Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 177 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

LÊ VĂN HÙ NG

SƢ̣ BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

LÊ VĂN HÙ NG

SƢ̣ BIẾN ĐỔI CỦA VĂN HÓA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN LINH KHIẾU



Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Linh Khiếu. Các số liệu, tư liệu, tài liệu được
sử dụng trong luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ

Lê Văn Hùng


LỜI CẢM ƠN!

Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới thầy PGS.TS Nguyễn Linh
Khiếu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo trong khoa
Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội đã định hướng, giúp đỡ tác giả lựa chọn và thực hiện đề tài khoa học trên.
Đề tài bước đầu đã đáp ứng đúng nhiệm vụ học tập, nghiên cứu của nhà trường
cũng như tình hình thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

Trang

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC .................................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ............................................... 4
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ............................................................................................................................... 9
1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa gia đình Việt Nam ........................ 9
1.2. Những công trình nghiên cứu về sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................. 20
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp để xây dựng văn hóa gia đình
Việt Nam hiện nay ............................................................................................. 25
1.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ........................... 32
Chƣơng 2: VĂN HÓA GIA ĐÌ NH VI ỆT NAM VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VĂN
HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ............................ 35
2.1. Khái niệm văn hóa và văn hóa gia đình ......................................................... 35
2.1.1. Khái niệm văn hóa ...........................................................................................................35
2.1.2. Khái niệm văn hóa gia đình ............................................................................................41
2.2. Khái niệm và nội dung biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay ........... 49
2.2.1. Khái niệm biến đổi văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay ...........................................49
2.2.2. Nội dung biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay .....................................52
2.3. Một số yếu tố tác động đến sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện
nay ..................................................................................................................... 59
2.3.1. Toàn cầu hóa văn hóa ......................................................................................................60
2.3.2. Công nghiệp hóa, đô thị hóa ...........................................................................................62
2.3.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ..........................................................64
2.3.4. Chính sách, pháp luật của Nhà nước ..................................................................65
2.3.5. Sự biến đổi quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình ................................67
Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................................... 70

1



Chƣơng 3: SƢ̣ BIẾN ĐỔI CỦ A VĂN HÓA GIA ĐÌ NH VIỆT NAM HIỆN NAY
- THƢ̣C TRẠNG VÀ NHƢ̃ NG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................. 72
3.1. Thực trạng biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay ....................... 72
3.1.1. Sự biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh mối quan hệ giữa vợ và
chồng .............................................................................................................................................72
3.1.2. Sự biến đổ i các giá tr
ị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái, giữa ông bà và các cháu ..........................................................................................86
3.1.3. Sự biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh mối quan hệ giữa anh chị
em với nhau..................................................................................................................................94
3.1.4. Sự biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh mối quan hệ giữa gia
đình với dòng họ, cộng đồng........................................................................................ 99

3.2. Những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay
............................................................................................................................ 104
3.2.1. Nhiều mâu thuẫn mới phát sinh trong gia đình đã làm mai một các giá trị, chuẩn
mực văn hóa của gia đình Việt Nam ........................................................................................104
3.2.2. Bạo lực gia đình diễn biến phức tạp, khó kiểm soát phá vỡ sự êm ấm, hòa thuận
trong gia đình Việt Nam hiện nay .............................................................................................107
3.2.3. Sự gia tăng hiện tượng ly thân, ly hôn phá vỡ hạnh phúc và tính ổn định, bền
vững của gia đình ........................................................................................................................114
3.2.4. Xuất hiện một bộ phận giới trẻ coi thường các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia
đình truyền thống, cổ xúy cho những tiêu cực của văn hóa, lối sống phương Tây ...........116
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................ 120
Chƣơng 4: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NH ẰM PHÁT HUY NHỮNG
BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU CỰC CỦA
VĂN HÓA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................... 122
4.1. Giải quyết tốt những mâu thuẫn phát sinh trong gia đình để giữ gìn các giá
trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam ................................................. 123

4.1.1. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình .................................................123
4.1.2. Phát triển các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ gia đình ...........................................................126
4.2. Nâng cao nhận thức cho các thành viên trong gia đình về chính sách, pháp luật
hôn nhân và gia đình ……...…… ........................................................................ 129

2


4.2.1. Nâng cao hiệu quả cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa .................................129
4.2.2. Tăng cường giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình ............................................134132
4.3. Tăng cường giáo dục trước hôn nhân, xây dựng mô hình gia đình phù hợp
để giảm thiểu sự gia tăng của ly thân, ly hôn ..................................................... 136
4.3.1. Tăng cường giáo dục trước hôn nhân ............................................................................136
4.3.2. Xây dựng mô hình gia đình phù hợp .............................................................................137
4.4. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình
Việt Nam ........................................................................................................... 140
4.4.1. Tăng cường giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam
truyền thống .................................................................................................................................140
4.4.2. Tăng cường giáo dục các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................................................145
4.4.3. Tăng cường phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong giáo dục văn hóa
gia đình ........................................................................................................................................148
Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................................ 149
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN .................................................................................................................... 153
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 155
PHỤ LỤC

3



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

CNH

: Công nghiệp hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ĐHQG

: Đại học quốc gia

ĐTH

: Đô thị hóa

GĐTT

: Gia đình truyền thống

GĐVH

: Gia đình văn hóa

GĐVN


: Gia đình Việt Nam

GS

: Giáo sư

HĐH

: Hiện đại hóa

KTTT

: Kinh tế thị trường

NXB

: Nhà xuất bản

PGS

: Phó giáo sư

UNCEF

: Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


VHGĐ

: Văn hóa gia đình

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Văn hóa gia đình Việt Nam là sự k ết tinh của nhiều giá trị, chuẩn mực văn
hóa điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình, trong đó nổi bật là tình yêu thương,
sự thủy chung son sắc giữa vợ và chồng; sự hy sinh và tình thương vô bờ bến của
cha mẹ đối với con cái; sự gắn bó máu thịt, hòa thuận giữa anh chị em trong gia
đình; sự hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, v.v.. Những giá trị, chuẩn
mực văn hóa đó đã trở thành nền nếp, lối sống tạo cho gia đình Việt Nam mang bản
sắc riêng, không hòa tan vào các thiết chế xã hội khác.
Hiện nay, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, sự phát triển của
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, gia đình Việt Nam nói chung, văn hóa gia
đình Việt Nam nói riêng đã và đang có những biến đổi mạnh mẽ. Trong quá trình
biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay, có sự biến đổi theo xu hướng tiế n
bô ̣ để hình thành nên các giá trị, chuẩn mực văn hóa mới điều chỉnh các mối quan
hệ cơ bản trong gia đình. Bên cạnh đó, cũng có những biến đổi theo xu hướng tiêu
cực, làm xói mòn các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam hiện nay,
đặc biệt là hiện tượng ly thân, ly hôn; bạo lực gia đình; trẻ em sa vào các tệ nạn xã
hội; sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột trong quan niệm về giá trị, chuẩn mực văn
hóa giữa các thế hệ trong gia đình ngày càng gia tăng, v.v.. Những hiện tượng đó đã
gióng lên mô ̣t hồi chuông cảnh báo về sự mai một, đổ vỡ của các giá trị, chuẩn mực
văn hóa gia đình. Thực tế đó đã chứng minh, không phải mọi sự biến đổi của văn
hóa gia đình đều đồng nghĩa với văn minh, tiến bộ, do đó, cần phải vận dụng phép
biện chứng duy vật để đánh giá sự biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia

