Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Nhận thức của vị thành niên Việt Nam độ tuổi từ 15 - 17 về bình đẳng giới và các yếu tố tác động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

TRẦN THỊ PHƢƠNG ANH

NHẬN THỨC CỦA VỊ THÀNH NIÊN VIỆT
NAM ĐỘ TUỔI 15- 17 VỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Minh

Hà Nội – 2012


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sỹ “Nhận thức của vị thành niên Việt Nam độ tuổi
15- 17 về bình đẳng giới và các yếu tố tác động” được hoàn thành sau một
thời gian làm việc khẩn trương và nghiêm túc.
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Xã hội học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện để tôi hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
nhất tới thầy giáo – PGS.TS. Nguyễn Hữu Minh, người đã trực tiếp hướng
dẫn, tận tình giúp đỡ và cho tôi những lời khuyên quý báu trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy giáo, cô giáo trong
khoa Xã hội học – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã nhiệt tình giảng
dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian theo học tại


trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Viện Nghiên cứu Gia
đình và Giới đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong thời gian thu thập tài liệu phục vụ
cho luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các anh chị và bạn lớp Cao học Xã hội học
khoá 2008 đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng, xin được gửi lời cảm ơn đặc biệt tới bạn bè và người
thân trong gia đình tôi, những người đã động viên, khích lệ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khoá học và khoá luận tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2012
Học viên

Trần Thị Phƣơng Anh

3


MỤC LỤC
Nội dung
Lời cảm ơn ………………………………………………………………..
Mục lục ……………... ……………………………………………………
Danh mục chữ cái viết tắt ……………... ………………………………..
Danh mục các bảng ……………... ………………………………………
Danh mục các biểu đồ ……………... …………………………………
MỞ ĐẦU ……………... …………………………………………………
1. Lý do chọ đề tài
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3. Câu hỏi nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu

5. Khung lý thuyết
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
8. Ý nghĩa của đề tài
NỘI DUNG ……………... ………………………………………………
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn ……………... ………………...
1.1. Cơ sở lý luận ……………... …………………………………….........
1.1.1 Một số khái niệm liên quan ……………... …………………………..
1.1.2. Những lý thuyết xã hội học vận dụng trong đề tài …………………..
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
bình đẳng giới ………………………………………………………………
1.1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới ……….
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ……………... …………………….

Chƣơng 2: Thực trạng nhận thức về bình đẳng giới của vị thành
niên ……………….…………... ……………………………………
2.1. Đặc điểm vị thành niên và các hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu
2.2. Nhận thức về bình đẳng giới trong phân công lao động gia đình
2.2.1. Nhận thức về bình đẳng giới trong công việc gia đình ……………

4

Trang
3
4
6
7
8
9
9

12
12
13
14
14
16
17
18
18
18
18
22
25
29
32
40
40
42
42


2.2.2. Nhận thức về bình đẳng giới trong hoạt động kinh tế ………..........
2.2.3. Nhận thức về bình đẳng giới trong hoạt động giao tiếp ……………
2.3. Nhận thức về bình đẳng giới trong quyền quyết định các vấn đề của gia đình
2.3.1. Nhận thức về quyền quyết định trong các vấn đề chi tiêu ……………
2.3.2. Nhận thức về quyền quyết định trong các hoạt động kinh tế ………
2.3.3. Nhận thức về bình đẳng giới trong quyền quyết định các hoạt động khác

Chƣơng 3: Các yếu tố tác động đến nhận thức về bình đẳng giới
của vị thành niên ……... ……………………………………………

3.1. Giới tính ……………... …………………………………………
3.2. Nơi ở ……………... ……………………………………………..
3.3. Học vấn của cha mẹ ………….......................................................
3.4. Phân công lao động trong gia đình và ngƣời làm chính các công

48
51
53
54
56
59
61
61
69
74
80

việc gia đình ……………………………………………………..........
3.5. Mức sống ……………... ………………………………………..

PHẦN KẾT LUẬN ... ………………………………………………….
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………... ………………...

Phụ lục ……………... …………………………………………………….

5

83
92
96

101


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Cao đẳng

ĐH

Đại học

KB/KTL

Không biết/ Không trả lời

NPV

Người phỏng vấn

NTL

Người trả lời

PTTH

Phổ thông trung học

TC


Trung cấp

TH

Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở

6


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Nơi ở của vị thành niên ................................................................. 39
Bảng 2.2: Trình độ học vấn của bố và mẹ vị thành niên (%) ........................ 40
Bảng 2.3: Nhận định về người thích hợp với các công việc gia đình (%) .... 45
Bảng 2.4: Người quyết định chính các chi tiêu trong gia đình (%) ............. 53
Bảng 3.1: Tương quan giới tính vị thành niên và quan điểm về người quyết
định cuối cùng công việc (%) ........................................................................ 65
Bảng 3.2: Tương quan giữa khu vực và nhận định người phù hợp với các công
việc (%) ........................................................................................................... 69
Bảng 3.3: Nhận thức của vị thành niên về vai trò của vợ và chồng theo khu
vực và giới tính (%) ........................................................................................ 73
Bảng 3.4: Tương quan giữa học vấn của bố vị thành niên với nhận định công
việc phù hợp với từng đối tượng (%) ............................................................. 75
Bảng 3.5: Tương quan học vấn người mẹ và nhận định của vị thành niên về
người quyết định chính công việc (%) ........................................................... 77
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của phân công lao động gia đình đến nhận thức của vị
thành niên về các công việc này (%) .............................................................. 80

