Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.42 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THÀNH

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ
LÂM THỊ MỸ DẠ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội-2011


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………..3
1.
2.
3.
3.1.
3.2.
4.

Lý do chọn đề tài…………………………………………………….3
Lịch sử nghiên cứu…………………………………………………..4
Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu…………………………………..7
Phạm vi…………………………………………………………….…7


Đối tƣợng………………………….………………………………….7
Phƣơng pháp nghiên cứu………………………….…………...……8

5.

Cấu trúc của luận văn………………………….……………………8

PHẦN NỘI DUNG………………………….………………………….….9
CHƢƠNG 1: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH……………………9
1.1. Cái Tôi công dân………………………….………………………….9
1.1.1. Cái Tôi hòa nhập vào cái Ta cộng đồng………………………….10
1.1.2. Cái Tôi ý thức về quê hƣơng, về con ngƣời thời đại……….……13
1.2. Cái Tôi cá nhân………………………….……………………….….21
1.2.1. Cái tôi mang vẻ đẹp mẫu tính………………………….……….…25
1.2.2. Cái tôi trong những cung bậc của tình yêu………………………38
1.2.2.1. Cái tôi buồn, cô đơn………………………….……….…………41
1.2.2.2. Cái tôi khao khát hạnh phúc……………………...…….………47
1.2.3. Cái tôi trong những suy tƣ về bản thể……………………………51
1.2.4. Cái Tôi nghệ sĩ………………………….………………………….57
CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG THẾ GIỚI……………………...……….62
2.1. Hiện thực chiến tranh ác liệt: sự sống và cái chết, tàn phá
và dựng xây……………………………….……….….…………………..62
2.2. Ngôi nhà thiên nhiên, nơi trú ngụ của tâm hồn…………………...69
2.2.1. Bức tranh thiên nhiên biếc trong, mơ mộng……………….……70
2.2.2. Thế giới thiên nhiên- chiếc nôi tâm hồn…………………………76
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN

1



Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LÂM THỊ MỸ DẠ…………………….79
3.1. Hình ảnh và biểu tƣợng………………………….…………………79
3.1.1. Hình ảnh………………………….………………………………...79
3.1.2. Biểu tƣợng………………………….………………………………87
3.1.2.1. Biểu tƣợng trái tim………………………….…………………...88
3.1.2.2. Các biểu tƣợng liên quan đến nƣớc…………………………….90
3.2. Giọng điệu…………………………………………………………...93
3.2.1. Giọng giãi bày, chia sẻ…………………………………………….93
3.2.2. Giọng suy tƣ, triết lí……………………………………………….96
3.3. Thể thơ………………………………………………………………98
3.3.1. Thơ tự do…………………………………………………………..99
3.3.2. Thơ lục bát………………………………………………………...100
3.3.3. Các thể thơ khác…………………………………………………..103
PHẦN 3: KẾT LUẬN…………………………………………………...105
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………107

2


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

PHẦN MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài
Thơ nữ là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử thi ca Việt Nam, tạo

thành một dòng chảy với những quy luật và diện mạo đặc thù. Trong văn học
hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hóa, cánh cửa thơ ca ngày càng rộng mở
với phái nữ. Họ đến với thơ để khám phá, trải nghiệm và khẳng định chính
mình. Tuy nhiên, phải đến giai đoạn văn học chống Mỹ, đội ngũ các nhà thơ
nữ mới thực sự lớn mạnh. Thi đàn đã quy tụ được đông đảo các cây bút trẻ
như: Việt Anh, Trần Thị Mỹ Hạnh, Song Hảo, Hoàng Thị Minh Khanh, Ý
Nhi, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Lê Thị
Mây, Lâm Thị Mỹ Dạ…Mỗi người một phong cách, một giọng điệu riêng, có
những đóng góp đặc sắc về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật vào
thành tựu chung của thơ ca thế hệ, thời đại và dân tộc. Nhiều người trong số
họ tiếp tục hòa mình vào dòng chảy của thơ ca đương đại tạo nên một dấu ấn
riêng bên cạnh những bứt phá của các nhà thơ nữ thuộc thế hệ 8X, 9X. Trong
đội ngũ các nhà thơ nữ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Lâm Thị
Mỹ Dạ thực sự là một gương mặt gây được nhiều ấn tượng với những thành
tựu nổi bật. Nếu Xuân Quỳnh tài hoa, sôi nổi; Thanh Nhàn nhuần nhị, kín
đáo; Ý Nhi trầm lắng, suy tư thì Lâm Thị Mỹ Dạ lại nổi bật với vẻ tinh tế,
đằm thắm và giọng thơ ngọt ngào, trong trẻo rất có duyên.
Đầu thập niên 70, với giải Nhất cuộc thi Thơ của báo Văn Nghệ người
con gái trẻ mang tên Mỹ Dạ chính thức trình làng thơ cùng sự ái mộ của độc
giả. Từ đó đến nay, với sự nỗ lực không ngừng, nữ sĩ đã gặt hái được khá
nhiều thành công trong sự nghiệp thơ ca của mình. Năm 1973, nhà thơ được
tặng giải A về đề tài thương binh liệt sĩ của Bộ nội vụ, tiếp đó là giải thưởng
văn học Hội Nhà văn Việt Nam 1981-1983, giải A thơ năm 1999 của Uỷ ban
toàn quốc Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam. Năm 2005, thơ Mỹ Dạ đã được

3



Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

tuyển chọn, dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Mỹ (Tập Cốm non gồm 56
bài do Martha Collins và Đinh Thúy dịch). Gần đây nhất (2007), những đóng
góp nổi bật của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được nhận Giải thưởng Nhà nước- phần
thưởng cao quý dành cho văn nghệ sĩ.
Những bài thơ trong tập đầu tay của Lâm Thị Mỹ Dạ được viết giữa
tiếng bom gầm đạn rú của cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai
đoạn gay go, quyết liệt. Bởi vậy, âm hưởng thời đại- chất sử thi là dấu ấn dễ
nhận thấy trong những vần thơ nhẹ nhàng, giàu nữ tính. Hiện thực được phản
chiếu qua lăng kính của cái tôi nữ sĩ nhạy cảm tạo nên một thế giới nghệ thuật
trong trẻo, tinh tế. Và rồi, theo bước chuyển của thời đại, nữ sĩ đưa thơ mình
dấn sâu hơn vào cõi bí ẩn của cái tôi cá nhân, mở ra một thế giới phong phú
và đa diện trong thơ. Sự chuyển biến trong thế giới thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vừa
thể hiện nỗ lực vượt thoát và làm mới chính mình đồng thời nó cũng phản ánh
xu hướng chung của đội ngũ thơ nữ trưởng thành thời chống Mỹ trước
ngưỡng cửa của đổi mới và hội nhập.
Mỗi thi nhân là một nhà sáng thế, mở cánh cửa thi ca của họ, ta bước vào
một thế giới khác. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là một
cách để chúng ta nhận diện được những đặc sắc của nhà thơ, trên cơ sở đó ghi
nhận đóng góp của bà vào thơ ca đương đại nói chung và thơ nữ nói riêng.

