Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Nghiên cứu từ trái nghĩa trong tiếng Việt: Luận án TS. Ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam: 622201

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 168 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------

PHẠM VĂN LAM

NGHIÊN CỨU TỪ TRÁI NGHĨA
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------

PHẠM VĂN LAM

NGHIÊN CỨU TỪ TRÁI NGHĨA
TRONG TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 62 22 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Quang Thiêm

Hà Nội, 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận án này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án


MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ 4
DANH MỤC CÁC HÌNH ......................................................................................... 5
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 6
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 6
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................... 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 6
3.2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 6
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 7
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 8
4.1. Tư liệu nghiên cứu ........................................................................................ 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 9
5. Đóng góp của luận án ........................................................................................ 10
6. Bố cục của luận án ............................................................................................. 10
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VIỆC
NGHIÊN CỨU TỪ TRÁI NGHĨA TIẾNG VIỆT ............................................... 11
1.1. Đặt vấn đề ....................................................................................................... 11
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu từ trái nghĩa.................................................. 11
1.2.1. Hướng tiếp cận của triết học và lô gích học .............................................. 11

1.2.2. Hướng tiếp cận của tâm lí học .................................................................. 15
1.2.3. Hướng tiếp cận của nhân học .................................................................. 17
1.2.4. Hướng tiếp cận của ngôn ngữ học ........................................................... 20
1.2.4.1. Hướng tiếp cận của ngôn ngữ học lí thuyết ...................................... 20
1.2.4.2. Hướng tiếp cận của ngôn ngữ học tính toán ..................................... 24
1.2.4.3. Hướng tiếp cận của từ điển học thực hành ....................................... 25
1.3. Cơ sở lí thuyết của việc nghiên cứu từ trái nghĩa tiếng Việt .......................... 27
1.3.1. Quan niệm về từ ....................................................................................... 27
1.3.2. Quan niệm về nghĩa ................................................................................. 28
1.3.3. Nghĩa từ, cấu trúc nghĩa từ, nghĩa vị và nét nghĩa ................................... 31
1.3.4. Hiện tượng trái nghĩa, quan hệ trái nghĩa và từ trái nghĩa ....................... 32
1.3.5. Phân tích nghĩa từ (trái nghĩa) ................................................................. 33
1.4. Tiểu kết ........................................................................................................... 38
Chƣơng 2. NHẬN DIỆN VÀ PHÂN LOẠI TỪ TRÁI NGHĨA TIẾNG VIỆT . 40
2.1. Đặt vấn đề ....................................................................................................... 40
2.2. Quan niệm về từ trái nghĩa tiếng Việt ............................................................ 40
2.2.1. Quan niệm về từ trái nghĩa tiếng Việt ..................................................... 40
2.2.2. Định vị quan hệ trái nghĩa trong hệ hình các quan hệ ngữ nghĩa ở bậc từ46
2.3. Nhận diện từ trái nghĩa tiếng Việt .................................................................. 52
2.3.1. Nhóm tiêu chí lô gích .............................................................................. 53
2.3.2. Nhóm tiêu chí ngữ âm ............................................................................. 54
2.3.3. Nhóm tiêu chí ngữ nghĩa ......................................................................... 55

1


2.3.4. Nhóm tiêu chí sử dụng ............................................................................. 55
2.3.5. Nhóm tiêu chí ngữ pháp .......................................................................... 56
2.3.6. Nhận xét về các nhóm tiêu chí nhận diện ................................................ 57
2.4. Phân loại từ trái nghĩa tiếng Việt.................................................................... 58

2.4.1. Những cách phân loại đã có đáng chú ý trong Việt ngữ học ................... 58
2.4.2. Những cách phân loại có thể có đối với từ trái nghĩa tiếng Việt ............. 59
2.4.3. Đề xuất thêm cách phân loại dựa vào khả năng đồng hiện ..................... 65
2.5. Tiểu kết ........................................................................................................... 67
Chƣơng 3. CẤU TẠO TỪ TRÁI NGHĨA TIẾNG VIỆT .................................... 69
3.1. Đặt vấn đề ....................................................................................................... 69
3.2. Từ trái nghĩa đơn ............................................................................................ 69
3.3. Từ trái nghĩa phức ......................................................................................... 70
3.3.1. Từ trái nghĩa đẳng lập .............................................................................. 71
3.3.2. Từ trái nghĩa chính phụ ............................................................................ 73
3.3.3. Từ trái nghĩa láy ....................................................................................... 79
3.4. Tính tương quan trong cấu tạo từ trái nghĩa ................................................... 80
3.4.1. Tương quan về phạm trù từ loại .............................................................. 80
3.4.2. Tương quan về kích thước vật chất ......................................................... 81
3.4.3. Tương quan về tính chất quan hệ từ pháp ............................................... 82
3.4.4. Tương quan về trật tự từ pháp ................................................................. 84
3.4.5. Tương quan về nguồn gốc ....................................................................... 85
3.4.6. Nhận xét thêm về tính tương quan trong cấu tạo từ trái nghĩa ................ 85
3.5. Tiểu kết ........................................................................................................... 86
Chƣơng 4. CƠ CẤU NGỮ NGHĨA CỦA TỪ TRÁI NGHĨA TIẾNG VIỆT .... 88
4.1. Đặt vấn đề ....................................................................................................... 88
4.2. Nhận định cơ sở .............................................................................................. 88
4.3. Cặp từ trái nghĩa và cặp trái nghĩa ................................................................. 90
4.4. Chùm trái nghĩa ............................................................................................ 102
4.5. Chuỗi trái nghĩa ............................................................................................ 107
4.6. Biến đổi nghĩa của từ trái nghĩa ................................................................... 116
4.7. Tiểu kết ......................................................................................................... 118
Chƣơng 5. KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG CỦA TỪ TRÁI NGHĨA TIẾNG VIỆT
.................................................................................................................................120
5.1. Đặt vấn đề ..................................................................................................... 120

5.2. Những kiến giải đã có................................................................................... 120
5.3. Khả năng đồng hiện của từ trái nghĩa tiếng Việt .......................................... 122
5.3.1. Quan niệm về khả năng đồng hiện của từ trái nghĩa tiếng Việt ............ 122
5.3.2. Khả năng đồng hiện của từ trái nghĩa để tạo thành tổ hợp song tiết ..... 124
5.3.2.1. Miêu tả khái quát............................................................................. 124
5.3.2.2. Khảo chứng ..................................................................................... 133
5.3.3. Khả năng đồng hiện của từ trái nghĩa trong các kết cấu ngữ pháp........ 140
5.3.3.1. Miêu tả khái quát............................................................................. 140
5.3.3.2. Khảo chứng ..................................................................................... 145