đình Việt Nam. Đối với văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống cần phải xem xét
giá trị, chuẩn mực nào là tích cực, cần kế thừa và phát huy trong xây dựng văn hóa
gia đình Việt Nam hiện nay, yếu tố nào là lạc hậu, bảo thủ cản trở sự phát triển thì
cần phải loại bỏ. Đồng thời, các giá trị, chuẩn mực văn hóa gia đình mới được tiếp
thu cũng cần phải được cải biến để phù hợp với bản sắc văn hóa của gia đình nói
riêng, văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung. Đặc biệt, Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu hơn vào thế giới thì rất cần có sự định hướng về giá trị, chuẩn mực văn
hóa để gia đình Việt Nam có thể vừa dung nạp được các giá trị, chuẩn mực văn hóa

5


của gia đình hiện đại, vừa không bị chia cắt với các giá trị, chuẩn mực văn hóa của
gia đình truyền thống.
Ở Việt Nam hiện nay, quá trình bảo lưu và tiếp biến các giá trị, chuẩn mực
văn hóa của gia đình truyền thống và hiện đại đang tồn tại hai xu hướng cực đoan:
xu hướng tuyệt đối hóa văn hóa của gia đin
̀ h phương Tây

hiện đại và xu hướng

tuyệt đối hóa văn hóa của gia đình truyền thống, những quan niệm sai lầm này đã và
đang cản trở văn hóa gia đình Việt Nam phát triển theo xu hướng tiến bộ. Nếu
không có giải pháp kịp thời thì với những quan niệm cực đoan đó có thể tạo ra một
thế hệ trẻ “mất gốc”, “lai căng”, cổ xúy cho văn hóa ngoại lai, quay lưng với văn
hóa dân tộc hoặc là tạo ra một thế hệ trẻ có tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, lạc lõng, xa lạ
với các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình hiện đại. Những sản phẩm con
người đó sẽ khó đứng vững trong một thế giới hội nhập và đầy biến động. Bên cạnh
đó, trong những năm vừa qua, các cơ quan quản lý về gia đình ở Việt Nam cũng
chưa xác định rõ được hê ̣ giá tr ị, chuẩn mực văn hóa của gia đình Việt Nam hiện

nay, từ đó dẫn đến nhiễu loại, khủng hoảng về giá trị, chuẩn mực văn hóa, mơ hồ
trong nhâ ̣n thức , cũng như trong việc vâ ̣n du ̣ng các giá tr ị, chuẩn mực văn hóa để
định hướng văn hóa gia đình Việt Nam phát triển theo xu hướng tiến bộ.
Do đó, để đánh giá đúng sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay
cần phải có thái độ khách quan, đặc biệt phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc toàn
diện, lịch sử - cụ thể và nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật. Từ đó
tạo điều kiện để gia đình và xã hội nhận thức đúng các giá trị, chuẩn mực văn hóa
của gia đình Việt Nam hiện nay là gì? Những yếu tố nào tác động đến sự biến đổi
của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay? Thực trạng và những vấn đề đang đặt ra
từ sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay? Cần có giải pháp nào để
phát huy những biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực của văn hóa
gia đình Việt Nam hiện nay? Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, tôi đã lựa chọn
"Sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cƣ́u của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ những vấn đề lí luận về văn hóa gia đình, sự biến
đổi của văn hóa gia đình và thực tra ̣ng biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát huy những biến đổi tích
cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.

6


Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Phân tích một số vấn đề lí luận về văn hóa gia đình và sự biến đổi của văn hóa
gia điǹ h Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay, trên cơ sở
đó phân tích những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn
chế những biến đổi tiêu cực của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu sự biến đổi của văn
hóa gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sự biến đổi của văn hóa gia đình Viê ̣t Nam
là một vấn đề lớn, do đó, dưới góc độ triết học, tác giả chỉ nghiên cứu sự biến đổi
của văn hóa gia đình Việt Nam trên phương diện giá trị, chuẩn mực văn hóa điều
chỉnh các mối quan hệ cơ bản của gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với
cách tiếp cận như vậy, tác giả sẽ không đi sâu tìm hiểu sự biến đổi của văn hóa gia
đình trên các phương diện khác, hay ở các cộng đồng đặc thù như dân tộc, giai cấp,
tôn giáo, hay ở mỗi vùng, mỗi địa phương.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh , đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về gia đình và xây dựng văn hóa gia đình Viê ̣t Nam.
- Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp
nghiên cứu liên ngành của xã hội học, văn hóa học, thống kê học, v.v. để làm sáng
tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án thể hiện ở một số nội
dung cụ thể sau:
- Lí luận về văn hóa gia đình, sự biến đổi của văn hóa gia đình và các yếu tố tác
động đến sự biến đổi của văn hóa gia đìnhViệt Nam hiện nay.
- Thực trạng biến đổi và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của văn hóa gia đình
Việt Nam hiện nay.

7


- Những giải pháp chủ yếu được đề xuất nhằm phát huy những biến đổi tích cực
và hạn chế những biến đổi tiêu cực của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa của luận án
Luận án góp phần hệ thống hóa, khái quát hóa lí luận về văn hóa gia đình và sự
biế n đổ i của văn hóa gia điǹ h Viê ̣t Nam hiê ̣n nay
.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các vấ n
đề liên quan đến gia đình, văn hóa gia đình và sự biến đổi của văn hóa gia đình ở các
cơ sở giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác
giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án
gồm 4 chương với 13 tiết và các tiểu kết chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Chương 2: Văn hóa gia đình Việt Nam và sự biến đổi của văn hóa gia đình
Việt Nam – Một số vấn đề lý luận.
Chương 3: Sự biế n đổ i của văn hóa gia đin
̀ h Viê ̣t Nam hiê ̣n nay – Thực trạng
và những vấn đề đặt ra.
Chương 4: Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực và
hạn chế những biến đổi tiêu cực của văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay.

