Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ngân hàng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.18 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

LÊ THỊ CHUNG

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH,
SINH VIÊN NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

LÊ THỊ CHUNG

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH,
SINH VIÊN NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số:
5.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ KIỆT

HÀ NỘI - 2004



MỞ ĐẦU
Ơ

1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản của giáo dục ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay đã được Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VII vạch
ra là, xây dựng những lớp người thiết tha gắn bó với lý tưởng cách mạng, có
đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, biết giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hoá của dân tộc, biết tiếp thu những giá trị tinh hoa trong
kho tàng văn hoá nhân loại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng nghề nghiệp, có sức
khoẻ... Nói tóm lại, đó là những con người vừa "hồng", vừa "chuyên" như lời
căn dặn của Bác.
Để thực hiện được mục tiêu trên, một trong những nhiệm vụ trước mắt,
hàng đầu phải là chăm lo giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Đây là một vấn đề
có ý nghĩa lớn trong chiến lược phát triển con người của Đảng ta, trong đó, học
sinh, sinh viên ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học là
những đối tượng hết sức quan trọng.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đại bộ phận học sinh, sinh
viên Việt nam nói chung và học sinh, sinh viên Ngân hàng nói riêng đều có
những phẩm chất đáng quý như: tin tưởng vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng,
vào công cuộc đổi mới của đất nước, biết giữ gìn những giá trị truyền thống
của dân tộc, có lòng tự trọng và chú ý tới việc phát triển, hoàn thiện nhân cách.
Song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận học sinh, sinh viên có những biểu hiện
suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống theo lối thực dụng, thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân, của đất nước... như nghị
quyết Trung ương II khoá VII đã nhận định: "Nạn rượu, chè, cờ bạc, ma tuý
đang xâm nhập vào nhà trường, gây ảnh hưởng xấu đến học sinh, sinh viên"


1


Như vậy đổi mới, mở cửa, thuận lợi, khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan
xen nhau trong quá trình xây dựng đạo đức mới cho học sinh, sinh viên. Làm
thế nào để khắc phục được những tình trạng trên? Làm thế nào để giáo dục
những học sinh, sinh viên trở thành những con người phát triển cao về trí tuệ,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, với một nhân cách phát triển
vừa hồng vừa chuyên. Đó là những vấn đề lớn hết sức bức xúc mà thực tiễn
giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên nói chung và học sinh, sinh viên
Ngân hàng nói riêng đã và đang đặt ra.
Đề tài "Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ngân hàng
trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam" này muốn góp một phần nhỏ vào việc
giải quyết những vấn đề lớn đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức đã có nhiều công trình, bài viết, tác
phẩm đề cập đến như cuốn "Đạo đức mới" của GS Vũ Khiêu (NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1974); cuốn "Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới" của
GS Tương Lai (NXB Sự thật, Hà Nội, 1983).
Một số tài liệu dưới dạng giáo trình và tài liệu tham khảo do Bộ Giáo
Dục và Đào tạo xuất bản phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập môn đạo
đức học ở một số trường Đại học và Cao đẳng như cuốn "Đạo đức học" tập 1,
tập 2.
Một số những công trình nghiên cứu như "Tìm hiểu định hướng giá trị
của thanh niên trong điều kiện kinh tế thị trường" của Thái Duy Tuyên (chủ
biên) Hà Nội, 1994; "Gia đình, nhà trường, xã hội với việc phát triển, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài" của Thái Trọng Bảo
(chủ biên), Hà Nội, 1996.
Trong một số tạp chí đã có rất nhiều bài viết xung quanh vấn đề đạo đức
và giáo dục đạo đức như: "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định


2


hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của TS. Nguyễn Thế Kiệt; "Kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, những biến động trong
lĩnh vực đạo đức" của GS. Nguyễn Trọng Chuẩn; "Vấn đề xây dựng đạo đức
trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường" của TS. Đỗ Lan Hiền; "Vấn đề xây
dựng đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" của
TS. Nguyễn Văn Phúc; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo
đức người cán bộ quản lý"của PGS.TS. Nguyễn Tĩnh Gia; "Sự biến đổi của
thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức
mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" của PGS. TS. Nguyễn Chí
Mỳ… cùng một số luận văn nghiên cứu như "Vai trò đạo đức mới trong hoàn
thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Lành, "Giáo
dục đạo đức cho học sinh, sinh viên trong nền kinh tế thị trường ở thành phố
Hồ Chí Minh" của Phạm Thìn…
Mỗi tác phẩm, mỗi bài viết đề cập đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo
đức ở mỗi góc độ khác nhau. Song qua các tài liệu tìm được, chưa có tác giả
nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống việc giáo dục đạo đức đối với
học sinh, sinh viên Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Để góp
phần vào việc tìm hiểu, làm rõ thêm vấn đề còn được ít quan tâm, tôi đã chọn
đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh
viên Ngân hàng, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên Ngân hàng ở
Việt nam hiện nay.
- Nhiệm vụ:

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

3


+ Góp phần làm rõ tầm quan trọng, yêu cầu, nội dung của giáo dục đạo
đức cho học sinh, sinh viên Ngân hàng hiện nay ở Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ngân
hàng và nguyên nhân của nó.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh, sinh viên Ngân hàng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ngân
hàng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên đang được đào tạo tại Học viện Ngân hàng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của triết học và đạo đức học MácLênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng
sản Việt nam, đồng thời luận văn có sử dụng các thành tựu của một số công
trình khoa học đã đựơc công bố của các tác giả có liên quan đến những nội
dung đã được đề cập trong luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương
pháp khác như điều tra xã hội, thực nghiệm tâm lý.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức
cho học sinh, sinh viên Ngân hàng hiện nay ở Việt Nam.