2


5.4. Tiểu kết ......................................................................................................... 148
KẾT LUẬN ............................................................................................................149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ...............................................................................................................154
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................155
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Một phần danh sách từ trái nghĩa tiếng Việt
Phụ lục 2. Ngữ cảnh đồng hiện của từ trái nghĩa tiếng Việt trong Truyện Kiều
Phụ lục 3. Một số ngữ cảnh đồng hiện của từ trái nghĩa tiếng Việt trong thành ngữ,
tục ngữ, ca dao
Phụ lục 4. Một số ngữ cảnh đồng hiện của từ trái nghĩa trong tác phẩm văn học, báo chí

3


DANH MỤC CÁC BẢNG


Bảng 1.1. Ví dụ về một số quan hệ ngữ nghĩa của Casagrande và Hale (1967)…...19
Bảng 2.1. Quan hệ trái nghĩa trong hệ hình các quan hệ ngữ nghĩa ở bậc từ (1) …. 50
Bảng 2.2. Quan hệ trái nghĩa trong hệ hình các quan hệ ngữ nghĩa ở bậc từ (2) …..51
Bảng 5.1. 60 cặp từ trái nghĩa có khả năng đồng hiện lớn trong thành ngữ, tục ngữ (1)..132
Bảng 5.2. 60 cặp từ trái nghĩa có khả năng đồng hiện lớn trong thành ngữ, tục ngữ (2) ..134
Bảng 5.3. 38 cặp từ trái nghĩa có tần số sử dụng lớn hơn một trong Truyện Kiều..........135
Bảng 5.4. Khả năng hợp cặp của một số yếu tố trái nghĩa trong Truyện Kiều………...136

4


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1. Cặp trái nghĩa tâm sống-chết ……………………………. ...................... 95
Hình 4.2. Cặp từ trái nghĩa và cặp trái nghĩa ............................................................ 96
Hình 4.3. Chùm trái nghĩa.. .................................................................................... 106
Hình 4.4. Chuỗi trái nghĩa. ...................................................................................... 109
Hình 4.5. Cặp cụm trái nghĩa.. ................................................................................ 114

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện tượng trái nghĩa nói chung và từ trái nghĩa nói riêng là một hiện tượng có
giá trị phổ niệm, có trong tổ chức từ vựng của mọi ngôn ngữ, và đã được quan sát,
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau từ rất sớm. Hiện tượng từ trái nghĩa tiếng
Việt cũng vậy, được gọi tên, nghiên cứu một cách chính thức từ những năm 1960, và
cũng đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận, với những công trình của Đỗ Hữu
Châu [4, 5, 6, 10], Nguyễn Văn Tu [63], Nguyễn Đức Dương [21], Nguyễn Thiện

Giáp [27, 29], Nguyễn Đức Dân [14, 15, 17, 18], Đinh Xuân Hiền [33], Dương Kỳ
Đức [24, 25], Chu Bích Thu [56, 57, 58], Vũ Đức Nghiệu [13], Nguyễn Đức Tồn [60,
62],... Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ được xem xét như một nội dung
nằm trong một công trình nghiên cứu rộng hơn về từ vựng tiếng Việt nói chung hoặc
mới chỉ dừng lại ở việc đề cập một cách riêng biệt ở khía cạnh này hay kia của hiện
tượng từ trái nghĩa tiếng Việt, và do đó, cho đến nay, Việt ngữ học vẫn chưa có một
công trình nghiên cứu có tính chất toàn diện và chuyên sâu nào về từ trái nghĩa.
Chính vì thế, luận án này đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về hiện
tượng từ trái nghĩa tiếng Việt dưới tiêu đề Nghiên cứu từ trái nghĩa trong tiếng Việt.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu từ trái nghĩa trong tiếng Việt nhằm làm rõ bản chất và đặc
điểm của hệ thống từ trái nghĩa tiếng Việt với tư cách là một tiểu hệ thống từ vựng
trong đó các đơn vị từ được xem như là những phần tử hệ thống còn các liên hệ ngữ
nghĩa trái ngược nhau được xem như là những quan hệ hệ thống trong tổng thể hệ
thống từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt nói chung dưới các khía cạnh ngữ pháp, ngữ
nghĩa và sử dụng.
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là hệ thống từ trái nghĩa tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Truyền thống ngôn ngữ học dựa vào tính ổn định, thường xuyên, liên tục
trong liên hệ trái nghĩa, dựa vào sự đối lập giữa ngôn ngữ và lời nói, chia từ trái

6


nghĩa thành hai loại là từ trái nghĩa từ vựng và từ trái nghĩa ngữ cảnh. Luận án tập
trung nghiên cứu loại từ trái nghĩa từ vựng. Tuy vậy, từ trái nghĩa từ vựng cũng có
thể được nghiên cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Vì thế, do khuôn khổ
của mình, luận án tập trung nghiên cứu hệ thống trái nghĩa từ vựng tiếng Việt ở ba

phạm vi truyền thống của ngôn ngữ học là ngữ pháp, ngữ nghĩa và sử dụng, cụ thể:
về ngữ pháp, làm rõ khía cạnh cấu tạo hay cấu trúc của các cặp từ trái nghĩa tiếng
Việt; về ngữ nghĩa, làm rõ cơ cấu hay tổ chức ngữ nghĩa của hệ thống từ trái nghĩa
tiếng Việt; về sử dụng, nghiên cứu khả năng hoạt động của các cặp từ trái nghĩa
tiếng Việt trong ngữ cảnh đồng hiện.
Như thế, mặc dù là một chủ đề nghiên cứu truyền thống, nhưng do tính chất cơ
bản, đa diện, đa dạng, phức tạp (và không kém phần thời sự) cả về mặt lí luận lẫn
thực tiễn, người ta có thể khảo cứu từ trái nghĩa từ nhiều bình diện và góc độ khác
nhau với những điểm xuất phát, phương pháp và kết quả nghiên cứu khác nhau. Vì
vậy, với giới hạn nghiên cứu như trên, nhiều vấn đề có thể nói là khá quan trọng, có
tính liên ngành và hiện đang được chú ý từ những góc độ và phạm vi khác như việc
thụ đắc từ trái nghĩa của trẻ, thuộc tính đánh dấu của từ trái nghĩa từ góc độ tâm lí học,
tính dân tộc trong từ trái nghĩa từ góc độ nhân học, thuộc tính phủ định trong hệ
thống từ trái nghĩa từ góc độ lô gích học, tính tổ chức đối lập trong từ vựng hay tính
tương tự về nghĩa của từ trái nghĩa từ góc độ ngôn ngữ học tính toán, thậm chí ngay
cả giá trị liên kết văn bản hay giá trị tu từ của từ trái nghĩa từ góc độ ngôn ngữ học,…
sẽ không được đề cập nghiên cứu trong luận án này, dẫu rằng đôi lúc chúng có thể
được luận án nhắc tới ở những chỗ hữu quan.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu như vậy, luận án đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu chính sau:
- Tổng quan về lịch sử nghiên cứu từ trái nghĩa nói chung và từ trái nghĩa tiếng
Việt nói riêng; xác lập cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu từ trái nghĩa tiếng Việt.
- Xác định bộ tiêu chí nhận diện từ trái nghĩa tiếng Việt; phân loại từ trái
nghĩa tiếng Việt dưới các góc nhìn khác nhau.
- Thu thập danh sách từ trái nghĩa tiếng Việt; thu thập, tuyển chọn và phân
tích ngữ cảnh đồng hiện của các cặp từ trái nghĩa tiếng Việt.