2.

Lịch sử nghiên cứu
Lâm Thị Mỹ Dạ đường hoàng bước vào làng thơ trong ánh hào quang


của Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ- một trong những giải thưởng có
sức đảm bảo cho năng lực sáng tạo của một người cầm bút mới tập tễnh vào
nghề. Những thi phẩm riêng lẻ của nữ sĩ trong giai đoạn đầu đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học. “Tâm hồn thơ” và
“nghệ thuật thơ” của Mỹ Dạ đã được phát hiện và khẳng định [17, tr.1]. Từ

4


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

những năm 80 của thế kỉ trước, căn cứ vào hai tập thơ đầu tay của nữ sĩ, Hồng
Diệu đã chỉ ra những đặc điểm thành công cơ bản của thơ Mỹ Dạ: từ sự độc
đáo trong tứ thơ, nét duyên dáng trong cách viết, sự mới mẻ của hình ảnh, đến
âm hưởng chính trong thơ nữ sĩ “xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm
thắm, không ồn ào” nhưng có lúc lại không kém phần khỏe khoắn [17, tr.4];
sự chủ động trong việc triển khai ý thơ không để vần điệu chèo lái con thuyền
cảm hứng. Bên cạnh đó, ông cũng chân thành góp ý với cây bút trẻ này về
một vài hạn chế theo quan điểm đánh giá đương thời: “
(tôi nghĩ đến
trƣờng hợp Huy Cận với tập Trời mỗi ngày lại sáng, và Phạm Tiến Duật với
nhiều bài thơ trong những năm chống Mỹ); hay là chị nên đa dạng hơn nữa
trong cách cấu trúc những bài thơ…” [17, tr.4-5]. Ông khẳng định ý thức lao
động nghệ thuật nghiêm túc đã và sẽ đêm lại những nét riêng, định hình
phong cách của người nghệ sĩ. Từ năm 1988, khi tập thơ mới Hái tuổi em đầu
tay ra đời, các nhà nghiên cứu cũng như độc giả yêu thơ nhận thấy “Những
rung cảm mới trong thơ Mỹ Dạ”. Hồ Thế Hà, một cây bút phê bình đặc biệt
quan tâm đến hiện tượng thơ Mỹ Dạ, đã chỉ ra hướng đi mới của nữ sĩ: “chính

là sự quay về gấp gáp và quyết liệt hơn với nhu cầu khám phá những giá trị
vĩnh hằng của con ngƣời và cuộc sống. Hành trình ấy chân thật, dữ dội
nhƣng đầy trách nhiệm đến nỗi nhà thơ phải trải lòng mình, trải hết vui buồn,
tốt xấu của chính mình để từ đó nhìn ra tha nhân, tâm tình cùng tha nhân”
[19, tr. 35]. Từ đó, ông ghi nhận thành công mới của thơ Mỹ Dạ: “Với hành
trình này, Lâm Thị Mỹ Dạ đã thành công trong cách thể hiện những vấn đề
đời tƣ với một giọng thơ lạ, cấu trúc nhiều tầng lớp, làm hiện lên những liên
tƣởng, ý tƣởng sâu sắc” [19, tr37]. Vũ Quần Phương cũng từng khẳng định
nét riêng trong thơ Mỹ Dạ với “tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách
khai thác, cách lọc tìm chất thơ trong đời sống” tạo nên “một phẩm chất trữ

5


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

tình khá thuần khiết” [40, tr. 1]. Nỗi cô đơn, như một vấn đề nổi bật nhất
trong thơ nữ sĩ cũng được nhận ra cùng chất tươi xanh vốn có của tâm hồn
người làm thơ. Càng ở những chặng đường sau, xu hướng cách tân của Mỹ
Dạ càng được đón nhận nồng nhiệt đặc biệt là sự đổi mới thi pháp: “lấy chính
mình làm đối tƣợng và dám vực dậy những giấc mơ tro vùi” [20, tr. 34]. Hồ
Thế Hà theo dõi sự biến đổi ấy với sự khẳng định đầy tin tưởng: “Sức hấp dẫn
và giá trị của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nằm trong đƣờng biên của cái tôi và cái ta,
giấc mơ và hiện thực, sự tự chôn vùi và sự tự nổ tung, giữa những gì đã qua
và những gì đang đến; bên cạnh cái hƣ ảo mong manh ta bắt gặp cái biếc
xanh, bỡ ngỡ. Và vì vậy, đố là tiếng nói của sự va chạm, sinh thành. Thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ không xa rời thi pháp truyền thống nhƣng luôn phá và thay để làm
giàu có cái phần hiện đại cần thiết của thơ. Thơ chị tự nhiên cứ tƣởng thốt ra

là thành, không cần sửa chữa nhiều lắm nhƣng đó là cái tự nhiên của một tâm
hồn đã chín, của những tứ thơ câm lặng, lãng quên đƣợc đánh thức sau giấc
ngủ mặt trời, lúc mà cái-tôi-nghệ sĩ đƣợc lên ngôi cùng với những giấc mơ
phát sáng màu huyền thoại” [20, tr. 39]. Cảm nhận về thơ tình Lâm Thị Mỹ
Dạ, nhà thơ- nhà phê bình Trần Đăng Khoa cũng nhận ra nét duyên riêng của
nữ sĩ: “Nếu Xuân Quỳnh là ánh nắng góc cạnh, cháy bỏng và dào dạt của
vầng mặt trời giữa ngọ, thì Lâm Thị Mỹ Dạ lại là ánh trăng xanh êm đềm, dịu
mát ở khoảng nửa đêm về sáng” [26, tr. 7]. Như vậy, các nhà nghiên cứu đã
chỉ ra những nét đặc trưng, sự vận động cùng những đóng góp của Mỹ Dạ cho
thơ Việt đồng thời không né tránh những hạn chế. Tuy nhiên, một cái nhìn kĩ
lưỡng hơn về toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ Mỹ Dạ vẫn còn thiếu vắng. Từ
những gợi mở quí báu của những nhà phê bình như trên đã giúp chúng tôi đi
sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ để nhận chân những nét
riêng giữa dòng chung của hồn thơ đặc sắc này.