4


- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng của giáo dục đạo đức cho học
sinh, sinh viên Ngân hàng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên Ngân hàng hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng chương trình môn
đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên Ngân hàng, nhằm góp phần hạn
chế và từng bước xoá bỏ sự xuống cấp về mặt đạo đức trong một bộ phận học
sinh, sinh viên Ngân hàng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận
văn được chia thành 2 chương 4 tiết.
Chương 1: Đạo đức, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho học sinh,
sinh viên ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ngân hàng ở Việt
Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp.

5


Chương 1
ĐẠO ĐỨC, TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH, SINH VIÊN NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển của con người

1.1.1. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh Mos: (Moris) có nghĩa là lề
thói, tập tục, là sự đánh giá hành vi của con người theo khuôn phép và quy tắc
đạo đức, được biểu hiện thành những khái niệm về thiện, ác, vinh, nhục, lương

tâm, nghĩa vụ. Lịch sử đạo đức cho tới nay đã có rất nhiều những quan điểm
khác nhau:
Ở phương Đông, các học thuyết của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn
từ cách hiểu về đạo và đức của họ: Đạo có nghĩa là con đường, là đường đi, và
về sau khái niệm này được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự
nhiên. Đạo còn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm
Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính của con người, và nhìn chung đức là
biểu hiện của đạo. Có thể nói, quan niệm về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi
người phải tuân theo.
Ở phương Tây, các nhà triết học đã rơi vào quan điểm duy tâm khi xem
xét vấn đề về đạo đức. Họ quy đạo đức của con người vào"ý niệm siêu cảm
giác" hay "ý niệm của điều thiện" như quan niệm của Aristot. Có quan niệm lại
quy đạo đức về ý chí thần thánh như quan niệm của tôn giáo. Có quan niệm lại
coi đạo đức là năng lực tiên thiên của con người như quan niệm của Cantơ.
Hay Hêghen lại quan niệm đạo đức là sự thể hiện của "ý niệm tuyệt đối", hoặc
Phoiơbăc lại quy đạo đức vào tình yêu chung chung trong quan hệ của con
người. Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến
nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc, thời đại.

6


Nhìn chung, các quan niệm trên không thấy được tính quy định của nhân
tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và của đạo đức nói riêng.
Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con
người, của xã hội cần được nhìn nhận một cách tách rời với cơ sở kinh tế- xã
hội, cái sinh ra và quy định nó. Sự ra đời của triết học macxit là một bước tiến
mới trong việc nhìn nhận vấn đề đạo đức và giải quyết đúng đắn những vấn đề
mà trước đó chưa có một trường phái triết học nào giải quyết được. Đó là:

Thứ nhất: Đạo đức là một hiện tượng tinh thần, là một hình thái của ý
thức xã hội, là thuộc tính thứ hai so với tồn tại xã hội.
Thứ hai: Ý thức đạo đức là sự phản ánh của đời sống xã hội, là sản
phẩm của những hình thái kinh tế xã hội cụ thể, và trong xã hội có giai cấp thì
đạo đức phát triển trong sự đối lập giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ănghen đã
khẳng định: "Xét đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ, và cho tới nay xã hội
đã vận động trong sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo
đức của giai cấp" [28, tr.136].
Thứ ba: Đạo đức bao gồm một hệ thống các giá trị tinh thần của xã hội
được định hình bằng những nguyên tắc, quy tắc, những chuẩn mực…nó giúp
cho con người định hướng trong hành động của mình.
Thứ tư: Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người
trong các hoạt động, làm cho lợi ích giữa cá nhân và cộng đồng được hài hoà,
hợp lý hơn.
Từ những quan điểm cơ bản trên, có thể hiểu: Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội.

7


Đạo đức là một hiện tượng xã hội, được nảy sinh từ những nhu cầu của
đời sống xã hội, là sản phẩm lịch sử của xã hội do tồn tại xã hội quy định và
phát triển cùng với sự phát triển của tồn tại xã hội. Ngay từ buổi sơ khai của
nhân loại, với công cụ lao động hết sức thô sơ của người nguyên thuỷ, của cải
vật chất sản xuất ra chỉ đủ để nuôi sống mình một cách hết sức chật vật thì họ
đã sớm nhận ra rằng: Muốn duy trì sự tồn tại của mình thì phải biết dựa vào