Bảng 3.7: Tương quan giữa người quyết định cuối cùng công việc trong gia
đình và nhận thức của vị thành niên về các công việc tương ứng (%) .......... 81
Bảng 3.8: Tương quan mức sống và nhận định về công việc thích hợp với
mỗi đối tượng (%) .......................................................................................... 83
Bảng 3.9: Tương quan Mức sống * Giới tính * Nhận định về công việc thích
hợp với mỗi đối tượng (%) ............................................................................. 84

7


Bảng 3.10: Tương quan giữa Khu vực * Mức sống * Nhận định “người chồng
lo kiếm tiền là chủ yếu, vợ ở nhà chăm sóc con và làm nội trợ” (%) ............ 85
Bảng 3.11: Tương quan Khu vực * Mức sống * Nhận thức của vị thành niên
về quyền quyết định trong sản xuất kinh doanh ............................................. 86

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu 2.1: Mức sống của hộ gia đình vị thành niên (%) ................................. 40
Biểu 2.2: Tỉ lệ vị thành niên đồng ý đối với mỗi quan điểm (%)................... 42
Biểu 2.3: Quan điểm về người thích hợp với công việc nội trợ (%) .............. 43
Biểu 2.4: Nhận định về người thích hợp với các công việc về kinh tế (%) ... 47
Biểu 2.5: Người thích hợp với các công việc về giao tiếp (%) ...................... 51
Bảng 2.6: Người quyết định chính trong các hoạt động kinh tế (%) ............. 57
Biểu 3.1: Tương quan giới tính và quan điểm về công việc thích hợp với cả
nam giới và nữ giới (%) .................................................................................. 61
Biểu 3.2: Tỉ lệ vị thành niên đồng ý với nhận định “Người chồng lo kiếm tiền
là chủ yếu, vợ ở nhà chăm sóc con và làm các công việc nội trợ” tương quan
với học vấn của bố và học vấn của mẹ (%)..................................................... 74
Biểu 3.3: Học vấn người mẹ với nhận định cả hai giới đều thích hợp với công
việc (%) .......................................................................................................... 76
Biểu 3.4: Ảnh hưởng của mức sống đến nhận định cả hai vợ chồng cùng

quyết định các công việc (%) .......................................................................... 85

8


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, là
tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển của mỗi xã hội và là yếu tố cơ
bản để nâng cao khả năng tăng trưởng kinh tế của từng quốc gia. Trong số 8
mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực
của phụ nữ là mục tiêu đứng thứ 3 trong Bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận
trong nỗ lực giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng về giới. Theo Báo cáo thực
hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (2005), giá trị chỉ số phát triển giới
(GDI) của Việt Nam tăng từ 0,668 năm 1998 lên 0,689 năm 2004 và thuộc
nhóm nước có thành tựu tốt trong khu vực về chỉ số phát triển giới [1; tr. 17].
Việc đẩy mạnh các hoạt động về giới đã tạo ra sự chuyển biến tích cực về
nhận thức cũng như hành động của xã hội trước những vấn đề bất bình đẳng
giới.
Tuy nhiên cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam còn gặp nhiều
khó khăn và tình trạng bất bình đẳng giới là một trong những thách thức chính
về phát triển đối với Việt Nam. Trước hết, đó là những định kiến giới ở nhiều
tầng lớp xã hội coi trọng nam giới hơn phụ nữ. Các biểu hiện tập trung có thể
liệt kê như: thích sinh con trai hơn con gái, coi việc nội trợ, chăm sóc con cái
là của phụ nữ, khi chia tài sản thừa kế thường dành cho con trai nhiều hơn, ưu
tiên đầu tư vào con trai, coi nam giới là chủ hộ gia đình vì nam giới được xem
là người trụ cột, quyết định chính trong gia đình và thành thạo mọi việc xã hội
[1; tr. 38]. Nhìn chung, nhận thức về bình đẳng giới của một bộ phận không
nhỏ người dân còn hạn chế. Trong nhiều trường hợp, những quan niệm bất