6


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

3.

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

3.1. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là toàn bộ các sáng tác thơ của Lâm
Thị Mỹ Dạ bao gồm:
Trái tim sinh nở (1974)

Bài thơ không năm tháng (1983)
Hái tuổi em đầy tay (1989)
Mẹ và con (1996)
Đề tặng một giấc mơ (1998)
Thơ với tuổi thơ (2002)
Cốm non (gồm 56 bài thơ được dịch sang tiếng Anh, 2005)
Hồn đầy hoa cúc dại (2007)
Chỉ riêng mình em thấy (thơ tình Lâm Thị Mỹ Dạ, 2008)
Những tập thơ mang tính chất tuyển chọn từ những tập đã xuất bản cũng
được chúng tôi tham khảo, đối chiếu thêm để khảo sát và tìm hiểu về thế giới
nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
3.2. Đối tƣợng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ.
“Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình là một chỉnh thể thống nhất bao hàm các
thành tố cấu trúc và quy luật cấu trúc riêng, thể hiện quá trình cái tôi nhà thơ
nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tƣởng tƣợng của mình. Một mặt thế
giới nghệ thuật ấy gắn liền với kinh nghiệm cá nhân, với phong cách sáng tác
của chủ quan nhà thơ; mặt khác nó phản ánh trình độ nghệ thuật của một giai
đoạn lích sử, một thời đại” [24, tr.30]. Với quan niệm như trên, chúng ta có
thể thấy, trong một thế giới nghệ thuật bao gồm hiện thực- đối tượng khách

7


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

quan của nhận thức nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn hay chủ thể nhận

thức nghệ thuật, chất liệu nghệ thuật. Trong chỉnh thể nghệ thuật- thẩm mỹ ấy
bao gồm hai hệ thống hình tượng chính: Hình tượng Cái Tôi và Hình tượng
Thế giới, được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật tương ứng.
Bởi thế, khi xem xét Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Luận văn
hướng tới tìm hiểu trước hết là hình tượng cái tôi- hình tượng trung tâm, hạt
nhân của cấu trúc chỉnh thể ấy. Trong quá trình nội cảm hóa thế giới, nữ sĩ đã
tạo nên một hình tượng thế giới mang đậm dấu ấn cá nhân. Vì vậy, bên cạnh
hình tượng cái tôi trữ tình, Luận văn cũng hướng tới khám phá hình tượng thế
giới trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ để thấy được không chỉ bức tranh hiện thực
mà cả quan niệm riêng của nữ sĩ. Phương thức biểu hiện cũng được chúng tôi
quan tâm tìm hiểu để thấy được nét riêng của nữ sĩ trong quá trình kiến tạo
thế giới nghệ thuật của riêng mình.

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu

-

Vận dụng thi pháp học.

-

Các phương pháp: thống kê- phân loại, so sánh- đối chiếu, phân tích-

tổng hợp.

5.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn có cấu trúc

như sau:
Chương 1: Hình tượng cái tôi trữ tình
Chương 2: Hình tượng thế giới
Chương 3: Một số phương thức biểu hiện nghệ thuật trong thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ

8


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH
Trung tâm của thế giới nghệ thuật thơ là hình tượng cái tôi trữ tình. “Đó
là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con ngƣời
thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các
phƣơng tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc đáo,
mang tính thẩm mỹ, nhằm truyền đạt năng lƣợng tinh thần ấy đến ngƣời đọc”
(2, tr. 33). Cái tôi trữ tình mang chức năng nội cảm hóa, trở thành hệ quy
chiếu thẩm mỹ đặc biệt mang tính chủ quan, chuyển đổi hiện thực khách thể
thành hiện thực của chủ thể, mang đậm dấu ấn cá nhân như một hiện thực độc
đáo, duy nhất, không lặp lại.
Cái tôi trữ tình là một tập hợp của rất nhiều quan hệ trong mối quan hệ
với chính nó, với cấu trúc tác phẩm. Mỗi cái tôi là một giới hạn tiếp xúc với
đời sống. Bởi vậy, có nhiều tiêu chí phân loại cái tôi trữ tình (39, tr. 57).
Trong thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, ta thấy nổi bật hơn cả là cái tôi

công dân, cái tôi cá nhân và cái tôi nghệ sĩ.

1.1. Cái Tôi công dân
Kháng chiến chống Mỹ đã đem đến cho thi ca Việt Nam một âm điệu
mới, đặc biệt là thơ của thế hệ trẻ. Ý thức công dân và trách nhiệm với Tổ
quốc là tư tưởng nổi bật nhất trong thơ khi quốc gia hữu sự. Lâm Thị Mỹ Dạ
cũng góp thêm một tiếng nói thiết tha, đầy tinh thần nhập cuộc trong thời đại
cả nước lên đường đánh Mỹ, nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy qua hình ảnh
cái tôi công dân với những dạnh thức khá đa dạng.

9


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

1.1.1. Cái Tôi hòa nhập vào cái Ta cộng đồng
Trong hai tập thơ đầu tay của Lâm Thị Mỹ Dạ, cái tôi trữ tình nhiều khi
ở trong tâm thế hướng ngoại. Cá nhân thường chọn cho mình vị trí là một
phần của tập thể, một thành viên của cộng đồng. Bởi vậy, ta thấy đại từ nhân
xưng tôi có khi không tồn tại như một cá thể mà thường nằm trong những
danh từ đại diện cho đoàn thể, cộng đồng: tổ gặt con gái làng tôi, đơn vị tôi,
bạn bè tôi, đất chúng tôi, vùng chúng tôi, quê chúng tôi… Cái tôi là đại diện
cho cái Ta. Cá nhân và tập thể đã hòa chung làm một. Cái tôi hãnh diện khi
được đứng trong tập thể, nhân danh tập thể tự hào về những chiến công,
những thành quả của mình. Phát ngôn của cá thể cũng là tiếng nói của cộng
đồng. Đó là lời khẳng định một tâm thế bình tĩnh, kiên gan, đầy bản lĩnh:
Bom nổ chậm không làm ta sợ nữa
Bao năm chiến tranh lòng đã quen rồi