nhau, phải tiến hành lao động sản xuất. Từ đó đã hình thành lên ý thức tư
tưởng như: ý thức tương trợ, ý thức hợp tác, bình đẳng...Nó được coi là những
công cụ để tự bảo vệ và là những nguyên tắc, những chuẩn mực của xã hội.
Tuy nhiên, đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ còn hết sức thô sơ,
chưa trở thành một hình thái ý thức xã hội riêng biệt. Ănghen đã viết: "Với tất
cả cái tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt
đẹp biết bao, không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua
chúa, tổng đốc, không có nhà tù, không có những vụ xử án thế mà mọi việc
đều trôi chảy cả…Tất cả đều bình đẳng và tự do kể cả phụ nữ" [1, tr.156].
Khi chế độ tư hữu ra đời, trong xã hội đã có sự phân chia giai cấp. Hình
thái kinh tế xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử đó là hình thái chiếm hữu
nô lệ. Với sự xuất hiện giai cấp trong xã hội thì những tư tưởng đạo đức vốn có
trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trước đây đã bị phá vỡ và hình thành lên
một nền đạo đức mới mở đầu cho lịch sử đạo đức mang tính giai cấp. Trong xã
hội chiếm hữu nôlệ, đạo đức của giai cấp nô lệ đối lập, đấu tranh gay gắt với
đạo đức của giai cấp chủ nô. Tình trạng bạo lực, bất bình đẳng, tham
lam...ngày một gia tăng. Giai cấp chủ nô đã tìm mọi thủ đoạn để đàn áp giai
cấp nô lệ. Ănghen đã coi đây là một sự phát triển thụt lùi của đạo đức trong xã
hội: "Chính những động cơ hèn hạ nhất, tính tham lam tầm thường, lòng khao
khát khoái lạc thô bạo, tính bủn xỉn hèn hạ, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp
của chung là người cha đỡ đầu cho xã hội văn minh mới, xã hội có giai cấp

8


chính là thủ đoạn bỉ ổi nhất, trộm cắp, bạo lực, tính xảo quyệt, sự phản bội đã
phá vỡ xã hội thị tộc không có giai cấp và đã đưa xã hội đó đến chỗ diệt vong"
[1, tr.159].
Sang chế độ phong kiến, giai cấp địa chủ phong kiến tuy con người đã
được giải phóng khỏi sự ràng buộc của giai cấp chủ nô nhưng những luật lệ hà

khắc, những quy định ngặt nghèo đã trói buộc người lao động vào những quan
hệ có tính đẳng cấp phong kiến. Thói đạo đức giả, hiếu danh, gia trưởng,
chuyên quyền, độc đoán... đã làm cho một số người mất hết nhân phẩm. Họ
chạy theo địa vị, chức tước để mưu cầu lợi ích riêng cho bản thân và gia đình
họ.
Chủ nghĩa tư bản ra đời là một bước tiến trong lịch sử phát triển của
nhân loại. Nó đã thúc đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay
thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản đã dẫn đến biến
đổi của cả hệ thống đạo đức xã hội.Quan hệ hàng hoá-tiền tệ thâm nhập vào tất
cả các ngõ ngách xã hội, phá tan những sợi dây đạo đức trói buộc con người. Ở
đây chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tác cơ bản của đạo đức tư sản. Nếu xét
về mặt lịch sử thì chủ nghĩa cá nhân tư sản chỉ đóng vai trò tích cực ở buổi
bình minh của nó. Nó đã chiến thắng quan hệ đẳng cấp phong kiến dưới khẩu
hiệu cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng, bác ái. Tuy nhiên, sự bình đẳng ở
đây chỉ là sự bình đẳng hình thức chú không phải là bình đẳng trong thực tế
cuộc sống xã hội. Theo Mác và Ăngghen, giai cấp tư sản đã làm cho giữa
người với người không có một mối liên hệ nào khác ngoài quan hệ lợi hại
trắng trợn và sự giao dịch tiền bạc nhạt nhẽo. Tất cả các hoạt động, cùng với trí
tuệ, tình cảm, danh dự và lương tâm con người đều trở thành đối tượng mua
bán. Lòng tham không đáy ấy chiếm địa vị thống trị trong gia đình, hoạt động
báo chí, khoa học, nghệ thuật và chính trị của giai cấp tư sản. Ở đây vấn đề

9


công lý và nền đạo đức trong xã hội không được bảo đảm bình thường, con
người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm.
Đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản là đạo đức vô sản. Theo
Ăngghen, đây là nền đạo đức có nhiều yếu tố hứa hẹn nhất, lâu dài và chắc
chắn nhất, nền đạo đức tiêu biểu cho tương lai: "Cái gì gọi là tốt đối với giai

cấp thống trị, thì cũng phải là tốt đối với toàn xã hội và giai cấp thống trị coi
mình đồng nghĩa với toàn thể xã hội" [29, tr.263].
Như vậy, đạo đức không phải là một hiện tượng siêu nhiên thần bí,
không phải là một lực lượng áp đặt từ bên ngoài vào xã hội, Đạo đức cũng
không phải là sản phẩm chủ quan của con người mà trước hết là do yêu cầu
phối hợp hành động trong lao động sản xuất, trong phân phối sản phẩm cũng
như trong đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Đạo đức trong mỗi chế độ xã hội
không nhất thành bất biến như nhau mà phụ thuộc vào từng thời đại, từng giai
cấp, từng dân tộc. Ănghen đã khẳng định: "Từ dân tộc này sang dân tộc khác,
từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện, ác đã biến đổi
nhiều khi tới mức chúng trở thành trái ngược nhau" [31,tr.135]. Tuy nhiên, đạo
đức có tính độc lập tương đối của nó, nó tác động tích cực trở lại đối với tồn tại
xã hội, nó có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi hình thành cho tới nay đã
khẳng định vai trò rất to lớn của đạo đức trong việc duy trì trật tự, ổn định và
phát triển xã hội. Việc xã hội phát triển nhanh hay chậm, tiến bộ hay thụt lùi,
suy cho cùng là do bản thân con người có nhận thức đúng đắn các quy luật hay
không, có hướng hoạt động của mình phù hợp với quy luật hay không. Nhìn
chung trong xã hội con người luôn có nhu cầu hướng tới những giá trị đạo đức
tốt đẹp như cái thiện, cái nhân đạo, cái trung thực, làm tròn các nghĩa vụ đạo
đức đối với xã hội. Những giá trị đạo đức đó khi đã được hình thành ở mỗi con
người thì sẽ có tác động trở lại đối với xã hội theo chiều hướng tích cực. Do

