Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV
3.1. Định hướng đối với vấn đề quản lý nợ xấu của SGD
3.1.1. Định hướng phát triển chung
BIDV nói chung và Sở giao dịch nói riêng là sự lựa chọn, tín nhiệm của các tổ chức
kinh tế, các doanh nghiệp hàng đầu của cả nước, cá nhân trong việc tiếp cận các dịch vụ tài
chính ngân hàng. Được cộng đồng trong nước và quốc tế biết đến và ghi nhận như là một
trong những thương hiệu ngân hàng lớn nhất Việt Nam, được chứng nhận bảo hộ thương
hiệu tại Mỹ, nhận giải thưởng Sao vàng Đất Việt cho thương hiệu mạnh… và nhiều giải
thưởng hàng năm của các tổ chức, định chế tài chính trong và ngoài nước. Là niềm tự hào
của các thế hệ cán bộ nhân viên và của ngành tài chính ngân hàng trong 50 năm qua với
nghề nghiệp truyền thống phục vụ đầu tư phát triển đất nước.
Mục tiêu hoạt động của BIDV là trở thành ngân hàng chất lượng – uy tín hàng đầu
Việt Nam. Với phương châm hoạt động là hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu
hoạt động của BIDV
Nhiệm vụ: kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, tín dụng, dịch vụ
ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật, không ngừng nâng cao lợi
nhuận của ngân hàng, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ phát triển
kinh tế đất nước.
Chính sách kinh doanh: chất lượng – tăng trưởng bền vững – hiệu quả an toàn.
Cung cấp đầy đủ, trọn gói các dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại.
Cam kết với khách hàng: cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất
lượng cao, tiện ích nhất; chịu trách nhiệm cuối cùng về sản phẩm dịch vụ đã cung cấp.
Qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, BIDV đã đạt được những thành tựu rất quan
trọng, góp phần đắc lực cùng toàn ngành ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của công
nghệ thông tin và tri thức, với hàng trang truyền thống 50 năm phát triển, BIDV tự tin tới
những mục tiêu và ước vọng to lớn hơn trở thành một tập đoàn tài chính ngân hàng có uy
tín trong nước, trong khu vực và vươn ra thế giới.
3.1.2. Định hướng phát triển với hoạt động quản lý nợ xấu
Tín dụng: Đa dạng hóa các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu
của khách hàng trên cơ sở đảm bảo chất lượng tín dụng, để phục vụ mục tiêu an toàn và
sinh lời của Sở giao dịch. Dư nợ tín dụng (không bao gồm ODA và ĐVTV) là 7,100,000
triệu đồng tính cho cả năm 2009.
Chính sách với các khoản nợ xấu bao gồm quy định mức rủi ro có thể chịu được đối
với từng nhóm khách hàng, từng ngành hoặc từng vùng và chuẩn bị các điều kiện chung
sống cùng rủi ro, các yếu tố cấu thành khoản nợ xấu, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh
lý và khai thác. Tỷ lệ nợ xấu là 3% trong năm 2009.
Trích lập dự phòng rủi ro một cách hợp lý dựa trên cơ sở phân loại nợ và giá trị tài
sản đảm bảo của từng khoản vay. Năm 2009, Sở giao dịch trích dự phòng rủi ro là 60,000
triệu đồng.
Chính sách giải quyết nợ xấu liên quan tới nhiều bên: khách hàng, ngân hàng, tòa
án, chính quyền địa phương… Lập bộ phận chuyên trách giải quyết các khoản nợ xấu.
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu
3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
- Đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trò then chốt trong việc sàng lọc được các
khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp xúc nhiều với khách hàng ở nhiều lĩnh
vực kinh doanh khác nhau, nhiều vùng, nhiều lãnh thổ thậm chí nhiều quốc gia khác nhau.