Nào chị em mình gặt đi thôi.
(Gặt đêm)
Nhân vật trữ tình không hiện diện trong tư thế riêng lẻ mà hòa trong
trong đám đông của cái ta đầy thương mến “chị em mình”, là một thành viên
của tổ gặt con gái bất chấp đạn bom hăng say lao động sản xuất. Bom đạn
chiến tranh- nỗi kinh hoàng ấy “không làm ta sợ nữa” bởi “lòng đã quen rồi”.
Sự dạn dày ấy không hẳn là do kinh nghiệm mà là ý chí được tôi luyện trong
thử thách. Vì vậy, không phải là quen mắt, quen tay mà là “lòng đã quen rồi”.
Bom đạn không ngăn được không khí lao động khẩn trương sôi nổi trên cách
đồng hợp tác với lời giục giã vui tươi: “Nào chị em mình gặt đi thôi”. Ta và
mình- lối xưng hô thật quen thân và gần gũi khi tất cả đã hòa làm một. Trước
khó khăn, gian khổ, cái tôi đứng trong lòng tập thể vẫn vững tâm yên dạ:
Đất chúng tôi mùa hè bỏng rát
Ngọn gió mát ban đêm, ngọn gió nóng ban ngày

10


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Nhà chúng tôi mấy lần bom giội cháy, lại xây
(Tin ở bàn tay)
Là một thành viên của cộng đồng, cái tôi công dân trong thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ giai đoạn đầu thường mang tâm thế dấn thân, hòa nhập vào quần
chúng cần lao. Dứt khoát xa rời thế giới cá nhân nhỏ hẹp với những vui buồn
và lo toan thường nhật, nơi có “một căn nhà”, “tiếng cƣời con tôi- tiếng hát
mẹ tôi”, nhân vật trữ tình tạm biệt “hạnh phúc nhỏ nhoi” để bước ra cuộc đời
lớn, nơi niềm vui đang xây tổ nhờ những người lao động cần mẫn, hăng say.

Vì thế, hành động “ra đi” của cái tôi được nhắc đi nhắc lại không chỉ một lần
trong bài thơ thể hiện một quyết định sau bao trăn trở, suy tư trong hành trình
“từ chân trời của một ngƣời đến chân trời của tất cả”. Bởi thế cái tôi mang
động thái dấn thân “tôi ra đi”, “tôi thành ngƣời gặt lúa”, “tôi nhập vào đoàn
ngƣời bốc vác”, “tôi lại đến một miền đất khác”. Ở đó, cái tôi cá nhân được
sưởi ấm, được trưởng thành khi nhập vào đoàn người lao động. Cái tôi trở
thành một thành viên tích cực hoạt động để cải tạo hiện thực, vừa chống chọi
với thiên nhiên vừa đối mặt với quân thù.
Cái tôi khát khao hòa nhập vào cộng đồng đã thúc giục thi nhân nhập
vào đội ngũ những người gặt lúa, thành một người lao động. Hành động thay
đổi dẫn đến sự nảy nở của tình cảm mới trong trái tim. Đó là tình yêu lớn đối
với con người và cuộc đời, sự gắn bó mật thiết với những người lao động trên
quê hương. Cái tôi dấn thân vào cuộc đời đang trải rộng trước mắt để mở
mang tầm hiểu biết, để trải rộng lòng yêu thương:
-

Tôi đi giữa thành phố bị chiến tranh tàn phá

-

Đêm nay tôi ở bệnh viện

-

Hôm nay tôi đến một miền đất khác

Và từ đó cái tôi hăng hái tham gia vào công cuộc dựng xây quê hương:
- Tôi thành ngƣời gặt lúa với mọi ngƣời

11



Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

- Tôi nhập vào đoàn ngƣời bốc vác
Những người lao động cần cù nhẫn nại đã đem đến cho cái tôi Lâm Thị Mỹ
Dạ một tình yêu bao la rộng lớn:
Và trong tôi
Tình yêu đƣợc nhân lên mãi mãi
Hơn thế nữa, cái tôi nhận ra một điều kì diệu:
Tình yêu không ở trong tôi trƣớc
Tình yêu ở trong cuộc sống
Cuộc sống cho tôi tình yêu
Nếu tôi không ra khỏi căn nhà nhỏ bé
Trong tôi
Chẳng bao giờ có tình yêu lớn thế
Từ đó, cái tôi mở rộng lòng mình để sống vì mọi người, sống cho một lí
tưởng lớn lao hơn cái cá nhân bé nhỏ.
Khi cái tôi mang trong mình ý thức và trách nhiệm công dân, những tình
cảm riêng tư cũng hòa trong tình cảm lớn. Những nhân vật anh- em trong
những câu chuyện tình yêu thường là những người lính:
Ngập ngừng hai đứa nhìn nhau
Chiếc ba lô cũng xanh màu đợi trông
(Tiễn anh bên đầm sen)
Tình yêu lứa đôi cũng giúp họ nung nấu thêm ý chí căm thù để vững
thêm tay súng nhằm thẳng quân thù:
Và lạ lùng biết bao- nỗi nhớ
Đã giúp tôi nhằm rất trúng quân thù

(Anh thương binh kể chuyện)

12


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Nói một cách khác, tình cảm riêng tư trở thành một động lực mạnh mẽ,
lớn lao giúp cái tôi hoàn thành sứ mệnh công dân của người chiến sĩ nhằm
thẳng quân thù bắn để trọn vẹn trách nhiệm thiêng liêng với Tổ quốc.

1.1.2.