10


đó, đạo đức đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo dựng nên một cuộc
sống tốt đẹp cho xã hội. Nó quyết định thái độ, nghĩa vụ và trách nhiệm của
mỗi người đối với bản thân, với mọi người. Quá trình phát triển của lịch sử xã
hội, đạo đức trở thành một mục tiêu, đồng thời cũng là động lực để phát triển

đất nước.
Có thể phân tích vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội thông qua các
chức năng cơ bản sau:
- Chức năng điều chỉnh hành vi:
Loài người đã có nhiều những phương thức điều chỉnh mối quan hệ hài
hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội như phong tục, tập quán, tôn giáo,
pháp luật, đạo đức... tất cả các phương thức điều chỉnh ấy đều chỉ ra giới hạn
được phép và không được phép trong hành vi của mỗi cá nhân, nhằm tạo nên
sự hài hoà giữa các lợi ích. Như vậy, đạo đức là một trong những phương thức
để điều tiết hành vi hoạt động của mỗi con người.
Thực tế đời sống xã hội rất đa dạng và phức tạp. Trong xã hội thường
tồn tại đan xen giữa cái tốt và cái xấu, cái cao cả với cái thấp hèn, người có
đức hạnh và kẻ vô lương tâm. Trong các mối quan hệ xã hội thì cũng rất đa
dạng và nhiều vẻ. Có những mối quan hệ thuận nhưng cũng có mối quan hệ
nghịch, đôi khi rất khó trong việc quyết định, nên phải dựa vào nguyên tắc,
những chuẩn mực đạo đức của xã hội để có những hành vi đối xử đúng đắn.
Điều đó chứng tỏ, cá nhân bao giờ cũng phải lấy những nguyên tắc, những
chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vi đạo đức của mình. Thực hiện chức
năng này, mỗi cá nhân sẽ luôn cảm thấy được thoải mái trong lương tâm, ngay
cả trong trường hợp mối quan hệ có những vấn đề mâu thuẫn. Trong xã hội,
mặc dù đã có hệ thống pháp luật của nhà nước để điều chỉnh hành vi của con
người, song trong thực tế thì pháp luật không thể nào bao quát đựơc hết mọi
hành vi của con người mà phải thông qua những nguyên tắc, những chuẩn mực

11


đạo đức. Đây là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi
của con người. Nó có vai trò rất quan trọng và cần thiết trong đời sống xã hội.
Xã hội muốn ổn định và phát triển, thì đòi hỏi tính tự nguyện, tự giác trong

việc áp dụng những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức ngày càng cao.
Những chuẩn mực đó đã giúp cho con người điều chỉnh ý chí và hành động
của mình nhằm đáp ứng những yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện chủ yếu bằng
hai hình thức sau:
Thứ nhất: Sử dụng sức mạnh của dư luận xã hội để gây áp lực khen,
chê,động viên, khuyến khích những chủ thể có đạo đức, có những hành vi tốt
đẹp. Phê phán, lên án nghiêm khắc những hành vi không lành mạnh, gây ảnh
hưởng xấu tới mọi người và xã hội. Dân tộc ta đã có câu "Trăm năm bia đá thì
mòn. Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". Dư luận xã hội đã trở thành công
cụ lợi hại trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức. Do đó, nếu dư luận xã hội
được hướng dẫn bởi những học thuyết đạo đức tiên tiến, sẽ góp phần điều
chỉnh những hành vi đạo đức của con người phù hợp với sự tiến bộ xã hội, tạo
nên những giá trị đạo đức đích thực.
Thứ hai: Bản thân chủ thể đạo đức phải tự nguyện, tự giác điều chỉnh
hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tích cực
tham gia hoạt động tập thể để mau chóng trưởng thành, vững vàng về tư tưởng.
Khi các chuẩn mực đạo đức xã hội đã được các chủ thể tiếp thu sẽ tạo thành
những chuẩn mực cá nhân. Nếu các chuẩn mực cá nhân, phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan, làm cho hành vi
đạo đức của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận xã hội đồng tình
ủng hộ. Nếu các chủ thể thiếu đi sự nhiệt tình, cố gắng của bản thân, không
thực hiện được một quan hệ đạo đức nào đúng với những chuẩn mực cá nhân
thì lương tâm họ bị cắn rứt. Họ luôn cảm thấy ân hận, xấu hổ về những hành vi

12


của mình. Ngược lại, mỗi khi họ thực hiện được những quan hệ đạo đức đúng
đắn như những chuẩn mực đạo đức đã được hình thành trong họ thì lương tâm

họ cảm thấy thoải mái, thanh thản, họ tự hào về hành vi của mình.