7



- Nhận diện, miêu tả các đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa và khả năng hoạt động
của các cặp từ trái nghĩa tiếng Việt thông qua ngữ cảnh đồng hiện.
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Tƣ liệu nghiên cứu
Tư liệu nghiên cứu của luận án được lấy từ các nguồn chủ yếu sau:
- Các từ điển ngữ văn, ví dụ như: Từ điển tiếng Việt, (Hoàng Phê, cb., 1988,
2009), Từ điển tiếng Việt dùng trong nhà trường (Chu Bích Thu, cb., 2004), Từ điển
trái nghĩa tiếng Việt (Dương Kỳ Đức, cb., 1988).
- Các tác phẩm văn học thành văn (Truyện Kiều, Nhật kí trong tù, Chí Phèo,
Từ ấy,…) và các báo điện tử (vietnamnet.vn, giaoduc.net.vn, vnexpress.net,
baodatviet.com.vn,…). Riêng ngữ liệu được lấy từ các báo điện tử được chúng tôi
thu thập từ năm 2004 trở lại đây.
- Đặc biệt, luận án còn chú ý khai thác tư liệu trong các tác phẩm văn học
dân gian nổi tiếng như Tục ngữ phong dao (Nguyễn Văn Ngọc, 1957), Tục ngữ Việt
Nam (Chu Xuân Diên,…, 1975), Kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam (Nguyễn Xuân
Kính, cb., 1995), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan, 2007),...
Tư liệu nghiên cứu của luận án được quy về hai nhóm chính: nhóm danh
sách từ trái nghĩa và nhóm ngữ cảnh đồng hiện của từ trái nghĩa. Từ điển ngữ văn là
nguồn tư liệu chủ yếu dùng để lập danh sách từ trái nghĩa; tác phẩm văn học, báo
chí là nguồn tư liệu chủ yếu để cung cấp ngữ cảnh minh họa từ trái nghĩa, để phân
tích ngữ nghĩa và khả năng đồng hiện của từ trái nghĩa.
Danh sách từ trái nghĩa được xác lập bằng hai cách: thu thập dựa trên nguồn
tư liệu sẵn có và tự thu thập. Với cách thứ nhất, luận án trích rút các đơn vị từ vựng
vốn được chú giải hay được xử lí là những cặp từ trái nghĩa từ các từ điển ngữ văn.
Với cách làm này, danh sách cặp từ trái nghĩa mà luận án có được để tiến hành
nghiên cứu là những cặp từ trái nghĩa thường thấy trong các từ điển ngữ văn. Với
cách thứ hai, luận án dựa vào danh sách mục từ trong các từ điển ngữ văn rồi dùng
phương pháp liên tưởng truyền thống để xác lập các cặp từ trái nghĩa. Với cách làm
này, luận án có được một danh sách gồm nhiều cặp từ trái nghĩa không trùng với

danh sách thường thấy trong các từ điển ngữ văn. Như thế, trong cả hai cách thu

8


thập tư liệu này, những từ trái nghĩa được luận án thu thập chính là những từ từ điển
học mà cụ thể là từ của từ điển học ngữ văn tiếng Việt.
Hai nguồn tư liệu này có vị trí, vai trò khác nhau trong luận án. Nguồn tư
liệu thứ nhất do chỗ đã được từ điển học thực hành xử lí, do đó, được xem là điểm
xuất phát (được xem là những từ mớm hay từ hạt giống) đầu tiên, quan trọng hơn so
với nguồn tư liệu thứ hai trong việc tiến hành xác lập ngữ cảnh đồng hiện. Ngữ
cảnh đồng hiện của từ trái nghĩa được thu thập trực tiếp từ các sản phẩm sử dụng
ngôn ngữ thực tế. Ngữ cảnh đồng hiện được quan niệm là một khúc đoạn ngôn ngữ
có kích thước được giới hạn từ một tổ hợp song tiết tự do hay cố định đến (thường
là) một câu nói (một thành ngữ, một câu tục ngữ, một câu văn xuôi, một cặp lục bát)
hoặc trong một số trường hợp có thể là hai câu nói liền kề nhau (hai câu văn xuôi
hay hai cặp lục bát liền kề nhau). Ngữ cảnh đồng hiện là cơ sở để chúng tôi trừu
xuất các kết cấu ngữ pháp trong đó có từ trái nghĩa xuất hiện.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu chủ yếu sau: phương
pháp phân tích ngữ cảnh, phương pháp phân tích thành tố nghĩa, phương pháp phân
tích hệ thống - cấu trúc; thủ pháp phân tích quy chiếu, thủ pháp phân tích điển mẫu,
thủ pháp phân tích ngữ trị; thủ pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp phân tích ngữ cảnh, phân tích thành tố nghĩa, phân tích hệ
thống - cấu trúc là những phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận án. Phương
pháp phân tích ngữ cảnh (hay phân tích chức năng) được sử dụng để nhận diện
những nghĩa cụ thể của từ trong từng ngữ cảnh quan yếu. Phương pháp phân tích
thành tố nghĩa được sử dụng để chỉ ra cấu trúc ngữ nghĩa của từ nhằm kiểm tra xem
những từ đã được phân tích có thực sự là những từ trái nghĩa hay không, và nếu là
những từ trái nghĩa thì chúng trái nghĩa với nhau như thế nào. Phương pháp phân

tích hệ thống - cấu trúc dùng để xác lập hệ thống từ trái nghĩa tiếng Việt với tư cách
là một hệ thống từ vựng con, trong đó các từ được xem là phần tử và sự liên hệ trái
ngược nhau về nghĩa giữa các từ được xem là quan hệ, trong hệ thống từ vựng tiếng
Việt nói chung. Các thủ pháp phân tích quy chiếu, phân tích điển mẫu, phân tích
ngữ trị, thống kê và phân loại được sử dụng bổ sung ở những chỗ thích hợp, giúp
cho việc nhận diện và việc mô tả các cặp từ trái nghĩa dễ dàng và rõ ràng hơn.