bình đẳng giới được khái quát hoá và trở thành các chuẩn mực và giá trị xã

9


hội. Trong khi điều kiện kinh tế đang thay đổi nhanh chóng thì các chuẩn
mực, giá trị văn hoá liên quan đến vai trò giới dường như thay đổi rất chậm
chạp [49; tr.11]. Do đó, cuộc chiến đấu chống lại bất bình đẳng giới ở Việt
Nam đòi hỏi nỗ lực nhiều hơn trong việc nâng cao nhận thức người dân về
bình đẳng giới.
Vị thành niên là giai đoạn quá độ từ trẻ con sang người lớn, đây cũng là
giai đoạn diễn ra sự học tập, thích nghi và lựa chọn các giá trị, chuẩn mực một
cách mạnh mẽ. Quá trình nhận thức, hình thành nhân cách ở giai đoạn này giữ
vai trò quan trọng trong cuộc đời mỗi con người và chịu sự chi phối không
nhỏ từ ý thức hệ chủ đạo đang tồn tại trong xã hội. Nhóm vị thành niên ở độ
tuổi từ 15 đến 17 phần lớn vẫn đang là học sinh, những hiểu biết xã hội và
nhận thức của các em về bình đẳng giới chủ yếu thông qua quan sát, học hỏi
từ cha mẹ, thầy cô và mọi người xung quanh. Vì thế, nhận thức không đầy đủ
sẽ dẫn tới việc nhóm vị thành niên này tiếp thu một cách thụ động các chuẩn
mực, định kiến giới. Mặt khác, quá trình xã hội hoá vai trò giới được chia
thành 3 giai đoạn, mà theo đó, ở giai đoạn thứ ba, giai đoạn ở tuổi vị thành
niên, trẻ em bắt đầu có ý thức hơn về giới do quá trình xã hội hoá toàn diện
hơn. Ở giai đoạn này, các em có thể tiếp nhận những nhận thức mới về bình
đẳng giới để thay thế cho các quan niệm nam quyền cũ [36; tr. 47].
Thêm vào đó, ở lứa tuổi này, vị thành niên đã biết để ý đến những
người bạn khác giới và bắt đầu có xu hướng học hỏi các khuôn mẫu vai trò
được cho là “mẫu mực” để nhận được sự đánh giá cao từ phía bạn khác giới.
Trong khi đó truyền thông về bình đẳng giới chưa xây dựng được thành
những chương trình giáo dục cho từng nhóm đối tượng cụ thể và chưa chú
trọng đến việc giáo dục bình đẳng giới cho nhóm vị thành niên. Vì thế, các

em dễ học tập theo mô hình bất bình đẳng giới diễn ra trong gia đình và ngoài
xã hội.

10


Đồng thời có thể thấy rằng nhận thức của vị thành niên về bình đẳng
giới chịu ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố. Ngay từ gia đình, sự định hướng của
cha mẹ về lối sống, chuẩn mực, học tập, lao động- nghề nghiệp và trong cả sự
đầu tư của cha mẹ đối với con cái cũng thường có sự phân biệt tương đối rõ
ràng về giới. Trong nhiều gia đình, công việc do trẻ em đảm nhận thường có
sự phân biệt rõ ràng theo vai trò giới. Chính yếu tố này có thể dẫn tới nhận
thức của các em về chuẩn mực cho từng giới trong phân công lao động gia
đình.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng các nghiên cứu xã hội học về thanh niên, vị
thành niên hiện nay chủ yếu tập trung vào các vấn đề có liên quan đến sức
khoẻ sinh sản, tình yêu, hôn nhân hay các vấn đề về học tập, lao động- việc
làm; nhận thức đối với bình đẳng giới còn ít được đề cập trong các công trình
nghiên cứu. Chính vì thế, tìm hiểu nhận thức của nhóm vị thành niên độ tuổi
từ 15- 17 về bình đẳng giới là hết sức cần thiết. Qua đó chúng ta biết được
thực trạng nhận thức của vị thành niên Việt Nam về bình đẳng giới và có định
hướng thích hợp trong việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, góp phần
thay đổi nhận thức của người dân ngay từ khi còn trẻ, tạo nền tảng vững chắc
trong nhận thức về bình đẳng giới sau này. Đây cũng là việc quan trọng góp
phần vào nỗ lực cải thiện tình hình bất bình đẳng giới ở Việt Nam về mặt
nhận thức.
Trong khuôn khổ của luận văn cao học, tác giả chỉ giới hạn ở tìm hiểu
nhận thức của nhóm vị thành niên độ tuổi 15- 17 về bình đẳng giới trong cuộc
sống gia đình.


11


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Xác định nhận thức của nhóm vị thành niên độ tuổi từ 15- 17 về bình
đẳng giới trong cuộc sống gia đình hiện nay.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức của vị thành niên
về bình đẳng giới trong cuộc sống gia đình.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Nhận
thức, vị thành niên, giới, bình đẳng giới,… Trên cơ sở đó, bước đầu xây dựng
cơ sở lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu.
- Tổng quan một số nghiên cứu có liên quan đến việc phân tích nhận
thức của vị thành niên về bình đẳng giới.
- Mô tả thực trạng nhận thức của nhóm vị thành niên từ 15- 17 tuổi ở
Việt Nam hiện nay về vấn đề bình đẳng giới. Cụ thể là: Nhận thức về bình
đẳng giới trong cuộc sống gia đình (vai trò của người vợ và người chồng, sự
phân công lao động trong gia đình, mối quan hệ quyền lực giữa vợ và chồng
qua các quyết định…).
- Phân tích các nhân tố tác động đến nhận thức của vị thành niên (từ 1517 tuổi) về bình đẳng giới. Cụ thể: Các nhân tố từ phía bản thân vị thành niên
(giới tính); các nhân tố gia đình (học vấn cha mẹ, nơi ở, mức sống…).
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Vị thành niên hiện nay quan niệm như thế nào về sự phân công lao
động và quyền quyết định trong các công việc gia đình giữa nam giới và phụ
nữ, người vợ và người chồng?