8


Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Gia đình là một giá trị văn hóa của nhân loại, là cái nôi nuôi dưỡng và giáo
dục nhân cách của mỗi cá nhân. Mặc dù xã hội loài người luôn biến động nhưng gia
đình vẫn có sự ổn định tương đối, là cái nôi nuôi dưỡng, giáo dục các giá trị, chuẩn
mực đạo đức, văn hóa cho mỗi cá nhân. Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù nhân

loại đã trải qua những biến đổi lớn và sâu sắc nhưng gia đình vẫn giữ được sự ổn
định tương đối, đặc biệt là những chức năng của nó mang tính bền vững cao mà
không có thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Thực tế đó đã khẳng định, gia
đình là một giá trị bền vững, cần tiếp tục duy trì, phát huy trong xây dựng GĐVN
hiện nay. Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên vấn đề gia đình đã được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm và đã có nhiều công trình khoa học bàn đến dưới những
góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài của luận án, có thể phân loại các
công trình này thành các nhóm cơ bản sau:
1.1. Những công trình nghiên cứu về văn hóa gia đình Việt Nam
Văn hóa gia đình Việt Nam có bề dày truyền thống hàng nghìn năm phát
triển, hàm chứa nhiều giá trị, chuẩn mực văn hóa điều chỉnh các mối quan hệ trong
gia đình, có thể coi nó là “hồn thiêng” của dân tộc Việt, tạo ra bản sắc, cốt cách
riêng của GĐVN. Trong quá trình phát triển, VHGĐ Việt Nam chịu sự tác động và
tiếp biến nhiều nền văn hóa lớn cả Đông và Tây. Do đó, việc hệ thống hóa những
nghiên cứu về VHGĐ Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Cuốn sách Thực trạng văn hóa gia đình Việt Nam (1994) [83] do nhà văn Lê
Minh chủ biên. Trong công trin
̀ h này , các tác giả đã nghiên cứu thực trạng VHGĐ
Việt Nam theo cách tiếp cận xã hội học. Các tác giả đã phân tích những khía cạnh
khác nhau của các mối quan hệ trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với các
thiết chế xã hội khác. Mặc dù điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều biến đổi,
song những truyền thống tốt đẹp của VHGĐ Việt Nam “vẫn được bảo vệ, lưu giữ
và đang truyền tiếp trong các thế hệ gia đình tại các vùng miền, thể hiện ở sự đùm
bọc, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên gia đình, trong tình thương yêu của
huyết thống dòng họ, với sự gắn bó linh thiêng giữa những người đang sống và
những người đã khuất” [83, tr. 139].

9



Cuốn sách Xây dựng văn hóa gia đình trong sự nghiệp đổi mới (1997) [124]
của Trần Hữu Tòng – Trương Thìn (đồng chủ biên). Đây là công trình tập hợp
nhiều bài viết chọn lọc của nhiều nhà nghiên cứu về xây dựng nếp sống văn minh –
GĐVH. Theo các tác giả, sự hình thành GĐVH không thể diễn ra bằng sự đứt đoạn
với văn hóa truyền thống cũng như sự chối bỏ các giá trị văn hóa hiện đại, mà phải
là sự kết hợp hài hòa và đúng đắn giữa truyền thống và hiện đại. Trong bài văn hóa
gia đình và gia đình văn hóa, PGS Tạ Văn Thành đã chỉ ra rằng, “muốn có GĐVH,
phải có VHGĐ. VHGĐ phải được nghiên cứu và phổ biến cho toàn xã hội thông
qua trường học, các phương tiện truyền thông đại chúng, các sách báo khoa học”
[110, tr. 165]. Theo tác giả, trong xã hội truyền thống, “VHGĐ thể hiện thành gia
phong (nếp nhà), thành truyền thống gia đình, dòng họ; chúng do gia quy, gia giáo,
gia huấn tạo nên” [110, tr. 165], VHGĐ được biểu hiện ở một số nội dung sau: Thứ
nhất, là giáo dục trong gia đình, đây là chức năng trọng yếu của gia đình, nó tạo ra
phong cách sống riêng của gia đình, dòng họ. Thứ hai, là cách ứng xử có văn hóa
giữa các thành viên trong gia đình. Thứ ba, là văn hóa bảo tồn và phát triển nòi
giống, tức là những tri thức, những thói quen giúp cho cha mẹ nuôi con khôn, dạy
con ngoan, làm sao cho thế hệ sau ngày càng mạnh khỏe hơn, thông minh hơn. Thứ
tư, là các tri thức khoa học, y học, giáo dục học, v.v. được ứng dụng vào việc tổ
chức cuộc sống gia đình sao cho đúng, tốt, đẹp. Thứ năm, là sự giao tiếp có văn hóa
giữa gia đình với xóm giềng, bạn bè. Với cách tiếp cận này, VHGĐ được hiểu theo
nghĩa rộng như văn hóa giáo dục, văn hóa ứng xử, sinh con, nuôi dạy, giáo dục con
cái; ngoài mối quan hệ trong gia đình còn có các mối quan hệ giữa gia đình với
cộng đồng bên ngoài gia đình. Điều đó cho thấy, mọi hoạt động của gia đình, đi
cùng với hoạt động đó là các thành viên trong gia đình đều gắn liền với văn hóa, do
văn hóa chi phối – đó là VHGĐ.
Trong bài Xây dựng văn hóa gia đình trong văn hóa làng, PGS Đỗ Huy cho
rằng, “để tránh xuống cấp trong văn hóa xã hội, văn hóa cơ sở, trước hết nên quan
tâm đặc biệt đến VHGĐ, đến các quan hệ nhân tính trong gia đình” [50, tr. 174].
Gia đình là tổ ấm đầu tiên của các mối quan hệ nhân tính, là sự hòa hợp của các
dòng máu. Tập tính tình cảm của người Việt được khởi nguồn từ VHGĐ, tình yêu

vợ chồng, tình cảm chung thủy, lương tâm, danh dự đều khởi nguồn từ gia đình.
Văn hóa, dù là VHGĐ hay văn hóa cơ sở thì nó mang yếu tố điều hòa, điều chỉnh và