9


5. Đóng góp của luận án
Việc nghiên cứu từ trái nghĩa tiếng Việt mang lại nhiều lợi ích thiết thực cả
về mặt lí luận lẫn thực tiễn.
- Những kết quả của việc nghiên cứu này góp phần: làm rõ các đặc điểm ngữ
pháp, ngữ nghĩa và sử dụng của hệ thống từ trái nghĩa tiếng Việt; thúc đẩy việc
nghiên cứu ngữ nghĩa học tiếng Việt nói chung, ngữ nghĩa học từ vựng quan hệ
tiếng Việt nói riêng - một công việc mà xưa nay chưa thu hút được sự quan tâm
đúng tầm; thúc đẩy việc ứng dụng những kết quả nghiên cứu này vào các công việc
thực tiễn có liên quan.
- Từ các kết quả nghiên cứu của luận án, trước mắt, có thể tiến hành biên
soạn được một cuốn từ điển ngữ văn trái nghĩa tiếng Việt một cách nhanh chóng và
hiệu quả; góp phần nâng cao chất lượng của các cuốn từ điển ngữ văn tiếng Việt đã
có bằng cách tu chỉnh lại những cách chú giải từ trái nghĩa, đồng nghĩa.
- Những kết quả thu được của luận án còn góp thêm một tiếng nói từ góc độ
ngôn ngữ học cho các công việc của những bộ phận nghiên cứu ngôn ngữ có tính
liên ngành và ứng dụng hiện đại, ví dụ như việc xây dựng và phát triển các nguồn
ngữ liệu từ vựng vốn được chú giải hay tổ chức theo quan hệ ngữ nghĩa (Mạng từ
tiếng Việt, kho ngữ liệu,…), phát hiện và tìm kiếm từ tự động, tính toán độ tương tự
ngữ nghĩa của từ, dịch tự động, xác lập bộ từ vựng tinh thần tiếng Việt, v.v.
- Ngoài ra, việc nghiên cứu này cũng đem lại những kết quả thiết thực, hữu

ích đối với công việc giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường, phát triển ngôn ngữ - tư
duy cho trẻ, đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, v.v.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án có bố cục như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình và cơ sở lí thuyết thuyết của việc nghiên cứu
từ trái nghĩa tiếng Việt
Chương 2. Nhận diện và phân loại từ trái nghĩa tiếng Việt
Chương 3. Cấu tạo từ trái nghĩa tiếng Việt
Chương 4. Cơ cấu ngữ nghĩa của từ trái nghĩa tiếng Việt
Chương 5. Khả năng hoạt động của từ trái nghĩa tiếng Việt

10


Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VIỆC
NGHIÊN CỨU TỪ TRÁI NGHĨA TIẾNG VIỆT

1.1. Đặt vấn đề
Chương này có nhiệm vụ tổng quan tình hình nghiên cứu từ trái nghĩa nói
chung và từ trái nghĩa tiếng Việt nói riêng, xác lập cơ sở lí thuyết của việc nghiên cứu
từ trái nghĩa tiếng Việt. Với nhiệm vụ thứ nhất, để dễ hình dung và tránh lặp lại
những điểm không cần thiết về bức tranh lịch sử nghiên cứu từ trái nghĩa, luận án
chọn cách tổng quan theo hướng tiếp cận. Với nhiệm vụ thứ hai, luận án chú trọng
làm rõ một số vấn đề, khái niệm quan trọng để làm cơ sở cho việc nghiên cứu từ trái
nghĩa tiếng Việt.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu từ trái nghĩa
Hiện tượng từ trái nghĩa là một hiện tượng có tính phổ quát, được xác lập trên
cơ sở của sự liên hệ đối lập hay trái ngược nhau về nghĩa. Nó vừa là biện pháp tổ
chức của từ vựng, vừa là biện pháp tổ chức của tư duy. Vì thế, nó đã được quan tâm
nghiên cứu từ rất sớm dưới góc độ khác nhau, từ ngôn ngữ học cho đến triết học.

Trong phần này, luận án tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu từ trái nghĩa theo
hướng tiếp cận của những bộ môn khoa học có nghiên cứu nhiều về từ trái nghĩa: triết
học và lô gích học, tâm lí học, nhân học, ngôn ngữ học. Ở mỗi hướng tiếp cận, luận
án đều tiến hành tổng quan tình hình nghiên cứu trên thế giới trước, sau đó tiến hành
tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam. Nói đến hiện tượng từ trái nghĩa, trước
hết người ta nghĩ nó là loại đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, mà cụ thể và trực
tiếp nhất là của ngữ nghĩa học từ vựng, vì thế, sau khi điểm qua các cách tiếp cận
ngoài ngôn ngữ học, luận án ưu tiên, tập trung làm rõ cách tiếp cận của ngôn ngữ học
đối với hiện tượng từ trái nghĩa.
1.2.1. Hƣớng tiếp cận của triết học và lô gích học
Triết học và lô gích học có lịch sử tiếp cận lâu đời nhất đến từ trái nghĩa so với
các hướng tiếp cận khác. Ngược dòng thời gian, có thể coi Aristotle là người đầu tiên
đề cập đến từ trái nghĩa qua các phạm trù đối lập giữa mệnh đề khẳng định và mệnh
đề phủ định (chẳng hạn, Mọi A là P; Không S là P) [66]. Những đề xuất này của