Để có được sự đánh giá chính xác về khách hàng họ phải thực sự am hiểu khách hàng, lĩnh
vực ngành nghề mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Cán bộ tín
dụng phải có kỹ năng phân tích tổng thể và chi tiết các thông tin về khách hàng cũng như
về dự án đề nghị vay vốn, đồng thời mỗi cán bộ tín dụng cũng cần phải có khả năng dự báo
các vấn đề liên quan đến khách hàng vay vốn. Như vậy, cán bộ tín dụng cần phải được đào
tạo bài bản và tự đào tạo kỹ lưỡng và toàn diện.
Mặt khác, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng rất quan trọng, ảnh hưởng
đến chất lượng các khoản cho vay. Nợ xấu rất dễ phát sinh khi cán bộ tín dụng cố tình làm
sai quy trình tín dụng hay bỏ sót một vài bước trong quy trình để nhằm nhận được những
khoản bồi thường từ khách hàng.
- Thực hiện nghiêm ngặt quy trình quản lý tín dụng
Thực tế cho thấy, hoạt động của ngân hàng dựa trên cở chính sách tín dụng, nhất
quán hợp lý có hiệu quả hơn là dựa vào kinh nghiệm và trao quyền quyết định cho một cá
nhân lãnh đạo. Một chinh sách cho vay không đồng bộ, thiếu tính thống nhất có thể là
nguyên nhân tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi chính sách
mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhưng
không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách
rào kiểm soát, thông tin sai lệch… mà vẫn phải thực hiện đúng quy trình tín dụng để tránh
tổn thất cho ngân hàng.
- Sử dụng hệ thống công cụ phái sinh.
Đây cũng là một giải pháp hữu hiệu để hạn chế nợ xấu phát sinh, giảm chi phí hoạt
đông, tăng thu nhập cho ngân hàng. Công cụ tài chính phái sinh là các hợp đồng tài chính
mà giá trị của nó có mối liên hệ chặt chẽ hoặc được bắt nguồn từ các công cụ tài chính như
cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất hoặc tỷ giá. Chúng được sử dụng để
phòng tránh, phân tán rủi ro, bảo vệ, tạo lợi nhuận, chống biến động giá trị hoặc để đầu cơ
thu lợi nhuận. Thị trường Phái sinh có thể giúp doanh nghiệp cũng như ngân hàng giảm
thiểu rủi ro trong kinh doanh.
Các công cụ trên thị trường tài chính phái sinh rất đa dạng, nhưng nhìn chung có 4
công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn; Hợp đồng tương lai; Hợp đồng quyền chọn và Hợp
đồng hoán đổi.
Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận trong đó người mua và người bán chấp nhận thực
hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, thời điểm xác định trong tương lai
với mức giá ấn định vào hiện tại. Hợp đồng kỳ hạn cho phép các bên mua bán với mức giá
tương lai, không phụ thuộc vào giá thị trường hiện tại. Hợp đồng quyền chọn cho phép
người mua hợp đồng có quyền chọn mua, quyền chọn bán một mặt hàng với mức giá định
sẵn tại ngày đáo hạn hợp đồng. Hợp đồng hoán đổi là thoả thuận về trao đổi lãi suất hoặc
tiền tệ, thông thường là thanh toán tiền lãi. Hai bên sẽ trao đổi lãi của một đồng tiền sang
lãi của tiền khác. Giao dịch hoán đổi lãi suất và hoán đổi tiền tệ là sản phẩm của thị trường
phi tập trung, được kết hợp trực tiếp giữa hai NH, hoặc giữa NH với khách hàng
Các NHTM, việc áp dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế, đặc biệt ở các
NHTMQD, trong khi khối NH này có lợi thế hơn vì quy mô hoạt động và vốn. Hoạt động
phòng ngừa rủi ro thông qua các công cụ phái sinh chỉ có thể được tiến hành một cách sôi
động khi có nhiều chủ thể tham gia trên thị trường với sự đa dạng về nhu cầu. NH đóng vai
trò trung gian dàn xếp để đáp ứng các nhu cầu đa dạng đó theo nguyên tắc thương mại và
thị trường
- Đổi mới công nghệ ngân hàng
Việc đổi mới công nghệ không những đưa ra được những sản phẩm mới, nhiều tiện
ích trên cùng một sản phẩm mà còn tạo điều kiện cho công tác quản lý điều hành theo
phương pháp hiện đại như hoạt động, kinh doanh phân tán nhưng quản trị điều hành tập
trung tại Trụ sở chính, cho phép Trụ sở chính có thể giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy
trình nghiệp vụ tại từng chi nhánh. Tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm
tra kiểm soát, quản trị rủi ro, bảo mật và an ninh dữ liệu. Các nghiệp vụ quản lý rủi ro tín
dụng, quản lý rủi ro tác nghiệp và thị trường tiếp tục được nghiên cứu, tìm kiếm nhằm mua
những chương trình phần mềm hiện đại để theo dõi, kiểm soát rủi ro.