10


chống suy thoái, nó giữ gìn sự ổn định, bảo vệ các quan hệ nhân tính và là động lực
của sự phát triển. Vì vậy, chúng ta muốn bước vào hiện đại thì chúng ta phải chuẩn
bị tốt nhất cho sự nghiệp văn hóa ở cơ sở mà hạt nhân, điểm tựa của nó là VHGĐ.
Theo PGS Đỗ Huy, “VHGĐ hôm nay đã kết hợp chặt chẽ giữa tính di truyền văn
hóa các thế hệ và mang diện mạo hiện đại” [50, tr. 181]. Có thể thấy, những “cảnh
báo” của tác giả đến nay vẫn mang nhiều ý nghĩa. Đạo đức, văn hóa của xã hội hiện
nay đang bị mặt trái của KTTT tác động, chi phối. Trên nhiều phương tiện thông tin
đại chúng, không ít người đã phải thốt lên rằng, đạo đức xã hội đang bị xuống cấp,
bệnh vô cảm đang có điều kiện phát triển, v.v.. Tuy nhiên, trước thực trạng đó, chúng
ta cần đánh giá khách quan, toàn diện bởi vì những hiện tượng tiêu cực đó bắt nguồn
từ nhiều nguyên nhân và nhiều thành tố khác nhau, trong đó gia đình chỉ là một
nguyên nhân và là một thành tố đóng góp vào thực trạng đó, do đó, sẽ là phiến diện
khi đổ lỗi cho sự xuống cấp của đạo đức, văn hóa của xã hội hiện nay chỉ bắt nguồn
từ gia đình và do giáo dục gia đình, song phải thừa nhận rằng, đó là nguyên nhân và
thành tố cơ bản nhất.
Cuốn sách Văn hóa gia đình Việt Nam (1998) [59] của GS Vũ Ngọc Khánh
cũng đã phác họa những nét cơ bản về VHGĐ Việt Nam. Mặc dù vậy, tác giả đã
cho rằng, công trình không trình bày vấn đề “theo kiểu suy luận, mà làm thế nào để
nói có sách, mách có chứng”, nên đi sâu vào các vấn đề cụ thể trong đời sống gia
đình. Theo tác giả, tâm linh là cơ sở tạo nên VHGĐ, “đây là vấn đề chủ yếu khi ta
muốn nói đến VHGĐ”, v.v.. “VHGĐ có thể tìm hiểu qua thuần phong mỹ tục, bàn
đến VHGĐ Việt Nam, thực chất là đề cập đến văn hóa truyền thống, hiểu được điều
đó, thì những chuyện như ly hôn, nuôi dạy con cái chắc sẽ được quan niệm khác đi
rất nhiều. Tác giả nhấn mạnh, người thời nay chỉ lấy nhau vì tình chứ người của

VHGĐ Việt Nam còn lấy nhau vì “nghĩa”. Không có nghĩa có phải là một ứng xử
đúng đắn và có văn hóa không? Tất nhiên, chỉ biết có “nghĩa”, không chấp nhận
tình yêu, thì lại là một tội ác. Có VHGĐ, là có cách xử sự sao cho hòa hợp cả hai
vấn đề ấy” [59, tr. 32-33]. Như vậy, theo GS Vũ Ngọc Khánh, nghĩa và lễ là hai vấn
đề quan trọng nhất trong VHGĐ, đó là nghĩa vợ chồng, ông bà và con cháu, nghĩa
anh em họ hàng và lễ là cúng bái thờ phụng, tôn ti trật tự, là thực hiện đạo hiếu,
kính trọng ông bà, tổ tiên.

11


Trong cuốn Handbook of family diversity (Cẩm nang về sự đa dạng gia đình)
(2000) [145] của David H. Demo, Katherine R. Allen và Mark A. Fine. Cuốn sách
đề cập đến nhiều chiều cạnh của sự đa dạng gia đình như sự đa dạng về cấu trúc,
chủng tộc, đạo đức và văn hóa của gia đình; sự đa dạng thành phần, giai cấp trong
gia đình, v.v.. Theo các tác giả, gia đình vào đầu thế kỷ XXI phải “chia sẻ chung bối
cảnh nền tảng của những căng thẳng lớn về kinh tế và xã hội” [145, tr. 2], do đó, sẽ
không có một hình thức gia đình được đánh giá bên ngoài bối cảnh kinh tế - xã hội
đặc biệt của nó và các mối quan hệ của nó với các gia đình khác. Gia đình “luôn dễ
đổ vỡ, dễ bị tổn thương với biến đổi kinh tế nhanh chóng, và sự cần thiết hỗ trợ về
kinh tế và tình cảm từ bên ngoài gia đình hạt nhân” [145, tr. 28]. Các tác giả cũng
đã chỉ ra rằng, cổ vũ cho tính đa dạng của gia đình chỉ đúng khi “chúng ta phân tích
các điều kiện xã hội đang thay đổi đã ảnh hưởng đến gia đình và tìm ra cách làm thế
nào để giúp mỗi gia đình tận dụng được các nguồn lực tiềm tàng của nó và giảm
thiểu sự dễ tổn thương đặc trưng của nó” [145, tr. 28].
Cuốn sách Văn hóa ứng xử trong giáo dục gia đình (2001) [64] của Nguyễn
Văn Lê, tác giả đã đề cập đến thái độ ứng xử của cha mẹ, ông bà với con cháu và
con cháu ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em với nhau. Trong gia đình, con cháu
đối với người trên lấy sự tôn kính làm trọng. Bề trên đối với con cháu lấy sự yêu
thương, lòng bao dung để răn dạy, đó là đạo lý của dân tộc. Mọi ứng xử đều phải

tuân theo những quy tắc văn hóa, nói gọn lại thành chữ "Lễ" kết hợp truyền thống
văn hóa của dân tộc với sự tôn trọng, sự đề cao con người trong xã hội hiện đại.
Văn hóa ứng xử trong gia đình là điều kiện và tiền đề quan trọng để tạo lập một môi
trường giáo dục trong sạch, lành mạnh giúp trẻ lĩnh hội các nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức như một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống đạo đức, văn hóa. Như
vậy, trong VHGĐ, tác giả đã coi trọng văn hóa ứng xử giữa các thành viên và thế hệ
thành viên trong gia đình. Điều này đến nay vẫn có ý nghĩa quan trọng, nếu gia đình
làm tốt vai trò giáo dục văn hóa ứng xử cho các thành viên trong gia đình thì mỗi cá
nhân sẽ có điều kiện phát triển và hoàn thiện nhân cách, ứng xử có văn hóa và đó
cũng là “phương thuốc” tốt để điều trị “căn bệnh” vô cảm trong xã hội hiện nay.
Cuốn sách Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2002) [115],
GS Lê Thi đã cho rằng, VHGĐ được hình thành qua việc thực hiện các chức năng
cơ bản như làm kinh tế nuôi sống các thành viên, tái sản xuất ra thế hệ tương lai,