11


Aristotle về sau tiếp tục được đề cập, phát triển trong triết học và ngôn ngữ học hiện
đại trong đó có cấu trúc luận và tạo sinh luận [113]. Tuy nhiên, vấn đề từ trái nghĩa
xét trong mối liên hê ̣ v ới vấ n đề nghiã từ vựng không ph ải là ưu tiên hàng đầu của
các nhà triết học và lô gích học; truyền thống triết học và lô gić h h ọc tiền hiện đại
quan tâm nhiều đến các vấ n đề như tên riêng , quy chiếu, chỉ vật, nội hàm, ngoại
diên,...; cái gọi là nghiã thường chỉ đươ ̣c đề cập tới trong sự phân biê ̣t hay đ ập nhập
với cái gọi là ngoại diên hoă ̣c sự quy chiếu hay chỉ vật mà thôi. Vì thế mà ở thời hiện
đại vẫn có người phải thốt lên rằ ng “không thấy có nhiều quan tâm đến vấ n đề nghiã
từ vựng trong truyền thống ngữ nghiã h ọc triết học” [133, tr.1]. Dầu vậy, đến thế kỉ
XX, trong tinh thần của triết học toàn thể luận (holism), triết học phân tích mà cụ thể
là chủ nghĩa lô gích thực chứng, lô gích biểu hiệu,…, từ trái nghĩa đã được chú ý
nghiên cứu nhiều hơn do chỗ chúng được xem như là một loại thực thể có trong các

phép toán lô gích dùng để giúp con người hiểu được tính đúng sai/ chân trị của mệnh
đề, và do đó, hiểu được rõ ngôn ngữ tự nhiên và có thể xây dựng được một thứ ngôn
ngữ hình thức (siêu ngôn ngữ) để biểu đạt chân lí tốt hơn.
Cái được gọi là từ trái nghĩa ở trong triết học và lô gích học thường được xem
là những đối lập lưỡng phân loại trừ nhau, và do đó, tương ứng với lớp từ trái nghĩa
bổ sung của ngôn ngữ học. Do là sản phẩm của quá trình phân lập dựa trên sự liên hê ̣
về nghĩa nên từ trái nghĩa thường được xem xét liên quan đến tính chân trị của mệnh
đề, liên quan đến các định đề ngữ nghĩa, các tác tử và lượng từ lô gić h,...[81, 134]. Ví
dụ, trong một mệnh đề phân tích bằng Anh ngữ có xuất hiện cặp từ trái nghĩa
married-unmarried như No unmarried man is married, tính chân trị của mệnh đề này
hoàn toàn được xác định là nhờ vào các yếu tố nội ngôn, tức nhờ vào bản thân mệnh
đề, không cần viện đến các yếu tố ngoại ngôn. Hoặc như, đối với một mệnh đề phân
tích có chứa cặp từ trái nghĩa to-nhỏ: To và nhỏ là những từ trái nghĩa với nhau, ta
hoàn toàn có thể cải biến mệnh đề này thành một phép toán lô gích hình thức, tức một
định đề ngữ nghĩa như: - x [to (x)  ¬ nhỏ (x)]. Phép toán này có thể được đọc là:
mọi vật nếu chứa trong mình thuộc tính to, thì suy ra/ kéo theo (đương nhiên), không
nhỏ. Cách tiế p câ ̣n dùng các định đề ngữ nghiã như vậy để xác định quan hệ lô gích ngữ nghiã nói chung và quan hê ̣ trái nghiã nói riêng luôn sử du ̣ng đến mô ̣t quan hê ̣ lô
gích đặc biệt là quan hệ suy ra . Quan hê ̣ suy ra giữa những từ trái nghĩa như vậy là
quan hê ̣ suy ra đ ối xứng, hai chiều. Do các thực thể ngôn ngữ trong phép suy ra này

12


có tính chất phủ định lẫn nhau, cho nên, ta có thể g ọi phép suy ra đối xứng này là
phép suy ra đối xứng phủ định. Cách tiếp cận này cho phép ta nhận diện được những
đơn vị ngôn ngữ, những khái niệm hoàn toàn đối lập nhau theo kiểu: khẳng định tính
chân trị của khái niệm này có nghĩa là phủ định tính chân trị của khái niệm kia, và
ngược lại. Cách tiếp cận này đã được áp dụng cho việc xử lí một bộ phận hữu hạn các
đơn vị từ vựng trái nghĩa có tính chân trị lưỡng phân, phủ định nhau một cách tuyệt
đối. Tuy nhiên, lối tiếp cận đơn trị này đã thoát li khỏi hẳn đời sống ngôn ngữ, do đó,

không có sức lí giải hiện tượng trái nghĩa thực. Trong thực tiễn hành ngôn, ngay cả
những đơn vị từ vựng mà ta tưởng rằng chúng có tính đơn trị tuyệt đối về mặt lô gích
cũng không hề đơn trị. Xin dẫn vài ví dụ. Nói rằng Hôm nay không nắng, một mệnh
đề phủ định, thì không có nghĩa là Hôm nay mưa, một mệnh đề khẳng định. Nói rằng
A không khôn không có nghĩa là A dốt. Nói rằng A ngồi bàn trên/ trước thì, trong
nhiều trường hợp cũng có nghĩa là A ngồi bàn dưới/ sau. A cao hơn B, hoàn toàn
tương đẳng với cách nói B thấp hơn A. A ghét B đẳng trị cùng B ghét A, và cả hai
cách nói này đẳng trị cùng cách nói thứ ba A và B ghét nhau. V.v.
Ở Việt ngữ học, cách tiếp cận từ góc độ triết học, lô gích học đến từ trái nghĩa
mới chỉ được vận dụng lẻ tẻ ở một số tác giả. Hoàng Phê [43], Nguyễn Đức Dân [14,
16, 17], Nguyễn Hữu Chương [12] là những tác giả đã bước đầu vận dụng cách tiếp
cận sử dụng phép toán phủ định ở bậc vị từ vào trong các công trình nghiên cứu của
mình. Tuy nhiên, trong những công trình này, việc nhận diện từ trái nghĩa dưới góc
nhìn của lô gích học không phải là mục đích cuối cùng, lô gích học chỉ là một trong
những cách tiếp cận có hiệu lực và có giá trị ứng dụng trong phân tích ngữ nghĩa của
ngôn ngữ và ngữ nghĩa của lời nói, trong phân tić h câu đ ồng nghiã , mệnh đề đồng
nghĩa. Vì thế, xét ở một khía cạnh nào đó, các nghiên cứu này cũng chỉ có thể được
áp dụng cho việc xử lí một bộ phận hữu hạn các đơn vị từ vựng trái nghĩa có tính
chân trị lưỡng phân, phủ định nhau tuyệt đối như đã nói, chứ không thể được dùng để
nhận diện và mô tả toàn bộ các đơn vị từ vựng trái nghĩa thực trong tiếng Việt. Chẳng
hạn, trong Lô gích của ngôn ngữ tự nhiên, Hoàng Phê cho rằng: Kém và bằng có
cùng một cấu trúc ngữ nghĩa và đây là một hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa khá lí thú.
Kém đẳng cấu ngữ nghĩa với bằng cho nên không kém cũng có loại hàm ý giống như
không bằng: kém = không bằng, không kém = bằng. Bằng và kém làm thành một cặp
trái nghĩa (từ “đảo nghĩa”) khá đặc biệt: trái nghĩa trên cơ sở có cùng một tiền giả