Cái Tôi ý thức về quê hƣơng, về con ngƣời thời đại

Dường như chưa bao giờ con người Việt nam lại trăn trở về đất nước
nhiều như thời kháng chiến. Tổ quốc trở thành yếu tố sống còn, thiêng liêng
vô hạn:
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông
(Chế Lan Viên)
Nằm trong mạch cảm hứng chung của thời đại, cái tôi công dân trong thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ cũng thao thức không nguôi về quê hương đất nước. Nữ sĩ đã
tìm cách định nghĩa về hai tiếng Tổ Quốc thiêng liêng. Nguyễn Khoa Điềm,
một nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cũng từng tìm về cội nguồn Đất Nước từ cội
nguồn văn hóa, phong tục dân gian. Đất nước hình thành từ những gì bình dị
muôn thủa:
Đất nƣớc có trong những cái ngày xửa ngày xƣa mẹ thƣờng hay kể

Đất nƣớc bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nƣớc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thƣơng nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sƣơng xay, giã, giần, sàng
Đất nƣớc có từ ngày đó
(Đất nước)

13


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Đất nước không phải là những điều lớn lao vĩ đại mà trước hết đó là
những gì bình dị, gắn bó máu thịt nhất với mỗi con người. Nguyễn Khoa
Điềm đã sử dụng những chất liệu trong vốn văn hóa dân tộc để gửi gắm thông
điệp của mình, kí ức cộng đồng được khơi dậy làm cầu nối nhận thức cho mỗi
người. Còn cái tôi trữ tình trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ lại dùng những kinh
nghiệm, kỉ niệm cá nhân để định nghĩa về Tổ Quốc thân yêu. Từ kỉ niệm ấu
thơ với tiếng đàn da diết xót xa của ông ngoại, cái tôi đinh ninh tin tưởng:
“Tiếng đàn là Tổ Quốc trong tôi”. Lời ru chua xót, đắng cay của mẹ mình tự
xa xưa tay ôm con đỏ bơ vơ không nhà không cửa chính là lời Đất Nước: “Lời
mẹ là Tổ Quốc trong tôi”. Và Tổ Quốc còn là giọt mồ hôi mình đã đổ suốt
cuộc đời lận đận, bởi thế nó thật gần gũi, thiêng liêng:
Tôi yêu
Hạt chói sáng, mặn mà, lao lực
Hạt mồ hôi soi lòng ngƣời trung thực

Giọt mồ hôi là Tổ Quốc trong tôi
Cái tôi trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không dùng tư duy sáng suốt để cắt
nghĩa lí giải mà huy động những kỉ niệm, xúc cảm cá nhân để gọi tên Đất
Nước. Bởi thế cách định nghĩa về Tổ Quốc của thi nhân thật giản dị mà ám
ảnh:
Tổ Quốc ở trong lồng ngực tôi đây
Trong hơi thở, trong mặn nồng máu thịt
Trong giọng nói, trong nụ cƣời tha thiết
Trong suốt cuộc đời cơ cực, sƣớng vui
Đất nước gắn bó máu thịt là thế nhưng đang chìm trong đau thương máu
lửa khiến mỗi người con quê hương không khỏi xót xa:
Hãy nhìn vào Tổ Quốc tôi
Vết thƣơng còn âm thầm rỉ máu

14


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Tổ Quốc nhƣ cánh tay
Vết chém chồng lên nghìn lớp
Đất Nước đau thương được hình dung qua hình ảnh cánh tay chồng chất
vết chém. Một cách giản dị, đầy trực quan, cái tôi cảm nhận nỗi đau của tổ
quốc qua nỗi đau của chính mình, người đọc nhờ vậy cũng dễ hình dung.
Vượt lên trên mọi đau thương, Tổ Quốc qua cách nhìn của cái tôi trong
thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng tươi đẹp, đầy sức sống. Nó ẩn chứa một sức mạnh
tiềm tàng, bền vững với thời gian: “Nhƣng cánh tay sức lực/ Vẫn vƣơn ra bền
vững tháng ngày”. Để rồi, đất nước tỏa rạng vẻ đẹp dịu dàng, biếc xanh: “Ôi

cánh tay biếc xanh nhƣ tình ái/ Con sóng dữ cũng trở nên mềm mại”. Tổ
Quốc hiện lên trong ánh sáng lung linh, ngời chói: “Tổ Quốc của tôi/ Sáng
chói không gian, lung linh giữa ánh trời”. Như vậy, hình ảnh Tổ Quốc trong
cảm nhận của cái tôi trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có vẻ đẹp đa diện, độc đáo thể
hiện một tình yêu nước thiết tha, sâu nặng.
Không chỉ trăn trở về cội nguồn Tổ Quốc, cái tôi Lâm Thị Mỹ Dạ còn
thiết tha tìm mặt quê hương. Gương mặt quê hương hiện lên kì diệu và đầy
sinh động, với khả năng hồi sinh đặc biệt “Vừa thoáng đƣờng nhăn nếp nghĩ
mẹ già/ Đã tƣơi tắn tròn đầy nhƣ cô gái”. Đó không phải là nơi bờ xôi ruộng
mật mà là nắng hạn mưa chan, gió lùa bỏng rát:
Đất quê tôi nắng rát mặt ngƣời
Gió nam nhƣ thổi từ núi lửa
…Mùa hạn chƣa qua đã lo mùa úng
Nhưng không phải vì thế mà không ánh lên vẻ đẹp thi vị: “Vì mƣa luôn
nên đất có nhiều trời/ Tôi đi qua giữa những vùng trời sao”. Trời soi bóng
xuống mặt đất nơi nước mưa đọng lại, mỗi vũng nước là một mảng trời xanh
man mác bóng mây hay một vùng sao lấp lánh trong đêm. Nhìn xuống mảnh
đất quê hương, người con của đất mẹ như đang đứng trong một không gian đa

15


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

chiều, một vũ trụ gồm nhiều tiểu vũ trụ. Hình ảnh liên tưởng độc đáo đó là kết
quả sự thâm nhập của cái tôi vào hiện thực đời sống, là kết tinh của tình yêu
sâu nặng. Dù thiên nhiên khắc nghiệt nhưng mảnh đất Lệ Thủy vẫn nuôi giữ
một sức sống vững bền để bồi đắp cho mỗi con người niềm tin yêu vào cuộc