12


nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái, bảo đảm sức khỏe cho các thành viên, giữ gìn sự cân
bằng về tâm lý tình cảm cho mỗi cá nhân. Qua đó nảy sinh quan hệ gắn bó với nhau
về trách nhiệm và quyền lợi, tình thương yêu và lòng biết ơn, các quan hệ ứng xử
hàng ngày, cùng sinh hoạt, lao động, học tập, v.v. Tác giả đã nhấn mạnh: “Văn hóa
của con người bắt đầu từ VHGĐ và mang dấu ấn của văn hóa dân tộc và thời đại”
[115, tr. 243]. Đặc biệt, GS Lê Thi đã nhấ n ma ̣nh đến văn hóa ứng xử trong gia
đình, nếu không có cách ứng xử đúng mực sẽ gây ra những va chạm lớn trong gia
đình. Theo tác giả, để thực hiện tốt văn hóa ứng xử trong gia đình thì: Một là, trong
gia đình phải xuất phát từ lòng yêu thương mà có sự thông cảm và tôn trọng lẫn
nhau, mỗi cá nhân cần biết tự điều chỉnh, kìm hãm cá tính, thông cảm với cá tính
của người thân. Hai là, biết tha thứ cho nhau những lỗi nhỏ trong sinh hoạt hàng
ngày, nhường nhịn lẫn nhau, không cố tranh phần đúng về mình, v.v. để xây dựng
gia đình êm ấm. Ba là, phải công bằng trong quan hệ ứng xử gia đình, không ích kỷ

hay thiên vị cho một thành viên nào đó, vì sự ích kỷ cá nhân là một nguyên nhân
gây mâu thuẫn trong gia đình. Bốn là, cần có thái độ bình tĩnh, đặc biệt khi đã xảy
ra những va chạm, cách nói năng cần tế nhị, không thô bạo, v.v.. Những quan điểm
của tác giả nêu ra đến nay vẫn còn ý nghĩa lớn. Thực tế cho thấy, trong nhiều gia
đình, do tính ích kỷ cá nhân, do thói gia trưởng, độc đoán là nguyên nhân chính dẫn
đến những bất đồng, mâu thuẫn, xung đột, thậm chí dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc gia
đình.
Gia đình là một xã hội thu nhỏ, sự tác động của xã hội đến sinh hoạt gia đình
ở mỗi thời kỳ có tính đậm, nhạt khác nhau. Sự tác động đó thể hiện ở việc định
hướng giá trị, nội dung và phương pháp giáo dục. Vấn đề đặt ra hiện nay là biết giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của GĐTT Việt Nam, đồng thời, tiếp
thu kịp thời những tư tưởng tiên tiến của thời đại để xây dựng VHGĐ Việt Nam vừa
“tiên tiến”, vừa “đậm đà” bản sắc dân tộc. Theo tác giả, nội dung tư tưởng chứa
đựng trong nếp sống văn hóa của mỗi gia đình, như nghề nghiệp, thành phần, hoàn
cảnh kinh tế, cơ cấu gia đình có thể khác nhau nhưng đều hội tụ ở điểm chung, đó
là: sống có tình, có nghĩa giữa vợ và chồng, cha mẹ, con cái, ông bà và con cháu. Sự
công bằng, dân chủ trong quan hệ giữa các thành viên đi đôi với sự tin cậy, tính
trung thực, sự khoan dung, độ lượng trong việc giải quyết các sự kiện, các mâu

13


thuẫn nảy sinh trong gia đình. Đó là sự nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân với lợi ích gia đình và lợi ích cộng đồng.
Cuốn sách Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ
em (2001) [45], tác giả Lê Như Hoa đã cho rằng, GĐVN đang có sự chuyển tiếp từ
truyền thống sang hiện đại. Quá trình chuyển tiếp này không thể tránh khỏi những
đảo lộn, những đổ vỡ trong gia đình. Vì thế gìn giữ và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những giá trị cách tân, hiện đại của
VHGĐ có ý nghĩa quan trọng và chiếm vị trí hàng đầu trong xây dựng VHGĐ Việt

Nam hiện nay. VHGĐ là một dạng văn hóa cộng đồng đặc thù trong đó hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội chi phối mọi quan niệm, thái độ, hành vi của các thành viên trong
gia đình. Thông qua VHGĐ thì những đặc trưng của văn hóa dân tộc được biểu hiện
cụ thể và đậm nét. Muốn xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phải bắt đầu từ
xây dựng môi trường văn hóa trong gia đình. Những quan điểm của tác giả về
VHGĐ đến nay vẫn mang tính thời sự, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa văn
hóa đang diễn ra sâu sắc. Mỗi quốc gia không chủ động trong hội nhập văn hóa thì
rất dễ bị các nền văn hóa lớn thôn tính và nguy cơ bị đánh mất bản sắc, bị “hòa tan”
trong quá trình hội nhập. Do đó, muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thì trước tiên
phải biết giữ gìn các giá trị, chuẩn mực của VHGĐ.
Công trình Nghiên cứu phụ nữ - Giới và Gia đình (2003) [63] của tác giả
Nguyễn Linh Khiếu. Trong khi luận bàn về khái niệm VHGĐ, tác giả đã nhấn mạnh
rằng, đã có không ít công trình nghiên cứu đề cập đến VHGĐ nhưng đáng tiếc rằng ,
nhiều công trình không giúp người đọc hiểu được VHGĐ là gì ? Lý do là các tác giả
đã không định danh được VHGĐ. Trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước, tác giả
Nguyễn Linh Khiếu cho rằ ng , “VHGĐ là một dạng văn hóa xã hội đặc biệt, nó thể
hiện toàn bộ đời sống tinh thần và vật chất của gia đình” [63, tr. 127]. Văn hóa gia
đình được biểu hiện một cách cụ thể và sinh động trong việc thực hiện các chức
năng của gia đình. Chính vì vậy, nó mang đặc trưng riêng và luôn biến đổi theo sự
vận động và biến đổi của đời sống gia đình, là sự phản ánh một cách đặc trưng của
văn hóa dân tộc và văn hóa thời đại.
Đề tài cấp Bộ Đánh giá việc thực hiện các tiêu chí gia đình văn hóa hiện nay
và xây dựng tiêu chí gia đình văn hóa trong giai đoạn mới (2005) [128] do TS. Lê
Trung Trấn làm chủ nhiệm. Trong công trình này, tác giả đã điều tra 1600 đối tượng

14


là đại diện hộ gia đình và lãnh đạo Đảng, chính quyền và các đoàn thể của 6 tỉnh:
Hưng Yên, Sơn La, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Kon Tum và Sóc Trăng để tìm