12



- Có sự khác biệt trong nhận thức về bình đẳng giới giữa những vị
thành niên ở các hoàn cảnh khác nhau về mức sống, nơi ở, trình độ học vấn
của cha mẹ, giới tính của vị thành niên không?
- Mô hình phân công lao động của cha mẹ và mô hình quyền quyết định
các công việc trong gia đình của cha mẹ có ảnh hưởng đến quan điểm của vị
thành niên về sự phân công lao động và quyền quyết định giữa nam giới và
phụ nữ trong gia đình không?
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhận thức của một bộ phận vị thành niên Việt Nam độ tuổi từ 15- 17
về bình đẳng giới trong cuộc sống gia đình vẫn tiếp tục duy trì quan niệm về
sự phân công lao động và quyền quyết định các công việc giao đình theo mô
hình truyền thống.
- Nữ vị thành niên có nhận thức về bình đẳng giới tốt hơn nam vị thành
niên; Nhóm vị thành niên ở khu vực thành thị, nhóm có mức sống cao hơn,
nhóm vị thành niên có cha mẹ trình độ học vấn cao hơn có nhận thức tốt hơn
so với các nhóm vị thành niên còn lại.
- Vị thành niên trong những gia đình có sự bình đẳng giữa cha và mẹ
trong phân công lao động và quyền quyết định các công việc gia đình có nhận
thức tốt hơn về sự phân công lao động và quyền quyết định giữa vợ và chồng
trong các công việc này so với nhóm còn lại.

13


5. Khung lý thuyết
Môi trường KT- XH
Đặc điểm của vị
thành niên

Nhận thức của

vị thành niên
(15- 17 tuổi) về
bình đẳng giới

Đặc điểm gia đình

Đặc điểm cộng
đồng

Chính sách, văn bản pháp luật
của Nhà nước về bình đẳng giới

Trong đó:
- Đặc điểm vị thành niên: Giới tính
- Đặc điểm gia đình: học vấn của cha mẹ, mức sống, mô hình phân
công lao động của cha mẹ, mô hình quyền quyết định của cha mẹ.
- Đặc điểm cộng đồng: Khu vực (nông thôn- đô thị)
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
- Phương pháp luận chung: Tiếp cận từ quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về các vấn đề giới (thông qua một số tác phẩm có liên quan như
“Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước”, “Tình cảnh giai cấp công
nhân Anh”, “Bản dự luật về ly hôn”). Đồng thời vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh và những chính sách, văn bản pháp luật của nhà nước về bình đẳng giới.

14


- Phương pháp luận chuyên biệt: Sử dụng một số lý thuyết xã hội học
như: Lý thuyết về Giới và Phát triển, lý thuyết về vai trò xã hội.
Từ đó vận dụng các lý thuyết này vào việc giải thích nhận thức của vị

thành niên Việt Nam hiện nay về bình đẳng giới, sự biến đổi trong nhận thức
và các yếu tố tác động đến nhận thức về bình đẳng giới của nhóm xã hội này.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1. Phương pháp phân tích số liệu thứ cấp
Đề tài “Nhận thức của vị thành niên Việt Nam độ tuổi 15 đến 17 về
bình đẳng giới và các yếu tố tác động” sử dụng phương pháp phân tích số
liệu có sẵn từ Điều tra Gia đình Việt Nam năm 2006 do Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới phối hợp thực hiện
điều tra trên địa bàn 64 tỉnh/ thành phố trong cả nước với tổng số mẫu là
9.300 hộ gia đình, chia ra làm 3 nhóm đối tượng: nhóm từ 18 đến 60 tuổi,
nhóm từ 61 tuổi trở lên và nhóm vị thành niên từ 15-17 tuổi.
Cuộc điều tra này tập trung vào 4 chủ đề chính là: (a) Quan hệ gia đình;
(b) Các giá trị và chuẩn mực của gia đình; (c) Kinh tế gia đình; (d) Phúc lợi
gia đình. Trong mỗi chủ đề, cuộc điều tra tập trung vào một số nội dung cơ
bản nhằm nhận diện thực trạng, xu hướng biến đổi gia đình.
Công tác chọn mẫu được Tổng cục Thống kê tiến hành với sự tư vấn
của chuyên gia chọn mẫu của Bộ Gia đình, Dịch vụ Cộng đồng và Người bản
địa Úc (FaHCSIA). Thiết kế mẫu cuộc điều tra là một mẫu xác suất, chọn
theo tầng và chùm. Các địa bàn, hộ gia đình đc chọn theo phương pháp hệ
thống từ dàn mẫu chủ của Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam. Dàn mẫu
của Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam do chuyên gia của Ngân hàng
Thế giới và Tổng cục Thống kê thiết kế năm 2001. Dàn mẫu này có 3100 xã/
phường thuộc 64 tỉnh và thành phố, các xã/ phường được chọn theo xác suất

