ viết bằng thể lục bát”. Những định nghĩa này mới chỉ đề

cập được mặt hình thức mà chưa nói được đặc trưng về thi pháp thể loại
truyện Nôm.

18


Về đặc điểm truyện Nôm, Nguyễn Tấn Đắc viết: “Truyện thơ là thể loại
hàng đầu ở Đông Nam Á. Đặc điểm lớn nhất của thể loại này là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa văn học nói và văn học viết, giữa chất dân gian và bác học”
[14, tr. 15]. Trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, trên cơ sở tìm hiểu sâu
cơ sở xã hội của sự hình thành, phát triển cũng như những đặc điểm của thể
loại này, Đặng Thanh Lê nhận xét: “Sự xuất hiện của truyện Nôm là một bước
trưởng thành lớn của phương thức tự sự và thể loại tiểu thuyết bằng thơ trong
văn học cổ Việt Nam. Với số lượng lớn, với nội dung tư tưởng khá tiến bộ và
hình thức nghệ thuật có tính dân tộc và tính nhân dân, truyện Nôm đã biểu hiện
một cách độc đáo và sâu sắc truyền thống nhân đạo Việt Nam, một truyền
thống bắt nguồn từ tiếng nói sau lũy tre xanh kết hợp với tâm tư tình cảm của
người trí thức tiến bộ dưới thời kỳ phong kiến suy tàn. Sự ra đời của thể loại
truyện Nôm đồng thời là nền móng để chắp cánh cho thiên tài Nguyễn Du, tác
giả Truyện Kiều, ngôi sao số một của truyện Nôm” [34, tr. 98]. Kiều Thu
Hoạch cho rằng: “Truyện Nôm do chủ yếu lấy truyện xưa tích cũ làm đối tượng
miêu tả, diễn ca, nên vô hình trung cũng mang theo luôn vào thể loại của mình
một số đặc trưng của truyện cổ tích hoặc truyện kể dân gian trong cách xây
dựng nhân vật, trong cách miêu tả thời gian không gian, trong hình thái cấu
trúc tác phẩm và trong một số biện pháp nghệ thuật khác” [24, tr. 162]. Theo
ông, truyện Nôm là một thể loại sinh thành và phát triển từ cội nguồn văn hóa
dân gian, cốt truyện của truyện Nôm được xây dựng theo phương thức vay
mượn cốt truyện, có ba nguồn đề tài chủ yếu: nguồn đề tài từ hiện thực lịch sử,
nguồn đề tài từ các truyện cổ dân gian, nguồn đề tài từ các truyện cổ của Trung
Quốc. Ngoài ra, ông còn nhấn mạnh: “Còn về nhân vật của truyện Nôm, nhìn

chung vẫn chưa thoát ra khỏi những khuôn mẫu của nhân vật truyện cổ tích...
Về mặt xây dựng cốt truyện, hình thái cấu trúc của truyện Nôm vẫn là hình thái
cấu trúc của thể loại cổ tích, tức là cấu trúc theo mô hình “kết thúc có hậu” như

19


giới khoa học lâu nay đã thừa nhận” [24, tr. 166-167], và việc sử dụng các yếu
tố thần kỳ là biện pháp nghệ thuật không thể thiếu được để hướng nhân vật
chính của truyện Nôm đi tới kết thúc có hậu.
Ta đặc biệt chú ý tới quan niệm của Trần Đình Sử về thể loại truyện thơ
Nôm, ông viết: “Theo chúng tôi, thì truyện Nôm là thể loại ra đời trên cái nền
nhu cầu “diễn âm”, “diễn ca”, “diễn Nôm tức là truyền thống tự sự rất phổ
biến của xã hội trên cơ sở chữ Nôm, và rất có thể tên gọi truyện Nôm có cội
nguồn từ chữ Nôm của nó, nghĩa là có chữ Nôm rồi mới có truyện Nôm, và
có chữ Nôm rồi mới có tên gọi truyện Nôm” [54, tr. 86]. Ông cho rằng
“Truyện thơ Nôm là truyện viết ra để đọc, xem hoặc ngâm nga trong thư trai,
phòng văn” [54, tr. 88] nhưng đồng thời, ông cũng không phủ nhận khả năng
truyện Nôm dùng để kể. Cho rằng cần dựa vào loại hình nội dung thể loại để
xác định thể loại, ông nhấn mạnh truyện Nôm có tính chất tổng hợp về mặt
thể loại: “Nếu diễn ca lịch sử hướng tới các sự tích có tính sử thi trong đời
sống dân tộc thì truyện thơ Nôm là thể loại có nội dung đạo đức, thế sự và đời
tư, kể chuyện về tính nết, phẩm chất của các loại người trong xã hội cùng mối
quan hệ của các loại người ấy, hoặc số phận, hạnh phúc cá nhân của con
người... Đặc điểm của truyện thơ Nôm như một thể loại văn học thể hiện rõ
nhất ở chỗ, nó diễn ca truyện cổ tích nhưng không đồng nhất với truyện cổ
tích, nó diễn ca tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa nhưng không phải tiểu
thuyết chương hồi!” [54, tr. 89-90]. Về lời người kể chuyện và nội tâm nhân
vật trong truyện Nôm, ông cho rằng: “Truyện Nôm rõ ràng đã sáng tạo ra lời
kể, lời than, lời bình cố định, lời thoại mang nội dung tư tưởng, tâm lý. Nhân

vật được khắc họa như là những chủ thể có đời sống nội tâm nhất quán” [54,
tr. 90-91]. Như vậy, bản thân thể loại này có tính chất tổng hợp về mặt thể
loại và về phương thức biểu hiện nghệ thuật, truyện thơ là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tự sự và trữ tình.

20


×