13


- Chức năng giáo dục:
Chức năng giáo dục của đạo đức là để hình thành những quan điểm cơ
bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, những chuẩn mực của đạo đức cho con
người. Nó giúp cho con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng
xã hội. Từ đó đánh giá đựơc tư cách, ý thức và hành vi của bản thân mình. Sự
tồn tại của một hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, những chuẩn mực đạo đức
của bất cứ xã hội nào, cũng đều có tác dụng định hướng giáo dục cho con
người, giúp cho con người nhận biết đựơc những điều hay lẽ phải, cái chân cái
thiện để vươn tới, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, phù hợp với lợi ích
chung và lợi ích riêng của từng người.
Chức năng giáo dục của đạo đức chính là làm giàu thêm "tính người "
cho mỗi con người. Giáo dục được thực hiện thông qua quá trình giáo dục của
xã hội và tự giáo dục của mỗi cá nhân. Trong đời sống xã hội, mỗi cá nhân
không những chỉ mưu cầu lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần mà còn mưu cầu sự
tiến bộ của bản thân. Do đó, những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức xã
hội, luôn trở thành mục tiêu, thành định hướng cho hoạt động cá nhân của họ.
Những hành vi đạo đức có tính lặp đi, lặp lại, tạo nên các quan hệ đạo đức
tương đối ổn định và thường xuyên đựơc duy trì củng cố bằng dư luận xã hội,
sẽ trở thành thói quen, tập quán, truyền thống đạo đức, trở thành nhân tố trực
tiếp, tác động đến sự hình thành đạo đức của các thế hệ tiếp theo.
Như vậy, giá trị đạo đức trong những trường hợp này được phát triển ra
sao luôn phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của những tư tưởng, những
chuẩn mực đạo đức được tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường và xã hội.
Tự giáo dục đạo đức của cá nhân trước hết đựơc biểu hiện ở chỗ, mỗi cá
nhân, thông qua sự phán xét của lương tâm về hành vi của mình để củng cố các

chuẩn mực đạo đức cá nhân, để đạt tới hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức đó. Mặt khác, dựa vào dư luận xã hội, họ tự điều chỉnh hành vi và

14


điều chỉnh ngay cả những chuẩn mực đạo đức cá nhân khi nhận thấy nó sai
lệch với những chuẩn mực xã hội. Giá trị đạo đức trong trường hợp này phụ
thuộc nhiều vào sự cầu thị của chủ thể trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cho phù hợp với những tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của xã hội.
- Chức năng nhận thức:
Những tư tưởng đạo đức, những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức
xã hội có trở thành các quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay không, điều
đó không những chỉ phụ thuộc vào tính đúng đắn, chân thực của những tư
tưởng đạo đức, những chuẩn mực đạo đức, phụ thuộc vào việc tuyên truyền,
giáo dục đạo đức mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp nhận và chuyển
hoá nó trong hoạt động nhận thức và trong hành vi của mỗi chủ thể đạo đức.
Thông qua việc lựa chọn, đánh giá của các chủ thể đạo đức về những tư
tưởng, những chuẩn mực đạo đức mà hình thành nên trong họ niềm tin, lý
tưởng đạo đức. Nhận thức đạo đức cũng được thể hiện ở hai trình độ: Nhận
thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ kinh nghiệm hoặc tình cảm đạo đức luôn
gắn liền với hoạt động thực tiễn, với các quan hệ đạo đức xã hội. Quá trình này
được hình thành ở các chủ thể đạo đức những hình ảnh, những "thần tượng".
Nó được coi là những chuẩn mực trực tiếp cho việc đánh giá và điều chỉnh
hành vi đạo đức của họ. Còn nhận thức đạo đức ở trình độ tư tưởng hoặc lý
luận là quá trình nhận thức có tính nguyên tắc, được chỉ đạo bởi những lợi ích
căn bản của giai cấp, của xã hội.
Thông qua quá trình nhận thức cũng như thông qua hoạt động thực tiễn
của con người mà chủ thể đạo đức phân tích, đánh giá, lựa chọn những tư

tưởng đạo đức, những chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Trên cơ sở đó, họ
chứng minh, lý giải những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức được hình
thành trong họ là đúng hay sai, giúp họ phân biệt được đâu là lẽ phải, để giúp