3.2.2. Xử lý nợ xấu đã phát sinh
- Giám sát xử lý nợ xấu một cách có hiệu quả thông qua hoạt động phân tích, phân
loại nợ xấu theo định kỳ
Để việc xử lý nợ xấu được kịp thời, đạt được hiệu quả cao thì khâu cảnh báo, phát
hiện sớm nợ xấu phát sinh là rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến quá trình xử lý nợ xấu
sau này. Việc giám sát nợ xấu cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và có thể được
thực hiện theo các hướng: Giám sát từng khoản vay và giám sát tổng thể danh mục tín
dụng.
Giám sát từng khoản vay một cách thường xuyên nhằm phát hiện những dấu hiệu
cảnh báo sớm để có những biện pháp khắc phục kịp thời, giúp giảm thiểu rủi ro có thể xảy
ra. Thường xuyên thực hiện rà soát và phân tích báo cáo tài chính của khách hàng nhằm
đánh giá được thực trạng tình hình hoạt động của khách hàng vay vốn. Thường xuyên đi
thăm thực tế khách hàng. Để có một bức tranh rõ nét về tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng.
Giám sát tổng thể danh mục tín dụng – phân tích tổng thể danh mục tín dụng nhằm
đánh giá chất lượng của danh mục tín dụng, phân loại danh mục tín dụng theo từng nhóm
với các tiêu chí để có thể đánh giá mức độ rủi ro của từng nhóm cụ thể nhằm xác định các
giải pháp xử lý thích hợp. Do đó, cần phải tiến hành phân tích tổng thể danh mục tín dụng
một cách định kỳ, thường xuyên để có thể phát hiện sớm sự phát sinh của các khoản nợ
xấu, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, tránh cho ngân hàng phải gánh chịu
những biến động bất lợi trong hoạt động tín dụng do nợ xấu phát sinh.
Tình hình thực hiện các quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn, phân loại nợ và trích lập
dự phòng, quản lý rủi ro tại các tổ chức tín dụng (TCTD) ở Việt Nam được xem là còn
nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó, riêng vấn đề phân loại nợ
theo phương pháp định lượng, hay định tính vẫn chưa được triển khai áp dụng thống nhất
cho tất cả các TCTD.
Cần phải có lộ trình để các TCTD triển khai thống nhất cách phân loại nợ theo
phương pháp định tính, thay vì định lượng như hiện nay: Các TCTD chủ yếu phân loại nợ
theo tiêu chí định lượng (theo kỳ hạn trả nợ đã được gia hạn nợ, hoặc cơ cấu lại nợ) khiến
tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh chất lượng tín dụng thực tế. Đây là một trong những nguyên
nhân làm cho các TCTD chưa xác định được chính xác (ở mức độ cho phép) mức độ rủi ro
hiện có và rủi ro tiềm tàng.
Nhiều TCTD chưa xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, yếu tố cốt lõi
của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng để hỗ trợ việc thẩm định, giám sát khách hàng và phân
loại nợ theo thông lệ quốc tế.
Trên thực tế, NHNN đã có quy định nhằm hướng tới việc phân loại nợ, hạn chế rủi
ro tiếp cận chuẩn quốc tế. Theo điều 7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (QĐ 493) về