15


tỷ lệ với căn bậc hai của quy mô dân số. Tại mỗi xã/ phường được chọn, tiến
hành chọn ngẫu nhiên 3 địa bàn. Kết quả có 9300 hộ được chọn chính thức và
9300 hộ được chọn dự phòng. Trong đó có 2364 hộ thành thị và 6936 hộ nông

thôn. Mẫu Điều tra Quốc gia Gia đình Việt Nam đại diện chung cả nước, khu
vực thành thị/ nông thôn và 8 vùng.
Tuy nhiên nguồn số liệu chính được sử dụng trong luận văn là số liệu
từ cuộc điều tra đối với nhóm tuổi từ 15- 17 tuổi. Trong 9.300 hộ điều tra có
3.125 vị thành niên từ 15- 17 tuổi, trong đó số người được phỏng vấn là 2.452
người. Số liệu thu được được xử lý bằng chương trình SPSS. Các thông tin
chi tiết về Cuộc điều tra này có thể tham khảo trong Kết quả điều tra Gia
đình Việt Nam năm 2006 hoặc tham khảo trên website của Tổng cục Thống
kê .
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Đề tài tiến hành 8 cuộc phỏng vấn sâu để nắm bắt được quan điểm, suy
nghĩ của vị thành niên hiện nay về các vấn đề như phân công lao động gia
đình, mối quan hệ quyền lực giữa vợ và chồng trong các quyết định, đồng thời
tìm hiểu những yếu tố nào tác động đến những nhận thức của vị thành niên,
như mô hình phân công lao động và quyết định công việc trong gia đình,
khuôn mẫu truyền thống, khu vực sinh sống, sự ảnh hưởng của các nhóm bạn
bè, giáo dục của nhà trường,...
7. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức về bình đẳng giới của vị thành niên
Việt Nam độ tuổi từ 15 đến 17.
Trong khuôn khổ của luận văn cao học, tác giả chỉ giới hạn ở tìm hiểu
nhận thức của nhóm vị thành niên độ tuổi 15- 17 về bình đẳng giới trong cuộc
sống gia đình.

16


- Khách thể nghiên cứu: Nhóm vị thành niên từ 15 đến 17 tuổi
- Phạm vi nghiên cứu:
 Phạm vi không gian: 64 tỉnh/ thành phố trên cả nước

 Phạm vi thời gian: Năm 2006
8. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần bổ sung những nghiên cứu về nhận thức đối với vấn đề bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là nhận thức của nhóm vị thành niên.
- Cung cấp những luận giải khoa học cho việc đánh giá hiệu quả của
công cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn “Nhận thức của vị thành niên Việt Nam độ tuổi 15 đến 17 về
bình đẳng giới và các yếu tố tác động” chủ yếu chú trọng đến nghiên cứu, tìm
hiểu nhằm phát hiện cái mới trong nhận thức của vị thành niên về bình đẳng
giới và những yếu tố có ảnh hưởng đến nhận thức. Do đó, trong khuôn khổ
của luận văn thạc sĩ này, chúng tôi không nhấn mạnh đến việc đưa ra các kiến
nghị, giải pháp cho vấn đề nhận thức về bình đẳng giới của vị thành niên.

17


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm vị thành niên
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khái niệm “thanh thiếu niên” được
hiểu là độ tuổi từ 10- 24, trong đó “vị thành niên” được định nghĩa là thời kỳ
trong độ tuổi 10- 19 và “thanh niên” là nhóm tuổi từ 15- 24 [42; tr. 13].
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, vị thành niên là nhóm tuổi từ 1019.
Ở Việt Nam, vị thành niên là lứa tuổi từ 10 đến 18 tuổi. Thanh niên là
từ 16 - 24 tuổi. Trẻ em được luật pháp bảo vệ chăm sóc giáo dục là dưới 16
tuổi. Về mặt luật pháp vị thành niên là dưới 18 [29; tr.1].
Đối tượng của cuộc nghiên cứu này là vị thành niên trong độ tuổi từ 1517 vì những lý do sau: Đây là nhóm tuổi phù hợp nhất để tiến hành điều tra
(vì độ tuổi từ 15- 17 có thể được xem là tương đối lớn để trả lời các câu hỏi

được thiết kế trong bảng hỏi mà không cần sự có mặt của cha mẹ). Trong luận
văn này, thuật ngữ vị thành niên được dùng để chỉ nhóm tuổi từ 15- 17.
1.1.1.2. Khái niệm nhận thức
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, nhận thức là quá trình biện chứng
phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư
duy và không ngừng tiến gần đến khách thể. Sự nhận thức đi từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường
nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ thấp đến cao như sau:

18


- Nhận thức cảm tính: vận dụng cảm giác, tri giác, biểu tượng
- Nhận thức lý tính: vận dụng khái niệm, phán đoán, suy lý
- Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng
hay sai. Do đó thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích
của nhận thức.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà
còn để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng chỉ
đạo đối với thực tiễn. Sự nhận thức là một quá trình vận động không ngừng,
vì nó gắn liền với hoạt động thực tiễn. Để tiến hành quá trình nhận thức, cần
phải sử dụng rất nhiều phương pháp, trong đó chủ yếu là phương pháp phân
tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic, trừu tượng hoá, khái quát hoá, vận dụng con
đường nhận thức đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể [17;
tr.239].
Theo định nghĩa trong cuốn Từ điển hiện đại về Xã hội học, “Nhận
thức là quá trình trong đó cá nhân nhận biết và lý giải môi trường sống của
mình. Nhận thức bao gồm tất cả các quá trình mà nhờ nó cá nhân tìm được tri
thức, bao gồm quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ghi nhớ, tìm tòi, tưởng
tượng, phán xét” [48; tr. 56].

Khái niệm nhận thức trong luận văn này được dùng với nghĩa là quá
trình mà nhóm vị thành niên hiểu biết ý nghĩa và giá trị về bình đẳng giới và
tiếp nhận, học hỏi được những tri thức khoa học về bình đẳng giới biểu hiện ở
trình độ hiểu biết, tri thức về bình đẳng giới. Từ góc độ xã hội học, khái niệm
nhận thức nói đến quá trình nhận thức về xã hội thông qua các tương tác xã
hội, ví dụ nhận thức về bình đẳng giới qua tương tác giữa các thành viên trong
gia đình. Đó là sự hiểu biết của vị thành niên về các quan niệm, giá trị, chuẩn

19


mực liên quan đến mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong các khía cạnh
của đời sống xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm Giới và Bình đẳng giới
- Giới:
Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa
vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách
khác, nói đến giới là nói đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ giác độ
xã hội [35; tr.23].
Giới là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới
và phụ nữ. Nói đến giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới
và phụ nữ, liên quan tới hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế và xã hội chứ
không phải là mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay phụ nữ nào [48;
tr.17]
Nói đến giới là nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy
định cho người nam và người nữ. Bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu
phân chia nguồn lợi và và tương quan về địa vị xã hội của nam giới và nữ giới
trong một bối cảnh văn hoá xã hội cụ thể. Thuật ngữ giới đề cập đến những
đặc tính và cơ hội về mặt kinh tế, xã hội, văn hoá, tâm lý gắn với việc là phụ
nữ hay nam giới. Trong phần lớn các xã hội, là một người đàn ông hay là một

người phụ nữ không chỉ có các đặc điểm sinh học khác nhau mà còn phải đối
diện với những mong đợi khác nhau của xã hội về mặt ngoại hình, các cư xử,
tính cách và những công việc được cho là thích hợp với giới tính của người đó
[13; tr. 26].
- Bình đẳng giới:

20


Theo Từ điển Tiếng Việt, bình đẳng là sự ngang bằng nhau về địa vị và
quyền lợi [34; tr. 84].
Từ điển xã hội học, bình đẳng được hiểu trên hai bình diện có quan hệ
mật thiết với nhau: bình diện tự nhiên và bình diện xã hội. Trên bình diện tự
nhiên, bình đẳng không có nghĩa là mọi con người đều có những năng lực thể
chất và tinh thần hoàn toàn giống nhau. Các khảo sát khoa học cho thấy
những năng lực đó là khác nhau một cách bẩm sinh. Trên bình diện xã hội,
khái niệm bình đẳng bao hàm nhiều lĩnh vực khác nhau: bình đẳng chính trị,
bình đẳng kinh tế, bình đẳng chủng tộc và dân tộc, bình đẳng giới,… [48; tr.
21].
Theo Luật Bình đẳng giới, bình đẳng giới là nam và nữ có vị trí, vai trò
ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả
của sự phát triển đó.
Theo Công ước CEDAW, khái niệm bình đẳng giới được hiểu: Là tình
trạng (điều kiện sống, sinh hoạt, làm việc...) mà trong đó phụ nữ và nam giới
được hưởng vị trí như nhau, họ có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, sử dụng các
nguồn lực để mang lại lợi ích cho mình, phát hiện và phát triển tiềm năng của
mỗi giới nhằm cống hiến cho sự phát triển của quốc gia và được hưởng lợi từ
sự phát triển đó.
Trong đề tài luận văn này, chúng tôi sử dụng quan điểm về bình đẳng

giới với nhận thức giới, theo đó, bình đẳng giới là nam giới và nữ giới được
tạo điều kiện tối đa để phát huy khả năng của họ cũng như thụ hưởng các
thành quả đó có tính tới những yếu tố khác biệt tự nhiên giữa nam giới và nữ
giới.