15


họ định hướng vươn tới những giá trị đạo đức tốt đẹp, sống thiện, sống có ích
và làm tròn những nghĩa vụ đối với xã hội.
Để thực hiện chức năng này, đòi hỏi mỗi cá nhân phải có những năng
lực, những phẩm chất đạo đức nhất định, giúp họ nhận biết được những giá trị
đạo đức, những chuẩn mực đạo đức để từ đó họ có những hành vi đạo đức phù
hợp với các chuẩn mực đạo đức trong đời sống xã hội.
Như vậy, vai trò của đạo đức được thể hiện thông qua các chức năng cơ
bản của nó. Mỗi chức năng có một vị trí và vai trò nhất định, nhờ có các chức
năng trên mà đạo đức có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội. Nó trở thành
mục tiêu, động lực phát triển của xã hội. Trong các chức năng trên, chức năng
giáo dục giữ vai trò hết sức quan trọng. Nhờ có chức năng này mà con người
đã tự giác điều chỉnh hành vi của mình làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại
và phát triển, bảo đảm được quan hệ lợi ích giữa cá nhân với công đồng, giúp
cho con người nhận thức và hành động theo cái chân, thiện, mỹ, đẩy lùi cái ác,
thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.. Tuy nhiên, hiệu lực của sự tác
động trở lại đó, lại phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố sau:
+ Ý thức đạo đức đó là tiến bộ hay lạc hậu: Nếu ý thức đạo đức tiến bộ,
nó sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại, nếu ý thức
đạo đức lạc hậu, bảo thủ thì sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của xã hội.
+ Mức độ thâm nhập của ý thức đạo đức đó trong quần chúng nhân dân.
+ Phụ thuộc vào khả năng, năng lực của giai cấp cầm quyền.
1.1.2. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển con người
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát

triển tinh thần và thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần
dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đã đặt ra. Giáo dục là
một quá trình có tính hai mặt. Một mặt, đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối
tượng giáo dục. Mặt khác, thông qua sự tác động đó mà con người tự giáo dục

16


ngay chính bản thân mình. Trong quá trình tồn tại và phát triển của con người,
có nhiều giá trị trong đó có các giá trị đạo đức được hình thành chủ yếu thông
qua con đường giáo dục. Không có giáo dục thì không thể bảo tồn và phát triển
được những giá trị chung của loài người như các giá trị kinh tế, chính trị, tư
tưởng, đạo đức, nhân văn... và do đó, không thể sáng tạo ra được những giá trị
mới.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng giáo dục để hình
thành trong họ những yếu tố, tình cảm, niềm tin, lý tưởng và tất cả được thể
hiện ở những hành vi đạo đức.
Hoạt động đạo đức chính là hoạt động của con người, được điều chỉnh
bởi ý thức đạo đức của chủ thể, hay nói cách khác, đó là sự thể hiện những
năng lực, phẩm chất đạo đức của con người. Do đó, giáo dục đạo đức là quá
trình chuyển những yêu cầu đạo đức của xã hội thành những phẩm chất đạo
đức cá nhân, thành sự hiểu biết, thành ý trí, niềm tin, thành nhu cầu, động cơ,
năng lực bên trong của mỗi cá nhân và sau đó là sự tự nguyện, tự giác hành
động.
Thông qua việc giáo dục đạo đức, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức
đựơc cá nhân nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ hơn, góp phần điều chỉnh
hành vi của con người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Một kiểu
giáo dục đạo đức tiến bộ là việc giáo dục đó phải đưa tới kết quả thúc đẩy loài
người theo hướng "nhân đạo hoá". Hiệu quả của giáo dục đạo đức liên quan rất
lớn tới môi trường đạo đức. Do đó mà cần phải lành mạnh hoá môi trường đạo

đức. Ngoài ra, các yếu tố như; điều kiện kinh tế xã hội, cách thức tổ chức giáo
dục, mức độ tự giác của chủ thể, là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả của giáo dục đạo đức. Một khi chủ thể có sự tự nhận thức, tự đánh giá
đúng thông qua những mục đích, yêu cầu, nội dung... của quá trình giáo dục, sẽ
giúp cho mỗi cá nhân và cộng đồng có những hành vi đạo đức đúng đắn. Cho

17


nên, giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tiến bộ đạo đức, gắn liền với quá trình
"nhân đạo hoá" các mối quan hệ.
Hiện nay nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
khoa học, chuyên môn, kỹ thuật, nhằm không ngừng phát triển tài năng cho
con người, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Người xưa đã từng nói: "Tiên học lễ, hậu học văn", "Cái nết đánh chết
cái đẹp". Mỗi con người muốn trở thành những cá nhân tốt trong xã hội, thì
trước hết cần phải được trang bị tốt, phải am hiểu được những quy tắc đạo đức,
những chuẩn mực đạo đức. Khi đã có sự hiểu biết về những chuẩn mực đó thì
điều quan trọng là phải thể hiện được qua những hành vi đạo đức của mình.
Trong quá trình đó, một vấn đề được đặt ra là, thực hành những quy tắc đạo
đức đó ra sao cho vừa đảm bảo được những quy tắc chung lại vừa thích ứng
được với yêu cầu của thực tế. Vì vậy, giáo dục đạo đức cho mọi người mà
trước hết là cho thế hệ trẻ là một yêu cầu thường xuyên và thiết thực. Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đã nói: " Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [33, tr.334].
Trong các nghị quyết của Đảng, các tài liệu của ngành Giáo dục-Đào tạo
đều đã đề cập đến vai trò quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức, coi việc giáo
dục đạo đức là "nhiệm vụ trung tâm" của ngành, nhằm thực hiện mục tiêu cao
nhất là "dạy người". Do đó giáo dục đạo đức là phải hướng con người, tới

những giá trị đích thực của đời sống xã hội, làm cho họ nhận thức và thể hiện
được những chuẩn mực đạo đức xã hội qua những hành vi đạo đức của mình
có thể khái quát vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển của con
người được thể hiện:
Thứ nhất: Giáo dục đạo đức giúp cho mỗi cá nhân nâng cao được trình
độ nhận thức các giá trị đạo đức, góp phần to lớn trong việc chuyển các quan