13


định, và tiền giả định này, nói theo lô gích, là một tuyển: hoặc dưới mức, hoặc ngang

mức. Nếu dưới mức thì gọi là kém, còn nếu ngang mức thì gọi là bằng. Trên cơ sở
tiền giả định chung đó, bằng trái nghĩa với kém và đồng nghĩa với không kém. Nhưng
nói bằng là nói trực tiếp bằng hiển ngôn, còn nói không kém là nói gián tiếp bằng
hàm ngôn, cho nên, cũng có một sự khác nhau tế nhị về sắc thái nghĩa. Không nói
bằng mà nói không kém, thì thường là có hàm cái ý muốn nói “không phải là dưới
mức”, “không phải là không bằng được”, như người ta có thể nghĩ [43].
Trên thực tế, bên cạnh việc sử dụng tiêu chí phủ định khi tiếp cận từ trái nghĩa,
triết học và lô gích học còn sử dụng tới một phép toán đặc biệt khác là phép toán suy
ra, mà cụ thể là suy ra đối xứng. Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra ta còn thấy những từ trái
nghĩa còn có mô ̣t khả năng suy ra khác mà chúng tôi đ ề xuất gọi là suy ra phi đối
xứng hay suy ra mô ̣t chi ều. Phép toán suy ra mô ̣t chi ều đươ ̣c áp du ̣ng đ ể nhận diện
một cặp từ trái nghĩa xét trong mối quan hê ̣ v ới mô ̣t từ thứ ba. Có hai khu vực quan
hê ̣ ngữ nghĩa quan trọng liên quan đến từ trái nghĩa thường có thể áp du ̣ng tiêu chí
suy ra phi đối xứng là quan hê ̣ thu ộc nghiã (hyponymy) và quan hê ̣ thu ộc tính
(attribute).
Ta nói đến quan hê ̣ thuộc nghiã trước. Nếu mô ̣t cặp từ trái nghĩa nào đó được
xem như là những t ừ cùng thuộc (cohyponyms) của một t ừ bao (hypernyms) trong
quan hê ̣ thuộc nghiã , ta có thể áp du ̣ng phép toán suy ra phi đ ối xứng để nhận diện
chúng. Ví dụ, trong cặp quan hê ̣ thuộc nghiã thầy/ cô - giáo viên, thì thầy và cô chính là
những từ cùng thuộc của mô ̣t từ bao giáo viên, ta có thể áp du ̣ng phép suy ra phi đ ối
xứng theo chiều từ từ cùng thuộc lên từ bao: thầy -> giáo viên, & cô -> giáo viên. Phép
suy ra ngược lại từ từ bao đến từ cùng thuộc không thể thực hiện đươ ̣c: *giáo viên ->
thầy, & *giáo viên -> cô. Ở đây, lưu ý là suy ra đối xứng đươ ̣c áp du ̣ng cho chính
những yế u tố cùng cấp lô gić h, suy ra phi đối xứng chỉ áp dụng cho những yếu tố khác
cấp lô gić h. Như vâ ̣y, ví dụ đang nói có thể được biểu diễn là: thầy -> ¬ cô & cô ->
¬thầy; & thầy -> giáo viên & cô -> giáo viên; & *giáo viên -> thầy & giáo viên -> cô.
Trong quan hê ̣ thu ộc tính, cụ thể là quan hê ̣ thu ộc tính lưỡng trị (bivalence
attribute), ta cũng có thể áp du ̣ng phép suy ra phi đối xứng. Dài/ ngắn - > kích thước,
tròn/ méo -> hình dáng, trắng/ đen -> màu sắc, vui/ buồn -> trạng thái,... là những ví
dụ về quan hê ̣ thuộc tính vốn có thể đáp ứng đươ ̣c phép suy ra phi đối xứng, bên cạnh

phép suy ra đối xứng. Kết hợp cả phép suy đối xứng lẫn suy ra phi đối xứng, ví dụ về

14


dài/ ngắn -> kích thước trên có thể đươ ̣c biểu diễn thành: dài -> ¬ ngắn & ngắn -> ¬
dài; & dài -> kích thước & ngắn -> kích thước; & *kích thước -> dài & kích thước ->
ngắn. Như thế, rõ ràng là phép toán suy ra đang đề cập này của lô gích có thể được
xem là một tiêu chí quan trọng góp phần nhận diện từ trái nghĩa tiếng Việt.
Như vậy, đến đây có thể nói rằng: a. việc tiếp cận từ trái nghĩa từ hướng triết
học và lô gích học thường gắn liền với các phép toán phủ định mệnh đề, phép toán
suy ra; b. quan hệ trái nghĩa là một quan hệ có sự gắn bó mật thiết với quan hệ thuộc
nghĩa và quan hệ thuộc tính; c. chúng ta hoàn toàn có toàn có thể vận dụng các phép
toán này, đặc biệt là phép toán suy ra, vào việc nhận diện từ trái nghĩa tiếng Việt.
1.2.2. Hƣớng tiếp cận của tâm lí học
Hướng tiếp cận tâm lí học đến hiện tượng từ trái nghĩa chịu ảnh hưởng sâu sắc
của chủ nghĩa cấu trúc trong ngôn ngữ ho ̣c. Đối với tâm lí học, những quan hê ̣ ngôn
ngữ ở bậc đại cương mà F. de Saussure đã đưa ra đều là những quan hê ̣ có đươ ̣c do sự
liên tưởng. Chính vì thế mà người ta thường gọi những nghiên cứu tâm lí học ngôn ngữ
theo chủ nghĩa cấ u trúc là “những nghiên cứu theo ki
ểu liên tưởng luận” [152, tr. 75].
Tâm lí học, đặc biệt là tâm lí học nhận thức, quan tâm nhiều đến các quan hê ̣
ngữ nghiã . Đầu tiên là những lí thuyết quan tâm đến các mô hình trí nhớ dài hạn, mà
cụ thể là mô hình trí nhớ ngữ nghĩa (semantic memory), thứ đến là các lí thuyết liên
quan đến cách tiếp cận đánh giá hay đo lường trí tuệ.
Trí nhớ ngữ nghĩa là mô ̣t kho lưu tr ữ tinh thần về tri thức thế giới của con
người nói chung và là mô ̣t trong hai lo ại trí nhớ dài hạn, đối lập với trí nhớ tình tiết/
tạm thời (episodic memory). Tulving khi tách trí nhớ ngữ nghiã ra khỏi trí nhớ tình
tiết đã cho rằ ng “trí nhớ ngữ nghiã là cái cần thiết để sử du ̣ng ngôn ngữ” và là loại “tri
thức về khái niệm - từ nói chung” [161, tr.386]. Các khái niê ̣m đươ ̣c t ổ chức lại với