21


1.1.2. Những lý thuyết xã hội học vận dụng trong đề tài
1.1.2.1. Lý thuyết về Giới và Phát triển
Lý thuyết về Giới và Phát triển dựa trên quan niệm rằng sự khác biệt
giữa nam và nữ nhất thiết phải được giải thích bằng hai khái niệm đi liền
nhưng có sự tách biệt rõ ràng. Thứ nhất, đó là sự khác biệt về đặc điểm sinh
học, còn gọi là giới tính, liên quan chủ yếu đến vai trò sinh sản. Thứ hai là đặc
điểm xã hội, còn gọi là giới, có liên quan đến các yếu tố thể chế chính trị, tôn
giáo, văn hoá, kinh tế,… Trong hai nhóm đặc điểm này, các yếu tố xã hội có
vai trò quyết định đối với bản chất của các tương quan giữa nam và nữ trong
gia đình và xã hội. Nếu một gia đình (tương tự như một xã hội) đã xây dựng
được các quan hệ tôn trọng và bình đẳng giữa vợ và chồng thì đó không phải
là do các đặc điểm sinh học của mỗi cá nhân mà do quá trình giáo dục của cha
mẹ, của nhà trường, do môi trường sống và làm việc được tạo dựng bởi các
chính sách cụ thể, bởi các cơ hội mà xã hội mang lại cho mỗi người với tư
cách là phụ nữ và nam giới và cuối cùng do những nỗ lực của bản thân từng
người.
Khái niệm giới và giới tính một mặt giải thích sự khác biệt giữa hai
giới dựa trên cơ sở một bên là các đặc điểm sinh học, không thể thay đổi và
một bên là các đặc điểm xã hội luôn biến đổi, mặt khác, lý giải nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến khoảng cách về vị trí và tiếng nói của phụ nữ trong gia đình
và xã hội. Quan trọng hơn cả là tự khái niệm này có thể vận dụng để xem xét
thực tế vị thế của người phụ nữ và nam giới trong gia đình và xã hội không

phải như một [2; tr.23].
Giới là mối quan hệ giữa nam và nữ và cách thức xây dựng mối quan
hệ đó trong xã hội. Giới được biểu hiện dưới các hình thức:

22


- Tính cách và phẩm chất: Tính cách và phẩm chất của mỗi giới do xã
hội cảm nhận và quy định. Xã hội đòi hỏi tính cách và phẩm chất của nam và
nữ khác nhau. Đó là chuẩn mực văn hóa xã hội có thể thay đổi theo thời gian,
hoàn cảnh văn hóa, chế độ chính trị... Tính cách và phẩm chất giới được giáo
dục ngay từ khi còn nhỏ bởi gia đình, cha mẹ.
- Tư tưởng: Xã hội loài người là biểu hiện của những bất bình đẳng
mà bất bình đẳng về giới là một trong những bất bình đẳng tồn tại dai dẳng
nhất. Đó là sự bất bình đẳng từ trong nhận thức, tư tưởng của con người. Lý
thuyết về giới đòi hỏi sự trao quyền cho phụ nữ, nâng cao vị thế của phụ nữ.
Sự phân công lao động giữa nam và nữ, giữa cha mẹ và con cái, giữa
con trai và con gái trong gia đình là sự biểu hiện rõ nhất của vấn đề giới và
cũng là cách giáo dục gián tiếp cho trẻ.
Các vai trò giới là kết quả của quá trình xã hội hoá, của điều kiện kinh
tế- xã hội chứ không phải do những khác biệt về đặc điểm sinh học giữa nam
và nữ quyết định. Quan điểm của lý thuyết giới cho rằng các vai trò giới là do
các thiết chế xã hội quy định, vì vậy khi xã hội có sự biến đổi thì vai trò giới
cũng có những biến đổi tương ứng.
Áp dụng lý thuyết về giới trong nghiên cứu này sẽ cho ta thấy được
sự tác động của các yếu tố cá nhân, gia đình, nhà trường và xã hội đến quan
niệm, nhận thức của vị thành niên về bình đẳng giới. Theo đó, vị thành niên
chịu sự tác động từ chính khuôn mẫu trong gia đình, nhà trường, cộng đồng
xã hội, từ đó dẫn đến những quan niệm khác nhau trong các vấn đề như phân
công lao động, vai trò của từng giới và mối quan hệ quyền lực của nam giới

và nữ giới trong các quyết định gia đình…

23


1.1.2.2. Lý thuyết vai trò xã hội
Lý thuyết vai trò xã hội trong xã hội học được đề cập nhiều nhất khi
giải thích về các vấn đề giới. Quan điểm này nhấn mạnh rằng những hành vi
ứng xử của con người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các vai trò xã hội mà họ
đóng (Eagly, 1987).
Cuộc sống của người trưởng thành được quy định bởi những vai trò xã
hội khác nhau, như vừa là thành viên của gia đình, vừa là người lao động.
Trong phạm vi gia đình, người ta có mong đợi khác nhau đối với vai trò người
bố và người mẹ, đối với vai trò người chồng và người vợ, đối với vai trò con
trai và con gái. Vai trò xã hội truyền thống ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của
mỗi giới tính. Những kỹ năng và sự tập luyện vai trò đã được con người
chuẩn bị từ thời thơ ấu và tiếp tục được hoàn thiện hơn khi họ ở lứa tuổi
trưởng thành.
Tuổi vị thành niên là bước đệm để một đứa trẻ bước vào cuộc sống của
người trưởng thành, ở đó họ phải đảm nhận các vai trò, ở các vị trí khác nhau,
một mặt là do sự phấn đấu của từng cá nhân, một mặt là tiếp nhận những vai
trò theo khuôn mẫu truyền thống. Ở lứa tuổi vị thành niên, các em đã biết
giúp đỡ gia đình theo khả năng cũng như sự phân công vai trò cho từng đối
tượng. Cũng ở chính giai đoạn này, các em đã học hỏi và từng bước hình
thành nên nhận thức của mình về bình đẳng giới thông qua các vai trò của
mình đảm nhiệm cũng như khuôn mẫu vai trò được giáo dục qua các khuôn
mẫu trong gia đình và ngoài xã hội.
Định kiến giới tồn tại trong từng xã hội đã ảnh hưởng đến nhận thức
của mỗi người trong đó về vị trí, vai trò gán cho từng giới. Những định kiến
này đã áp đặt trong nhận thức của vị thành niên, qua đó giáo dục khuôn mẫu