18


niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động. Không ngừng
nâng cao trình độ, khả năng nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi cá nhân từ
trình độ nhận thức thông thường lên trình độ nhận thức khoa học. Đến trình độ
này, con người nhận thức các giá trị đạo đức một cách đúng đắn hơn, đầy đủ
hơn. Từ đó giúp cho mỗi cá nhân có được sự định hướng đúng đắn trong việc
lựa chọn các giá trị đạo đức.
Thứ hai: Giáo dục đạo đức còn góp phần tích cực trong việc tạo ra
những giá trị đạo đức mới, xây dựng những phẩm chất đạo đức mới, góp phần
tích cực trong việc đấu tranh chống lại những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự
lệch chuẩn các giá trị nhân cách, những thói hư tật xấu, chống lại những hiện
tượng phi đạo đức. Một khi các giá trị đạo đức biến thành lý tưởng đạo đức,
khi đã được "nội tâm hoá" trong nhân cách mỗi con người thì nó sẽ tạo ra một
cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hoá. Từ đó mà
mỗi cá nhân có được khả năng độc lập ứng xử trước những tình huống cụ thể,
phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội, “miễn dịch" đối với tất cả
những gì lệch chuẩn so với các giá trị đạo đức tiến bộ.
Cho nên, nói về đạo đức không phải chỉ là để hiểu, để biết đạo đức là gì,
mà vấn đề là phải làm thề nào để trở thành con người có đạo đức.
Thứ ba: Giáo dục đạo đức còn góp phần trong việc truyền lại cho thế hệ
trẻ những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước đã tạo ra. Ví dụ như, ý thức bảo

vệ chủ quyền đất nước, lòng nhân đạo, sự khiêm tốn, lòng vị tha, tôn trọng lẽ
phải... Trên cơ sở đó, làm cho thế hệ trẻ nhận ra được những giá trị lớn lao, ý
nghĩa đích thực của cuộc sống. Giúp họ nhận thức được giá trị và ý nghĩa của
cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc, góp phần to lớn
trong việc nhân đạo hoá con người và đời sống xã hội của con người, góp phần
to lớn trong việc hình thành và củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp. Khi
những giá trị ấy đã trở thành tình cảm, động lực nó sẽ thôi thúc con người vượt

19


qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên trong cuộc sống. Chẳng hạn như, giáo
dục lòng yêu nước, giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc Việt nam thì
những giá trị truyền thống đó đã trỏ thành tình cảm của triệu triệu những con
người Việt nam, sẵn sàng chấp nhận những gian khổ, hy sinh để bảo vệ nền
độc lập tự do củaTổ quốc, vươn lên trong cuộc sống, góp phần cải tạo và xây
dựng đất nước. Lịch sử dân tộc Việt nam ta đã chứng minh điều đó.
Như vậy, trong giáo dục đạo đức thì không phải chỉ làm cho con người
có được sự nhận thức đúng các chuẩn mực đạo đức, các giá trị đạo đức mà còn
phải giáo dục để hình thành trong họ những niềm tin và tình cảm đạo đức. Đó
là tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu thương con người...Chính những tình
cảm đạo đức đó "sẽ làm sâu sắc thêm mối tương giao giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên" [40, tr.15], làm phong phú thêm thế giới
nội tâm, giúp cho con người có sức mạnh và nghị lực vươn lên trong cuộc
sống. Do đó, giáo dục đạo đức trước hết là phải giáo dục tình cảm đạo đức cho
con người. Những giá trị đạo đức, những tri thức đạo đức được cá nhân tiếp
nhận bằng lý trí, dù có tốt đẹp đến đâu, nếu không có tình cảm đạo đức trong
sáng thôi thúc thì nó cũng chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận thông tin mà thôi,
chứ chúng không thể trở thành hành vi đạo đức.
Thứ tư: Giáo dục đạo đức có vai trò quan trọng trong việc phát triển và

hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân. Một con người đạt tới sự trưởng thành
xã hội phải là một con người có nhân cách. Nhân cách là "toàn bộ các giá trị
mà con người đạt được trong sự trưởng thành xã hội của nó" [3, tr.29]. Trong
qúa trình phát triển của nền kinh tế xã hội, Đảng ta thường nhấn mạnh yếu tố
con người, coi con người là "nhân tố quyết định sự phát triển đất nước".Tuy
nhiên, để trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển của đất nước,
trở thành "sức mạnh nội sinh" lớn nhất của dân tộc, thì con người phải có sự
hoàn thiện về nhân cách. Chủ nghĩa Mác đã coi con người là một thể thống