nhau theo các quan hê ̣ ngữ nghiã . Quan hê ̣ trái nghĩa cũng là một loại quan hệ trong
trí nhớ ngữ nghiã , góp phần tạo nên các cấ u trúc tri thức của con người về thế giới.
Các lí thuyế t về trí nhớ ngữ nghiã , về bản chất, có nguồn gốc liên tưởng luận.
Những liên tưởng tự do của con ngư ời kiểu như mèo-đuôi, mèo-động vật, mèo-chó,
cao-thấp, thấp-cao,... chính là những liên tưởng góp phần vào việc định hình cấu trúc
trí nhớ ngữ nghiã . Deese là người có những th ực nghiệm mạnh mẽ đầu tiên về các
liên tưởng tự do trong đó có liên tưởng trái nghĩa để ủng hộ cho các mô hình trí nhớ
ngữ nghĩa [97, 98, 99]. Dù rằng những nghiên cứu của Deese ngay lúc đó không gây

15


đươ ̣c sự chú ý do chỗ người ta vẫn còn dị ứng với những giả định hành vi luận của nó,
nhưng về sau đã đươ ̣c người ta chú ý nhiều hơn. Chính những nghiên cứu liên tưởng
tự do này của Deese đã có tác dụng thúc đẩy hàng loạt các nghiên cứu liên tưởng
khác, trong đó có các nghiên cứu quan tro ̣ng của Ervin , Collins và Quillian, Chaffin
và Herrmann, Charles và Miller, Justeson và Katz,... về các mô hình từ vựng tinh thần
vào sau những năm 1970 [83, 86, 87, 89, 117, 178,…]. Điều thú vị là chính những
nghiên cứu này đã t ạo ra cảm hứng để G. Miller và các đồng sự tiến hành mô hình
hoá vốn từ vựng tinh thần tiếng Anh thành Mạng từ (WordNet), một sản phẩm công
nghệ nguồn, lớn và có nhiều ảnh hưởng đến không chỉ các nghiên cứu ứng dụng liên
ngành mà cả các nghiên cứu lí thuyết đơn ngành. Cách xử lí quan hê ̣ trái nghiã trong
tính từ của Miller ở Mạng từ tiế ng Anh, và theo đó là ở cả Mạng từ Châu Âu, Mạng từ
Châu Á, Mạng từ tiếng Việt,… chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Deese [102, 236, 158,
36, 37, 49, 164, 165].
Cách tiế p câ ̣n theo lối liên tưởng luận này đối lập với lí thuyết cổ điển về quá
trình phạm trù hoá. Cách tiếp cận cổ điển cho rằng các thành viên phạm trù luôn được
xác định bằng mô ̣t loạt các điề u kiê ̣n cần và đủ, đối với tâm lí học về mặt thực chứng,
bằng các nét nghiã hay nội hàm quy loại và phân biê ,̣t đối với triết học và ngôn ngữ ho ̣c
học về mặt lí thuyế t [70, 80, 141,…]. Đến những năm 1970, cách tiế p câ ̣n cổ điển này

đã không còn đứng vững đươ ̣c trước cách tiếp cận điển mẫu của Rosch và Mervis [150,
151, 152, 153, 154]. Cách tiếp cận điển mẫu này đã đươ ̣c ngôn ngữ ho ̣c vận dụng nhiều,
thậm chí còn được xem là mô ̣t phương pháp làm việc rất có hiệu lực trong các nghiên
cứu ngôn ngữ ho ̣c theo đường hướng tri nhận luận. Tuy nhiên, trong suốt những năm
1970 - 1990, cách tiế p câ ̣n đi ển mẫu hầu như không có ảnh hưởng trong các nghiên
cứu về từ trái nghĩa. Cùng với sự phát triển của ngôn ngữ học tính toán, sau những năm
1990 mới có những công trình nghiên cứu từ trái nghĩa theo hơi hướng điển mẫu [93,
95, 160, 113, 137, 147, 156, 163, 170,…]. Với cách tiế p câ ̣n này, trong nghiên cứu từ
trái nghĩa, người ta đã tìm đươ ̣c nguyên nhân tại sao mô ̣t từ A lại thường đươ ̣c liên hê ̣
là trái nghiã với từ B, mặc dù B là mô ̣t từ đồ ng nghiã hay tương tự với A, C, D,,... (Thử
so sánh đẹp-xấu với xinh-xấu, cao-thấp với cao-lùn,…). Trong những trường hợp như
thế, A-B đươ ̣c xem là những c ặp trái nghĩa chuẩn (cannon antonyms). Và như vâ ̣y ,
người ta có t ừ trái nghĩa chu ẩn trên nhiều phương diện khác nhau, như chuẩn ngữ
nghĩa, chuẩn từ pháp, chuẩn ngữ dụng, chuẩn phong cách,...

16


Bên cạnh hướng nghiên cứu mang tính ch ất lí thuyế t , miêu tả thu ần tuý như
vậy còn có mô ̣t hướng nghiên cứu khác. Đó là hướng nghiên cứu ứng dụng. Ở hướng
này, những nghiên cứu về từ trái nghĩa chủ yếu xuấ t hiê ̣n trong các bài kiểm tra đánh
giá năng lực ngôn ngữ hay năng lực trí tuệ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ ho ̣c bệnh học hay
giáo dục ngôn ngữ hay các nghiên cứu về thụ đắc ngôn ngữ (thường là của/ dành cho
trẻ tiền học đường) [76, 79, 88, 115, 142, 143,…]. Người ta sử du ̣ng các c ặp từ có
nghĩa ngược nhau để đánh giá khả năng phân biệt và sự phát triển (thụ đắc), tính hoàn
chỉnh trong vốn từ vựng của h ọc sinh hay bệnh nhân. Trong các nghiên cứu như thế
này, từ trái nghĩa cũng chỉ có một vị trí khá khiêm tốn xét trong mối liên hệ với các
hiện tượng ngôn ngữ khác trên cả bình diện cấu trúc và chức năng. Dễ dàng có thể
nhận thấy rằng tất cả các bảng trắc nghiệm đánh giá ngôn ngữ của học sinh hay bệnh
nhân đều có các cặp từ trái nghĩa với mức độ khó dễ khác nhau xuất hiện trong đó. Ở