hiểu thực trạng xây dựng GĐVH và đưa ra tiêu chí GĐVH trong giai đoạn hiện nay.
Đặc biệt, tác giả đã đưa ra một số định hướng xác định các tiêu chí GĐVH đó là:
Dựa trên giá trị và chuẩn mực của GĐVN hiện đại; phải thỏa mãn nhu cầu và lợi ích
của chính bản thân gia đình; phải giải quyết những vấn đề bức xúc của gia đình hiện
nay; giải quyết tốt mối quan hệ giữa gia đình với cộng đồng, xã hội và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tác giả nhấn mạnh: “GĐVH được
xây dựng dựa trên cơ sở xác định được các giá trị và các chuẩn mực của GĐVN
hiện đại. Do VHGĐ có chức năng là giữ gìn, chuyển giao và phát triển cho nên các
giá trị và chuẩn mực của GĐVN hiện đại phải bao gồm cả những giá trị, chuẩn mực
truyền thống và những giá trị, chuẩn mực mới. Sự kết hợp các giá trị truyền thống
và giá trị mới bảo đảm cho VHGĐ Việt Nam không bị đứt đoạn cũng như không tụt
hậu, đáp ứng được những đòi hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất nước” [128, tr. 148].
Sau khi nghiên cứu thực trạng xây dựng GĐVH, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị,
trong đó có một kiến nghị rất đáng lưu tâm và cần cân nhắc trước khi thực hiện, đó
là “nên chăng, có thể chuyển việc xây dựng GĐVH bằng việc xây dựng gia đình
hạnh phúc. Gia đình hạnh phúc có nội dung phong phú, thiết thực bảo đảm cho việc
phát triển gia đình bền vững” [128, tr. 160], đặc trưng cơ bản của một gia đình hạnh
phúc đó là: Mối quan hệ ấm áp và yêu thương giữa chồng và vợ; lòng hiếu thảo và
thành tâm với ông bà, cha mẹ; tính kỷ luật, nền nếp; mối quan hệ gia đình lành
mạnh, ấm áp và gần gũi; gia đình lành mạnh về vật chất, tinh thần, tình cảm và xã
hội; có thể đáp ứng được các nhu cầu về kinh tế; các thành viên có vai trò rõ ràng.
Một khi xây dựng được các mối quan hệ trong gia đình tốt đẹp, gia đình đó sẽ là gia
đình hạnh phúc. Như vậy, một gia đình được cho là hạnh phúc khi các mối quan hệ
trong gia đình được xây dựng trên cơ sở yêu thương, có trách nhiệm, đời sống vật
chất, tinh thần hài hòa. Tuy nhiên, việc đưa ra kiến nghị này cũng phải được phân
tích thấu đáo, bởi lẽ, gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một tế bào của xã hội,
nó không thể tách khỏi môi trường xã hội. Thực tế cho thấy, không phải gia đình
nào hạnh phúc cũng là gia đình có trách nhiệm, có ý thức cộng đồng cao, v.v..
Thậm chí khi tình cảm gia đình được đề cao thái quá, nó có thể dẫn đến chủ nghĩa


15


gia đình, có nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của cộng đồng, xã hội,
hình thành tư tưởng co cụm, cục bộ địa phương.
Công trình Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 (2008) [12] do Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, Quỹ nhi
đồng Liên hợp quốc (UNICEF) xuất bản. Hiện nay, đây vẫn là một công trình
nghiên cứu đồ sộ và toàn diện về GĐVN, với số mẫu là 9300 hộ gia đình, ở ba miền
Bắc – Trung – Nam, tập trung vào một số vấn đề lớn sau: Một là, về quan hệ gia
đình, trong đó công trình tập trung vào nghiên cứu quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa
vợ và chồng; cha mẹ với con cái. Hai là, về vị thành niên và người cao tuổi trong
gia đình. Ba là, về mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình. Bốn là, về điều kiện
sống và phúc lợi gia đình, v.v.. Những kết quả điều tra về GĐVN năm 2006 sẽ là tư
liệu quan trọng để tác giả phân tích, so sánh làm rõ thực trạng và sự biến đổi của các
giá trị, chuẩn mực văn hóa trong GĐVN hiện nay.
Cuốn sách Ứng xử của người dân vùng đồng bằng sông Hồng trong gia đình
(2009) [53] là công trình của tập thể tác giả do Lê Thị Thanh Hương chủ biên. Các
tác giả đã cho rằng, ứng xử trong quan hệ gia đình ở khu vực đồng bằng sông Hồng
hiện nay đã có những thay đổi nhất định: Thứ nhất, giữa vợ và chồng trong tổ chức
sinh hoạt gia đình đã có sự chia sẻ, bàn bạc ngày càng trở nên phổ biến, thể hiện
thành quả của phong trào nữ quyền. Thứ hai, ứng xử giữa cha mẹ và các con hiện
nay có xu hướng “mở” hơn, tôn trọng hơn “cái tôi” của thế hệ con cái. Do tính phức
tạp và đa dạng của cuộc sống, nên trên thực tế trong nhiều gia đình, cha mẹ sử dụng
cả “ba kiểu ứng xử là tin tưởng – bình đẳng, dễ dãi – buông lỏng và nghiêm khắc –
cứng nhắc trong giáo dục con” [53, tr. 280]. Nhưng nhìn chung, nhiều cha mẹ
thường sử dụng kiểu ứng xử tin tưởng – bình đẳng hơn là kiểu nghiêm khắc – cứng
nhắc hoặc dễ dãi - buông lỏng, v.v.. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, mặc dù chế độ
phụ hệ vẫn thể hiện rõ trong mô hình sống của các hộ gia đình, nhưng đã có những
biến đổi. Trong tâm lý của những người con đã trưởng thành và cả của cha mẹ già

cùng song hành hai chiều mong muốn khác nhau nhưng không mâu thuẫn nhau. Khi
đã lập gia đình riêng thì được sống riêng theo mô hình gia đình hạt nhân, nhưng ở
trong những khoảng cách không gian không xa để có thể thuận tiện chăm sóc cha
mẹ già, cũng như thuận tiện cho việc cha mẹ già hỗ trợ các con khi cần thiết. Sự
thay đổi mô hình sống của gia đình không phải là tiêu chí quan trọng thể hiện sự

16


thay đổi những giá trị tinh thần tốt đẹp trong cuộc sống GĐVN mà nó chứng tỏ
rằng, văn hóa ứng xử trong gia đình Việt Nam hiện nay đang có sự chuyển biến từ
truyền thống sang hiện đại.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước Văn hóa và lối sống đô thị trong giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay (2010) [23] do
PGS.TS Trương Minh Dục làm chủ nhiệm. Công trình này đã đề cập đến nhiều vấn
đề mang tính thời sự của văn hóa và lối sống đô thị hiện nay, trong đó tập trung làm
rõ văn hóa và lối sống của các nhóm dân cư như công nhân, nhóm thị dân làm nghề
tự do, cán bộ, công chức, giới trí thức, doanh nhân, tầng lớp thanh, thiếu niên trong
các đô thị lớn. Trong công trình này, tác giả đã khắc họa lối sống đô thị trong gia
đình, họ tộc ở thành thị hiện nay. Theo tác giả, do sự tác động của quá trình CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế dẫn đến đời sống gia đình đang biến đổi tích cực, thu
nhập, mức sống được cải thiện, chi tiêu cho giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch,
v.v. của các gia đình ngày càng tăng cao, các mối quan hệ xã hội dựa trên thị trường
và pháp luật mở rộng lấn át các quan hệ xã hội truyền thống. Bên cạnh đó, văn hóa
và lối sống của gia đình đô thị hiện nay cũng đang bị tác động bởi nhiều yếu tố tiêu
cực như chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, thực dụng thái quá ở một bộ phận
gia đình đô thị hiện nay. Một bộ phận cư dân đô thị có biểu hiện suy thoái về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ, công chức, thanh niên, học sinh,
sinh viên, v.v.. Theo tác giả, “việc thu hồi đất đai ở những vùng xây dựng các khu
đô thị mới hoặc khu công nghiệp đang làm tăng nguy cơ ảnh hưởng xấu đến các

quan hệ trong gia đình, nhất là quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái, quan hệ ông bà
– các cháu. Trong môi trường đó, lối sống cá nhân thực dụng và ích kỷ có điều kiện
lan rộng, thẩm thấu vào các gia đình đô thị trong các khu đô thị và các vùng ĐTH”
[23, tr. 144]. Trên cơ sở đánh giá thực trạng lối sống đô thị Việt Nam hiện nay, tác
giả đã đưa ra một số giải pháp để xây dựng lối sống đô thị Việt Nam trong giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước Đặc điểm tư duy và lối sống của con người
Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập
quốc tế (2010) [39] do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà làm chủ nhiệm. Công trình
nghiên cứu này đã đi sâu phân tích những đặc điểm tư duy và lối sống truyền
thống của con người Việt Nam. Theo tác giả, người Việt Nam có niềm tự hào