20


nhất giữa năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
đã từng nói, người có nhân cách là người có cả Đức và Tài, trong đó đức được
coi là gốc, là hạt nhân của nhân cách. Theo quan niệm đó thì, người có nhân
cách, trước hết phải là người có đạo đức. Tài năng của con người muốn phát
triển phải dựa trên cơ sở sự phát triển của đạo đức.
Tài của con người được biểu hiện ở trình độ văn hoá, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ... Những năng lực, trình độ đó, có liên quan rất lớn đến thái độ
của cá nhân đối với mọi người, đối với xã hội; sự quan tâm lo lắng đối với
mọi người, với tập thể. Đó chính là đức.
Đức là động lực thúc đẩy cá nhân thể hiện được năng lực, tài năng của
mình, vì chỉ có trong tập thể con người mới bộc lộ ra được những năng lực của
mình. Như vậy, đức đã tạo điều kiện cho tài phát triển. Nếu không có những
phẩm chất, những giá trị đạo đức làm nền tảng, thì tài năng rất khó được phát
triển hoặc phát triển một cách méo mó, thậm chí trở thành tội ác, đem lại thảm
hoạ cho con người "ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng" [14, tr.370].
Do đó, khi ở mỗi con người có những phẩm chất trong sáng, cách ứng xử đúng
mực, do quá trình giáo dục đạo đức mang lại thì đó là cơ sở, là điều kiện để
phát triển tài năng. Một con người có sự phát triển về đạo đức, biết gắn bó số

phận của mình vào số phận của gia đình, của tập thể, xã hội thì đồng thời cũng
là con người có ý chí phấn đấu vươn lên, khắc phục mọi khó khăn trở ngại để
có những đóng góp cho lợi ích chung của xã hội.
Trong chiến lược phát triển con người, Đảng và nhà nước ta đề cao vai
trò của giáo dục đạo đức vì nó đã góp phần quan trọng vào quá trình giáo dục,
hoàn thiện và phát triển nhân cách con người cho thế hệ trẻ. Cuộc sống đã chỉ
cho chúng ta thấy rằng, tương lai của một dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn
vào giáo dục đạo đức, định hướng giá trị nhân cách đối với thế hệ trẻ nói
chung và học sinh, sinh viên nói riêng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã

21


nêu rõ, phải "tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa
Mác- LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn". Văn
kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá 8 đã khẳng định:
"Xây dựng tư tưởng đạo đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã
hội là nhiệm vụ cấp bách, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc" [10, tr.69].
Thời đại ngày nay, với sự phát triển mạnh như vũ bão của khoa học và
công nghệ lại càng khẳng định vai trò của vấn đề đaọ đức. Khi đã có trong tay
sức mạnh của khoa học kỹ thuật, thì sức mạnh ấy lại phụ thuộc rất nhiều vào
phẩm chất đạo đức của người sử dụng. Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ IX cũng
đã nêu rõ phải: "Giảng dạy các môn Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo
dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong mọi loại hình trường" nhằm tạo
ra những lớp người vừa "hồng" vừa "chuyên", phải "tăng cường giáo dục lý
luận chính trị, giáo dục đạo đức". Do đó, tài năng chỉ thực sự được phát huy,
được cống hiến, được sử dụng có hiệu quả trong con người có đạo đức mà
thôi. Sự phát triển về tài năng luôn gắn liền với sự tiến bộ về đạo đức. Trong
một buổi nói chuyện với giáo viên đang học lớp chính trị, Bác Hồ đã cho rằng,

có tài mà không có đức là hỏng, có đức mà chỉ i tờ thì dạy thế nào. Đức phải
có trước tài.
Như vậy, đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó đức
được coi là gốc của tài. Ở Việt Nam, truyền thống, nếu đức được gắn với tâm,
thì chân thường gắn với tài .Việc coi trọng đức hơn tài đã được đúc kết trong
câu thơ của thi hào Nguyễn Du "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Đặc biệt
trong bối cảnh hiện nay, khi mà tệ nạn tham nhũng, quan liêu, tình trạng suy
thoái nghiêm trọng của đạo đức trong xã hội đang được coi là những "nguy
cơ", những "quốc nạn" thì việc giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên càng

22


trở nên hết sức quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện nhân cách cho
mỗi cá nhân.
1.2. Tầm quan trọng và nội dung, yêu cầu của giáo dục đạo đức cho học
sinh, sinh viên Ngân hàng
1.2.1. Đặc điểm của học sinh, sinh viên Ngân hàng
Sơ lược quá trình ra đời và phát triển của Ngân hàng và Học viện Ngân
hàng.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
được thành lập theo Sắc lệnh 15/SL ngày 6 tháng 5 năm 1951 do Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký, với những nhiệm vụ chủ yếu là:
- Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ.
- Quản lý kho bạc Nhà nước, huy động và cho vay vốn để phục vụ sản
xuất và lưu thông hàng hoá.
- Quản lý hoạt động tín dụng bằng biện pháp hành chính.
- Quản lý ngoại hối và các khoản gía định bằng ngoại tệ.
Ngay từ khi ra đời, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã được xác định là
cơ quan ngang bộ, song nó mang tính chất đặc thù: vừa là cơ quan quản lý Nhà

nước vừa là cơ quan kinh doanh, vừa thực hiện chức năng ngân hàng, vừa đảm
nhận chức năng tài chính.
Trước năm 1993, hệ thống các trường Ngân hàng đều do Ngân hàng
Nhà nước trực tiếp quản lý. Ở miền Bắc có trường Cao cấp nghiệp vụ Ngân
hàng, trường Trung cấp Ngân hàng Bắc Ninh, trường Trung cấp Ngân hàng
Sơn Tây; miền Trung có trường Trung cấp Ngân hàng Phú Yên; miền Nam có
trường Trung cấp Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh Đây là nơi cung cấp
nguồn lực chủ yếu cho việc phát triển của ngành Ngân hàng.

23


×