đời: “Nhƣng quê hƣơng vẫn vững bền sức sống/ Niềm vui vẫn chảy tràn trên
gƣơng mặt trẻ trung”. Quê hương- ấy là máu thịt. Điều không có gì mới mẻ
này được nữ sĩ nói một cách thật thà cảm động: “Núm ruột tôi mẹ chôn từ
thuở bé- Hòa trong đất đai góp vị phù sa”. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn thuở
lọt lòng. Trong sâu thẳm đất đai xứ sở, trong vị phù sa màu mỡ quê hương có
một chút máu thịt và rất nhiếu tâm hồn ta đọng lại. Cái tôi đã nhận thức thấm
thía điều đó: “Bƣớc chân tôi nhƣ gặp lại thịt da/ Của tôi nảy sinh hoài trong
đất ấm”. Để rồi từ trong lòng đất ấm, sự sống đã sinh sôi cho con người gặt
hái: “Tôi bỗng nghe niềm vui vang vọng/ Trong tay ngƣời gặt hái sớm nay”.
Bởi vậy, cái tôi tự hào về sự trù phú của quê hương, về những sản vật mà lòng
đất đã trả ơn cho sự cần lao của con người: “Lòng quê hƣơng trải bày trên
cây cỏ/ Thơm dẻo mùa ngô, đồng lúa ngọt vàng”. Quê hương không chỉ đẹp
với vẻ “hiền dịu mơ màng/ Dòng sông xanh nghe bình minh ửng đỏ” mà còn
hồn hậu yêu thương với giọng cười trong trẻo của những người lao động nắng
gió sờn vai, với mùi thơm hạt gạo, trải bao mưa nắng “vị thật thà bền giữa
thời gian”. Bởi vậy, bao trùm lên tất cả là niềm vui trong trẻo, nỗi thương
mến bao la của cái tôi khi được trở về với đất mẹ: “Tôi về đây nhƣ con bống
nhỏ/ Đƣợc trở về dòng nƣớc buổi sơ sinh”. Trở về với nguồn cội là về với
suối nguồn trong mát của tâm hồn, cái tôi đắm chìm trong nỗi hân hoan vô bờ
bến. Xúc cảm chân thành của cái tôi trước quê hương bản quán đã gọi được
sự đồng vọng trong tâm hồn độc giả.
Bên cạnh khát vọng tìm về cội nguồn quê hương đất nước, cái tôi trong
thơ Lâm Thị Mỹ Dạ còn mang trong mình cảm hứng khẳng định và ngợi ca

16


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ


vẻ đẹp và sức mạnh của con người thời đại đánh Mỹ. Chủ đề quen thuộc trong
thơ ca giai đoạn này cũng âm vang trong thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ. Hòa mình vào cộng đồng, dấn thân nhập cuộc vào đời sống và chiến đấu
của nhân dân, cái tôi đã khám phá ra nhiều điều mới mẻ. Trước hết là bản lĩnh
của con người trong chiến tranh. Bom đạn giặc Mỹ không còn là nỗi kinh
hoàng, lo sợ làm xáo trộn cuộc sống thường nhật của con người. Họ vẫn hăng
say lao động sản xuất, không ngại đạn bom, chẳng quản ngày đêm: “Tổ gặt
con gái làng tôi đó- Mƣời hai chiếc nón sáng đêm thâu”. Những cô gái hăng
say lao động sản xuất vừa mang trong mình chất thép của khí thế hào hùng lại
có vẻ đẹp lãng mạn đầy nữ tính. Các cô chẳng sợ bom bi nhưng lại mang một
nỗi lo rất con gái: “Đạn bom thù chẳng sợ đâu- Chỉ lo sƣơng ƣớt mái đầu lá
chanh”.
Cái tôi thi nhân còn thể hiện lòng khâm phục trước những con người anh
hùng đã chiến đấu quên mình, không quản ngại hi sinh xương máu cho “tổ
quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Đó là chị Trần Thị Tâm mà cuộc đời còn
âm vang mãi mãi. Người con gái đã bám địch, tìm dân trong những ngày khó
khăn, gian khổ: “Ăn xƣơng rồng thay cơm da con gái xanh dần”. Chị đã dũng
cảm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng:
Lựu đạn giặc ném vô, chị ném trả không ngừng
Trận đánh diễn ra suốt một ngày quyết liệt
Một mình trong một góc hầm con, chị đã kiên cường chống lại cả bầy
giặc dữ trong suốt một ngày ròng cho đến khi tiếng mìn định hướng vang lên:
Đất gầm lên rồi đất bỗng im lìm
Chiếc hầm nổ tung chị vỡ thành ánh sáng
Máu xƣơng chị đất đai tỏa rạng
Cấu trúc lặp mang nghĩa đối lập “đất gầm lên”, “đất bỗng im lìm” đã tái
hiện một khoảnh khắc dồn nén giữa sự sống và cái chết. Sự ra đi của chị

17



Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

chính là sự hóa thân thành ánh sáng huy hoàng. Hình ảnh độc đáo “chị vỡ
thành ánh sáng” vừa mang nghĩa thực vừa miêu tả cái chết mang màu huyền
thoại. Chị đã dâng hiến tuổi xuân cho niềm tin yêu mãi nở giữa cuộc đời.
Đó còn là hình ảnh người cậu thân yêu- anh Vệ quốc quân “lúc ngã
xuống tuổi vừa tròn mƣời tám”. Người vệ quốc không còn nhưng cây bàng
anh trồng thì sum suê bóng mát, gan góc vươn xanh giữa bầu trời. Để từ bóng
mát ấy, bao thế hệ đã lớn khôn:
Bóng tỏa tròn cho trẻ nhỏ đùa chơi
Tuổi thơ cháu từ nơi này khôn lớn
Tán cây đã tỏa bóng cho bao lớp trẻ đã lên đường chiến đấu, tiếp bước
con đường của cha anh. Những chàng trai mười tám đôi mươi như tuổi cậu
hiến dâng cho đất nước:
Lớp trẻ bây giờ lại lên đƣờng chiến đấu
Lại hành quân theo con đƣờng của cậu
Qua tán bàng dừng lau giọt mồ hôi
Cây bàng còn lại như một hiện thân cho tấm lòng yêu thương của người
vệ quốc quân đốivới cuộc đời:
Mỗi lá rực lên đỏ một mặt trời
Nhƣ thƣơng nhớ chẳng thể nào nguôi đƣợc
Nhƣ cái chết cháy thành ngọn lửa
Thắp sáng mùa đông sƣởi ấm những mầm non
Viết về cái chết của những người con đã hi sinh cho tổ quốc, Lâm Thị
Mỹ Dạ thường chọn mô típ hóa thân. Sự hi sinh của người cậu đã làm bùng
cháy lên ngọn lửa rực đỏ trong mỗi lá bàng lúc đông sang để sưởi ấm cho

những mầm non sinh sôi nảy nở. Cái chết của người anh hùng đã bồi đắp cho
sự sống trên quê hương đất nước. Nói cách khác, cái chết luôn là sự tái sinh
màu nhiệm để hướng tới sự tận hiến và trường tồn.