17


chính đáng về những ưu điểm của mình như lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình –
làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái khoan dung, v.v. nhờ có ưu điểm về tư duy và lối
sống đó mà dân tộc ta mới tồn tại và không ngừng phát triển trong lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh gian khổ dựng nước và giữ nước. Nhưng bên cạnh đó trong tư
duy và lối sống của người Việt cũng còn nhiều nhược điểm mà chúng ta cần khắc
phục để phát triển, đặc biệt là “bệnh cá nhân chủ nghĩa, ba phải”, hiện nay bệnh
này khá trầm trọng ở mọi tầng lớp xã hội, biểu hiện là “lối sống thích quyền lực,
thích làm quan, thích làm thầy thiên hạ, ghét buôn bán, ngại làm thợ” [39, tr. 239],
hậu quả của lối sống này là sự mất cân bằng về cơ cấu nguồn nhân lực. Bên cạnh
đó cần khắc phục tư duy và lối sống tiểu nông, nó thể hiện ở “lối sống nặng về
tình cảm dòng họ và tính cục bộ” [39, tr. 240]. Theo tác giả, đối với người Việt
Nam, “tình cảm dòng họ rất quan trọng, trong cộng đồng, tình cảm dòng họ và
tính cục bộ đã tạo nên sự cố kết bền vững, tinh thần tương thân tương ái giữa các
thành viên của nó”, bên cạnh những mặt tích cực, “tình cảm dòng họ làm nảy sinh

những biểu hiện của tâm lý hẹp hòi, tiêu cực, cục bộ, gia đình chủ nghĩa, những đố
kỵ, ghen ghét, bè phái, phe cánh có nguyên nhân từ lối sống mang tính dòng tộc
này” [39, tr. 240]. Trên cơ sở phân tích sự biến đổi và những vấn đề đặt ra đối với
tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay trước yêu cầu đổi mới và hội
nhập quốc tế, tác giả đã đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy
và xây dựng lối sống của con người Việt Nam hiện nay trước yêu cầu của đổi mới
và hội nhập quốc tế.
Trong cuốn Gia đình - Những giá trị truyền thống (2012) [68], tác giả
Nguyễn Thế Long đã cho rằng, trong việc giáo dục con em thì việc tiếp thu và
phát huy những giá trị truyền thống lâu đời của gia đình là việc làm rất quan trọng.
Những “giá trị truyền thống lâu đời của một gia đình, một dòng họ có một sức
mạnh vô hình đã thúc giục, động viên cho mọi người trong gia đình, dòng họ thực
hiện những hoài bão lớn, đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa truyền thống của
một dân tộc, v.v.. Sức mạnh của dân tộc bắt nguồn từ sức mạnh của gia đình,
truyền thống dân tộc bắt nguồn từ truyền thống gia đình” [68, tr. 5]. Trong tiến
trình lịch sử, GĐVN chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật và đạo Nho. Vì vậy,
GĐTT Việt Nam cũng tiếp thu những tinh hoa của đạo Phật và đạo Nho và đã

18


“Việt hóa” và “dân gian hóa” chúng, nó thể hiện trên các mặt: truyền thống hiếu
học và đạo lý “tôn sư trọng đạo”, truyền thống đạo đức, tâm linh, thẩm mỹ, đó là
những giá trị truyền thống cần được phát huy trong xây dựng gia đình và đất nước
hiện nay.
Công trình Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với phụ nữ
ở Việt Nam (2010) [126] của Tổng cục Thống kê; công trình Cấu trúc tuổi – Giới
tính và tình trạng hôn nhân của dân số Việt Nam (2011) [9] của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư - Tổng cục Thống kê; công trình Điều tra Đánh giá các mục tiêu Trẻ em và
Phụ nữ 2011 (2011) [127] của Tổng cục Thống kê. Các công trình này cung cấp

cho tác giả nhiều số liệu phong phú, quan trọng về gia đình Việt Nam, đặc biệt là
các số liệu về tỷ lệ kết hôn, ly hôn, ly thân, bạo lực gia đình, v.v.. Những số liệu
đó sẽ là tư liệu quan trọng để tác giả đánh giá, phân tích, so sánh làm rõ thực trạng
và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi các giá trị, chuẩn mực văn hóa trong GĐVN
những năm vừa qua.
Như vậy, thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu về VHGĐ Việt
Nam cho thấy, các tác giả đã đưa ra những cách hiểu khác nhau về VHGĐ và
những biểu hiện của văn hoá gia đình. Một số tác giả, coi VHGĐ chính là gia
phong của gia đình, được biểu hiện qua nếp nhà, lối sống của các thành viên gia
đình. Một số tác giả khác lại cho rằng, VHGĐ bao gồm: giáo dục trong gia đình;
là cách ứng xử có văn hóa giữa các thành viên trong gia đình; VHGĐ còn bao
gồm cả văn hóa bảo tồn và phát triển nòi giống; VHGĐ bao gồm cả tri thức khoa
học, y học, giáo dục học, v.v. được ứng dụng vào việc tổ chức cuộc sống gia đình
sao cho đúng, tốt, đẹp; VHGĐ còn thể hiện ở sự giao tiếp có văn hóa giữa gia đình
với xóm giềng, bạn bè, v.v. Dù cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu khác nhau
nhưng các tác giả đều thống nhất với nhau ở một điểm: Coi VHGĐ là những giá
trị, chuẩn mực tốt đẹp của đời sống gia đình, nó được đúc kết trong quá trình dựng
nước và giữ nước, trở thành bản sắc văn hóa dân tộc. Những nghiên cứu đó đã cho
tác giả có cách nhìn đa chiều về VHGĐ Việt Nam, những tri thức quý báu đó giúp
tác giả đi sâu nghiên cứu để làm rõ khái niệm VHGĐ, VHGĐ truyền thống,
VHGĐ Việt Nam hiện nay và cấu trúc của nó, đồng thời phân tích sự biế n đổ i các
giá trị, chuẩn mực của VHGĐ Việt Nam hiện nay.