bất bình đẳng giới cho họ. Do đó, cần thiết phải có sự thay đổi khuôn mẫu

24


giáo dục truyền thống sang khuôn mẫu hiện đại về giới. Vị thế của người phụ
nữ không phải là vị thế cố định mà là vị thế áp đặt đối với người phụ nữ. Để
thay đổi được vị thế này, sự thay đổi trong nhận thức của vị thành niên là sự
khởi đầu cần thiết. Chính vì thế, giáo dục giới cho vị thành niên là vấn đề đặc
biệt quan trọng.
Một số thuật ngữ cơ bản trong lý thuyết vai trò là thuật ngữ sự mong
đợi về vai trò và chuẩn mực, sự đánh giá vai trò và sự trừng phạt. Tuy nhiên
đây lại chính là những rào cản lớn để xoá bỏ đi những nhận thức mang tính
bất bình đẳng giới. Theo thuyết vai trò, nhiều sự khác biệt giới là sản phẩm
của các vai trò xã hội khác nhau được nam giới hoặc phụ nữ chiếm lĩnh.
Thuyết vai trò cũng nêu ra ý tưởng là các vai trò xã hội thường dẫn đến những
khuôn mẫu xã hội. Điều này gợi ý rằng có thể dần xoá bỏ những khuôn mẫu
giới không phù hợp bằng vào việc thay đổi các vai trò giới trong thực tế.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
bình đẳng giới
1.1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bình đẳng giới
Ngay từ thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen – các lãnh tụ thiên tài của
giai cấp vô sản toàn thế giới – đã chỉ ra rằng chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự
thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới nữ.
Người ta thấy rằng sự giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa nam
và nữ đều không thể có được và mãi mãi không thể có được, chừng nào mà
phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất của xã hội và còn phải bị bó
hẹp trong công việc riêng tư ở gia đình. Muốn thực hiện sự giải phóng phụ nữ
thì trước hết phải làm cho người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy
mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà ít thôi. Điều đó chỉ có

thể thực hiện được với nền đại công nghiệp hiện đại là nền công nghiệp không

25


những chỉ thu nhận lao động của phụ nữ trên quy mô lớn, mà cũng nhất thiết
đòi hỏi phải có lao động nữ và cũng tiến dần tới chỗ biến công việc tư nhân
trong gia đình thành một ngành sản xuất xã hội. [4; tr. 507].
Ph. Ăngghen cho rằng, kinh tế (cụ thể là chế độ sở hữu) là điều kiện và
nguyên nhân quan trọng gây nên bất bình đẳng giữa nam và nữ. Muốn thiết
lập lại sự bình đẳng thật sự cho phụ nữ cần phải có sự thay đổi toàn diện trong
nền kinh tế- xã hội.
“Ngay cả ở trong nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai quản,
còn người đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm
đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần”; “người vợ trở
thành người đầy tớ chính và không được tham gia vào nền sản xuất xã hội”
[5; tr.93]. “Tình trạng không bình quyền giữa đôi bên, do những quan hệ xã
hội trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà
là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế” [5; tr.115]. Hai ông khẳng
định: “Một sự bình đẳng thực sự giữa phụ nữ và nam giới chỉ có thể trở thành
hiện thực khi đã thủ tiêu được chế độ bóc lột của tư bản đối với cả hai giới và
khi công việc nội trợ riêng trong gia đình đã trở thành một nền công nghiệp xã
hội” [5; tr. 341].
V.I. Lênin, người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản thế kỷ XIX – XX
kế thừa quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, chỉ ra tình cảnh khốn khổ của
nữ công nhân lao động trong các nhà máy, công xưởng: “Hàng triệu và hàng
triệu phụ nữ trong những gia đình như vậy đang sống (hoặc nói đúng hơn
đang bị đọa đầy) trong kiếp “gia nô”, ra sức lo ăn, lo mặc cho gia đình bằng
từng xu nhỏ mà họ phải trả bằng những cố gắng phi thường hàng ngày và
bằng “sự tiết kiệm” tất cả mọi thứ, chỉ trừ có “tiết kiệm” lao động của bản

thân” [23; tr.173].

26


×