18


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Cái tôi trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ còn say mê tìm về với những di sản
của văn hóa truyền thống dân tộc. Đó có thể là những di vật còn lại từ thời cổ
xưa trống đồng, đàn đá hay những câu chuyện cổ đậm chất nhân văn đã giúp
cái tôi thi nhân vượt dòng thời gian quay về “nhận mặt ông cha của mình”.
Khi nghe tiếng trống đồng, có lúc thi nhân ngỡ “mình thành ngƣời xƣa” và
tưởng chừng thế giới xưa đã đồng vọng vào hiện tại: “Mơ hồ giọt nắng trong
mƣa/Tƣởng nhƣ trời của ngày xƣa quay về”. Cái tôi say mê trong tiếng trống
thiết tha:
Tiếng luồn vào tận trong tim
Thiết tha, nức nở, lắng im, ngọt ngào
Trống ngân nghe lạ lùng sao
Rƣng rƣng cây lá nao nao tháng ngày
(Tiếng trống đồng)
Tiếng ngân trống đồng là tín sứ đưa cái tôi về với cha ông thuở trước, trở
thành yếu tố nối kết giữa quá khứ và hiện tại:
Từ đây đến đấy xa thay
Đầu kia ai đứng cuối này là tôi
Từ những thanh âm đàn đá, tác giả cũng băn khoăn: “Ngƣời xƣa ơi ở nơi
đâu- Mà nay đàn đá một màu hoang sơ”. Cái tôi trữ tình luôn ở trong tâm thế

tìm về nguồn cội, để tìm lại hồn cốt dân tộc. Bảy thanh âm của đàn đá “kết
thành chuỗi hạt long lanh trong ngời” đã giúp cái tôi sống lại trong không khí
thuở xưa:
Ai đặt bẫy, ai xăm mình
Ai đốt lửa nhảy xập xình suốt đêm
Đoàn ngƣời không biết tuổi tên
Yêu thƣơng nhau để làm nên cuộc đời
(Tôi nghe đàn đá)

19


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Bên cạnh những di sản văn hóa vật chất ấy là những giá trị tinh thần vô
giá mà cha ông đã sáng tạo và gửi gắm trong những câu chuyện cổ. Cái tôi
Lâm Thị Mỹ Dạ, với sự tri ân truyền thống đã tìm về kho tàng chuyện cổ để
cảm nhận không chỉ cái sâu sắc của trí tuệ mà cả cái bao la tình người của
nhân dân :
Tôi yêu chuyện cổ nƣớc tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thƣơng ngƣời rồi mới thƣơng ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Ngƣời ngay thì gặp ngƣời tiên độ trì
(Chuyện cổ nước mình)
Những giá trị tinh thần cao quý mà cái tôi nữ sĩ đã chắt lọc trong kho
tàng dân gian ấy cũng chính là hồn cốt của dân tộc, vẻ đẹp rạng ngời của con

người Việt Nam. Chất trí tuệ, vẻ đẹp nhân văn giúp những thế hệ sau “nhận
mặt cha ông của mình”. Đó là những con người:
Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lƣợng lại đa tình, đa mang.
Nhờ những câu chuyện cổ, khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, cha
ông thuở trước và con cháu bây giờ vốn “Nhƣ con sông với chân trời đã xa”
trở nên gần gũi, gắn bó. Chuyện cổ nước mình chính là sợi dây gắn kết kì
diệu đó. Như vậy, cái tôi trữ tình trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có sự trân trọng
những di sản văn hóa dân tộc, luôn ở trong tâm thế kiếm tìm những giá trị cao
đẹp để tri ân quá khứ, tự hào về cha ông thuở trước.
Không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc, cái tôi giàu ý thức công dân còn thể
hiện tình yêu mến đối với lãnh tụ dân tộc- Bác Hồ. Trước hết là vẻ hiền từ,
giản dị của Bác:

20


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Chòm râu trắng, áo nâu tƣơi
Nụ cƣời nhƣ thể nụ cƣời ông tiên
Dép cao su trải bao miền
Điều đó đã được không chỉ Lâm Thị Mỹ Dạ đề cập đến: “Nhớ ông cụ
mắt sáng ngời/ Áo nâu túi vải đẹp tƣơi lạ thƣờng” (Tố Hữu). Nhưng điều
khiến bạn đọc cảm thấy thú vị ở đây là từ sự giản dị, gần gũi của vị cha già
dân tộc, nữ sĩ đã có sự cảm nhận độc đáo:
Bác gần gũi tựa ca dao
Mẹ ru cháu ngủ trƣa nào xa xôi

Ca dao là tiếng ở đời
Chuyền nhau nhƣ lửa thắp lời yêu thƣơng
Lặn trong mỗi cuộc đời thƣờng
Ca dao thơm thảo nhƣ hƣơng bốn mùa
Giản dị, gắn bó với cuộc đời thường nhưng lại trường tồn và bất diệt, đó là ca
dao. Bác cũng mãi mãi sống trong lòng dân tộc, giữa đất đai, giữa hồn người
như thế:
Bác gần gũi tựa ca dao
Tháng năm sống giữa xôn xao nƣớc đời

1.2. Cái Tôi cá nhân
Khi cả dân tộc oằn mình dưới gánh nhặng của hai cuộc chiến tranh, âm
vang rõ nhất trong trái tim mỗi người con đất Việt là hai tiếng Tổ Quốc, ý
nguyện thẳm sâu và thiêng liêng nhất gói trọn trong một từ thống nhất. Bởi
thế, thật dễ hiểu khi nhìn lại gương mặt tinh thần chung của cả một thời đại,
một thế hệ không gì khác ngoài hào khí quyết chiến quyết thắng. Trong mỗi
cá nhân và toàn xã hội, giá trị của nhân cách con người được xác định qua
tinh thần trách nhiệm trước thời cuộc. Vậy nên, như một lẽ đương nhiên, con