19


1.2. Những công trình nghiên cứu về sự biến đổi của văn hóa gia đình
Việt Nam hiện nay
Trong bài viết Văn hóa gia đình trong các chiều cạnh của cơ cấu xã hội
(2003) [57], tác giả Đặng Cảnh Khanh đã cho rằng, gia đình và VHGĐ bao giờ

cũng là sản phẩm của một thời đại và do vậy, luôn chịu sự tác động của các điều
kiện kinh tế - xã hội và lịch sử của thời đại đó. Sự biến đổi của gia đình cũng vẫn
phụ thuộc vào sự biến đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội, vào cơ sở xã hội. Nếu
xã hội biến động, gia đình cũng khó tránh khỏi sự khủng hoảng, thậm chí ly tán,
“trong chừng mực mà xã hội rơi vào tình trạng ngưng trệ, các điều kiện kinh tế - xã
hội không có những chuyển biến lớn, thì gia đình, các chuẩn mực và giá trị xoay
quanh gia đình cũng đông cứng lại. Thực tế, GĐVN cũng trải qua những thời kỳ
đông cứng như vậy. Một thời gian dài, trong lúc các cộng đồng làng xã vẫn tồn tại
khép kín và mang tính tự quản chặt chẽ trên cơ sở của nền kinh tế tự cấp tự túc thì
gia đình và VHGĐ cũng không có mấy sự thay đổi” [57, tr. 33]. Tuy nhiên, khi xã
hội biến động và thay đổi thì gia đình và những chuẩn mực về gia đình, tuy có thể
muộn hơn nhưng trước sau cũng buộc phải thay đổi một cách tương ứng. Trong sự
thay đổi đó, trên thực tế, gia đình vẫn bảo lưu lại không chỉ những điều cố hữu,
thậm chí nhiều lúc tới mức ngoan cố, mà còn gìn giữ những cái vẫn phù hợp và góp
ích cho xã hội tương lai. Chính khả năng “bảo lưu và gìn giữ những mặt tích cực và
tinh hoa của quá khứ, mặc cho cuộc đời có thay đen đổi trắng, vàng thau lẫn lộn, đã
khiến cho gia đình đã luôn trở thành nơi nương tựa vững vàng cho cuộc đời biến
động” [57, tr. 34]. Tác giả nhấn mạnh, để thực sự tồn tại và phát triển trong mối
quan hệ cân bằng giữa hai mặt truyền thống và hiện đại, gia đình không thể chỉ tồn
tại trong những chuẩn mực truyền thống thiêng liêng, bất biến mà là một thực thể
uyển chuyển, được điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với hoàn cảnh mới, vừa
trung thành với những truyền thống nhân văn cơ bản.
Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh rằng, chúng ta phải có những chính sách
và cơ chế khiến cho việc phát triển những quy luật của cơ chế thị trường “không
làm xâm hại đến những gì tốt đẹp mà cha ông chúng ta đã gây dựng nên từ ngàn đời
nay, không làm biến dạng những giá trị văn hóa của tổ tiên thành một thứ đồ ăn
thập cẩm xếp từ phía sau những giá trị của thị trường hàng hóa, không biến những
mối quan hệ xã hội, cộng đồng, gia đình tốt đẹp thành những sản phẩm được cân đo

20



cẩn thận theo thang bảng lên xuống của chỉ giá đồng tiền”, ngược lại, chúng ta cũng
không thể “cho phép việc núp dưới danh nghĩa bảo vệ các giá trị truyền thống để
duy trì và bảo lưu những quan niệm và chuẩn mực cổ hủ, lạc hậu kìm hãm sự phát
triển của đất nước” [57, tr. 36].
Đề tài cấp Bộ Những biến đổi về giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven
đô thuộc địa bàn Hà Nội thời kỳ đổi mới (2006) [35] do TS. Ngô Văn Giá làm chủ
nhiệm. Trong đề tài này, tác giả đã đề cập đến hai vấn đề lớn, đó là những biến đổi
của giá trị cộng đồng làng và những biến đổi của giá trị cộng đồng gia đình và dòng
họ. Trong sự biến đổi của giá trị cộng đồng gia đình, thứ nhất, tác giả đề cập đến sự
biến đổi trong việc tổ chức kiến trúc sinh hoạt. Thứ hai, biến đổi trong lối sống, nếp
nghĩ. Tác giả nhấn mạnh “những thay đổi trong PTSX, điều kiện làm việc và thu
nhập, quan niệm xã hội khiến cho vai trò của các thành viên trong gia đình thay đổi
theo. Trật tự tôn ti cũng không còn tuyệt đối như trước, cách thức ứng xử của con
người theo hướng lấy giá trị cộng đồng gia đình là tiêu chí điều chỉnh vì thế có nhiều
nới lỏng… những giá trị chuẩn mực của gia đình không quá ràng buộc tự do cá nhân
đang được hưởng ứng mạnh” [35, tr. 67]. Thứ ba, biến đổi trong các phong tục tập
quán, chẳng hạn, trong hôn nhân, sự chi phối của gia đình đến hôn nhân không còn
mang tính uy quyền tuyệt đối, nguyên nhân là do: sự ràng buộc về kinh tế của con cái
vào cha mẹ đã giảm bớt; điều kiện làm ăn xa nhà đã cho họ khả năng tiếp xúc với
nhiều đối tượng mà cha mẹ không thể có lý do để phản đối; “ý thức cá nhân đã được
lớp trẻ tiếp nhận quá nhanh, họ tin vào sự vững bền của hôn nhân dựa trên tình cảm
và chỉ chấp nhận yếu tố này là quan trọng nhất có thể quyết định hôn nhân” [35, tr.
69].
Luận án tiến sỹ Sự biến đổi của văn hóa gia đình đô thị ở Hà Nội từ 1986
đến nay (2010) [49] của Vũ Thị Huệ, khi đề cập đến cơ cấu của VHGĐ, tác giả
phân chia thành: thứ nhất, các dạng hoạt động cơ bản của gia đình bao gồm: văn
hóa sản sinh và nuôi dạy con cái; văn hóa sản xuất sản phẩm vật chất và tiêu dùng
các sản phẩm vật chất ; văn hóa sản xuất tinh thần và hưởng thụ các sản phẩm tinh

thần. Thứ hai, cơ cấu của VHGĐ chia thành hệ giá trị gia đình , bao gồm: các giá trị
cấu trúc; các giá trị chức năng; các giá trị tâm linh. Thứ ba, cơ cấu của VHGĐ như
một dạng văn hóa cộng đồng đặc thù bao gồm: hệ giá trị gia đình; các thiết chế gia
đình; hệ thống chuẩn mực của gia đình biểu hiện như hệ thống hành động (chỉ dẫn

21


×