21


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

người công dân được tôn vinh hơn hết thảy, mọi vui buồn riêng tư như phù sa
lắng đọng vào góc khuất của tâm hồn con người. Để khi đất nước im tiếng
súng, từ những cánh đồng bị bỏ quên đó mọc lên bao hoa thơm trái lạ.
Khi nỗi lo về số phận của dân tộc được trút bỏ, con người lại tiếp tục

bước vào trận chiến giữa đời thường với những trăn trở về số phận cá nhân,
với nhân tình thế thái. Cũng như những người thức thời khác, nữ sĩ trăn trở
nhận ra một sự thực: “chiến tranh đi qua từ lâu rồi, nhƣng hiện tại nổ ra bao
cuộc chiến tranh không tiếng súng khác trong lòng ngƣời. Sao thơ ca cứ im
lặng” ()
. Vì vậy, từ dàn đồng ca hùng tráng, thơ ca Việt Nam kết đọng lại trong
những khúc tâm tư riêng về thân phận con người. Trong hướng chung ấy của
thời đại, ta cũng bắt gặp những bước chuyển biến của thơ ca Lâm Thị Mỹ Dạ,
đặc biệt là ở cái tôi trữ tình. Từ sau 1985, cái tôi trữ tình trong thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ có xu hướng nghiêng về phía đời thường, trò truyện với trái tim mình.
Đây là phần sâu và đậm nhất trong cấu trúc của cái tôi trữ tình trong thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ, đồng thời cũng là phần chủ yếu tạo nên nét đặc sắc trong thơ bà...
Hình ảnh trung tâm trong hai tập thơ đầu của thi nhân là cái tôi công dân say
mê hướng về cộng đồng, dân tộc trong tinh thần sôi nổi nhập cuộc, khát khao
dấn thân, cống hiến. Nhưng từ “Hái tuổi em đầy tay” trở về sau, ta lại bắt gặp
một cái tôi trĩu nặng ưu tư, chất chứa tâm sự cá nhân, riêng tư khi đối mặt với
đời thường “niềm vui- mắc cạn- nỗi sầu- biển khơi”:
Nghiêng vai đặt gánh qua cầu
Hạnh phúc thì mỏng khổ đau thì dày
Lệch ngƣời biết gánh sao đây
Đƣờng đi chƣa hết lối kiếp này chƣa qua
(Tự bạch)

22


Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ


Thơ được chắt ra từ những trải nghiệm cuộc đời, đó là tiếng nói dịu dàng
mà day dứt của cái tôi trữ tình trên hành trình tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc.
Thấp thoáng trong những tập thơ gần đây của bà, ta cũng thấy một cái tôi suy
tư về nhân sinh và thế sự. Cuộc đời đa sự, lòng người đa đoan, khó lường. Cái
tôi trữ tình hiện lên trong tư thế chiêm nghiệm, vỡ lẽ. Những lẽ đời được cái
tôi kiểm chứng, có khi trả giá và đúc kết thật sâu sắc: “Đƣờng đời- trăm ngảkhóc cƣời- trăm nơi-niềm vui- mắc cạn- nỗi sầu- biển khơi- thật giả- phơi
phóng- dại khôn- chung đƣờng- ác hiền- lẫn lộn” (Mặt nạ thật). Những điều
tưởng như nghịch lí ấy lại là chân lí của đời thường, nơi mà ta vẫn bị mắc kẹt
như giữa một trận đồ không tìm được lối ra. Giữa cái phức tạp, bộn bề ấy,
cũng có lúc cái tôi không khỏi băn khoăn về sự phân minh của các giá trị:
“làm sao- tỏ tƣờng”. Vẫn biết rằng lòng người nông sâu khó lường, ấy vậy
mà cái tôi không hết ngỡ ngàng thú nhận về sự vỡ lẽ đầy đau đớn:
Bây giờ thì tôi hiểu
Lòng ngƣời hơn Bay on
Bốn mặt còn chƣa đủ
Biến hóa còn nhiều hơn
(Ngước nhìn trời cao)
Nhớ lại thuở nào, Chế Lan Viên từng ví mình với tháp Bay on:
Anh là tháp Bay-on bốn mặt
Giấu đi ba còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cƣời khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình
Phải chăng, cái tôi Lâm Thị Mỹ Dạ ở đây có ý định đối thoại, chia sẻ với tiền
nhân những chiêm nghiệm về thế thái nhân tình. Cái tôi ấy đã từng ngộ nhận:
Nhiều khi quá thơ ngây
Tin cuộc đời tốt đẹp”

23



Nguyễn Thị Thành – Cao học Văn K52

Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Sự vô tư, không toan tính dường như chẳng có chỗ trong cuộc đời:
Nhiều khi không muốn khôn
Không nghi ngờ thủ thế
Nhƣng cuộc đời chẳng dễ
Dành cho tôi dại khờ
Muốn sống với cái bản tính hồn nhiên nhi nhiên của chính mình xem
chừng là ước muốn quá đỗi ngây thơ. Bởi thế cho nên cái tôi ưu tư của nữ sĩ
không khỏi buột ra tiếng thở dài, cái lắc đầu than vãn:
Sống khác mình chẳng dễ
Sống thật mình khó sao
Bỏ ngoài tai mọi phiền nhiễu, trung thực với cái tôi của chính mình, sống
đúng là mình thực khó. Nhưng mặt khác, cũng lại không thể giả dối với chính
mình, không thể uốn cái tôi theo những thói thường phàm tục. Đây là nỗi day
dứt muôn thuở của con người trong cõi nhân gian. Cái tôi trở nên trầm tư triết
lí trong nỗi buồn nhân thế: “Đời mênh mông mà chật/ Buồn ngƣớc nhìn trời
cao”. Từ đó, cái tôi cũng xác định được cách thế sống cho riêng mình. Những
trải nghiệm khiến cái tôi dường như chín chắn hơn, chủ động chấp nhận cuộc
đời với những điều không hẳn như ý muốn: “Tôi đâu còn bé thơ mà vòi vĩnh/
Cuộc đời kia nhƣ đòi mẹ cho quà” (Viết vội trước sông Hàn).
Có khi, từ những sự vật, sự việc bình dị xung quanh cuộc sống, cái tôi
suy tư, liên tưởng đến những triết lí nhân sinh thế sự. Từ chiếc mặt nạ hay hoa
thật và hoa giả, người thơ nghĩ đến sự đảo lộn của những giá trị trong cuộc
sống: “Hoa thật tàn thiên cổ/ Hoa giả vẫn nguyên màu” mà “mắt trần đâu dễ
thấy”. Hiện tượng giả hóa của những giá trị thật như thế khiến cái tôi xa xót.
Có khi, nhân “Qua lầu Bảo Đại”, tác giả suy ngẫm về sự đổi thay của thời
cuộc để nghiệm ra sự bèo bọt của những hư danh về quyền lực:

Làm dân nhƣ biển đầy tràn

24


×