hướng nghiên cứu này, các nghiên cứu về thụ đắc từ trái nghĩa là gần gũi với ngôn
ngữ học hơn cả. Khi nghiên cứu thụ đắc từ trái nghĩa, người ta chủ yếu tập trung tìm
hiểu xem các từ trái nghĩa được thụ đắc vào thời điểm nào và được thụ đắc và sử
dụng như thế nào [76, 79, 113, 115, 140,…].
Trong Việt ngữ học, việc tiếp cận từ trái nghĩa từ góc độ tâm lí học cũng đã
được thực hiện riêng rẽ ở một số tác giả. Có lẽ Đỗ Hữu Châu là nhà Việt ngữ học đầu
tiên tiến hành nghiên cứu về thí nghiệm liên tưởng tự do với các từ tiếng Việt nói
chung và từ trái nghĩa nói riêng. Qua nghiên cứu của mình, Đỗ Hữu Châu đã đi đến kết
luận là trong các từ phản xạ thuộc trường trực tuyến với từ kích thích, xét về tần số xuất
hiện, các từ phản xạ có quan hệ cấu tạo từ với từ kích thích cho số lượng phản xạ nhiều
nhất, tiếp đến là các từ đồng nghĩa và trái nghĩa với từ kích thích. Chẳng hạn, với từ
nhẵn, trong số 301 lần phản xạ của nghiệm viên, có 21 lần phản xạ là các từ trái nghĩa
như từ gồ ghề (5 lần), xù xì (3 lần), nhấp nhô (4 lần), ráp (2 lần),…[5]. Sự tương đương
về mặt tần số sử dụng của các từ có nghĩa trái ngược nhau này cũng đã được Nguyễn
Đức Dân và Lê Quang Thiêm chỉ ra trong Dictionnare de Fréquence du Vietnammien:
Chẳng hạn, đen có tần số xuất hiện là 211 thì trắng cũng có tần số xuất hiện 246; tương
tự như vậy ta cũng có đúng (14)-sai (15), gái (72)-trai (52),…[15].
1.2.3. Hƣớng tiếp cận của nhân học
Thật khó để có thể vẽ ra được một đường ranh giới rạch ròi, dứt khoát cho
các nghiên cứu ngôn ngữ học và nhân học về quan hệ ngữ nghĩa nói chung và quan

17


hệ trái nghĩa nói riêng. Bởi lẽ, hầu hết các công trình nhân học viết về ngôn ngữ đều
được công bố trên các tạp chí nghiên cứu ngôn ngữ. Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử
khoa học cho thấy những nghiên cứu về nhân học lại có một giá trị phương pháp
luận vô cùng lớn lao đối với các nghiên cứu về quan hệ ngữ nghĩa nói riêng và các
nghiên cứu về ngôn ngữ (như trong âm vị học và ngữ nghĩa học) nói chung.
Nếu như nhà ngôn ngữ học nghiên cứu các quan hệ ngữ nghĩa nói chung và

quan hệ trái nghĩa nói riêng thông qua phương pháp nội quan hoặc thông qua các
nguồn ngữ liệu riêng biệt thì nhà nhân học lại nghiên cứu vấn đề này thông qua các
cuộc điền dã phỏng vấn trực tiếp các nghiệm viên để lấy thông tin. Sau khi có thông
tin, nhà nhân học tiếp tục sử dụng một phương pháp vốn được vay mượn từ trong
âm vị học cấu trúc để nghiên cứu tiếp; phương pháp ấy chính là phương pháp phân
tích thành tố mà chúng ta ngày nay thường hay nhắc đến. Chúng ta có thể thấy được
điều này qua các công trình của Chao, Frake, Tayler, Berlin và Kay,… [73, 85, 104,
159, 167, 168,…] Hơn thế nữa, những công trình như của Goodenough, Lounsbury
chính là những công trình góp phần đặt nền móng cho nhánh phương pháp phân
tích thành tố vốn được bắt nguồn từ nhân học Mĩ [82, 107, 111, 129].
Một hướng nghiên cứu rất mạnh trong nhân học vào những năm 1970 là
hướng nghiên cứu theo lối phân loại học dân gian (folk taxonomy) và chia phần học
dân gian (folk meronomy) để đưa ra một hệ phương pháp phát hiện và miêu tả các
quan hệ ngữ nghĩa sao cho thật hiệu quả, không những đảm bảo được tiêu chí thoả
đáng miêu tả (cái mà ngôn ngữ học cấu trúc quan tâm) mà còn đảm bảo được tiêu
chí thoả đáng tâm lí (cái mà tâm lí học chú trọng). Chẳng hạn, Casagrande và Hale
đã lấy thông tin về các quan hệ ngữ nghĩa có trong ngôn ngữ và văn hóa của các tộc
người bằng cách: (1) hỏi các nghiệm viên về các thực thể, cấu tạo của các thực thể,
các tiểu loại thực thể,…; (2) yêu cầu các nghiệm viên định nghĩa/ giải thích tên gọi
của các thực thể; (3) phân tích các lời định nghĩa đó bằng các câu trần thuật đơn
giản; (4) rút ra các quan hệ ngữ nghĩa có thể có trong các câu trần thuật đơn giản đó.
Dưới đây là một số ví dụ của Casagrande và Hale đã được chúng tôi chuyển ngữ
sang tiếng Việt. Trong ví dụ này, cột trái thể hiện tên quan hệ ngữ nghĩa, cột giữa
thể hiện lời định nghĩa theo công thức khái quát X-> Y (đọc là "X được định nghĩa
bằng Y"); cột phải là ví dụ [82, tr.168]:

18


Bảng 1.1. Ví dụ về một số quan hệ ngữ nghĩa của Casagrande và Hale (1967)

thuộc tính

X được định nghĩa liên quan đến một đặc điểm cóc-> nhỏ
Y

liền kề

X thường hay tất yếu có Y đi kèm

cười-> vui

chức năng

X là phương tiện để thể hiện kết quả Y

tai-> nghe

bao

gộp A là một thành viên trong lớp tôn ti Y

ong-> côn trùng

loài
đồng nghĩa

X tương đương với Y

nghìn-> mười trăm


trái nghĩa

A là sự phủ định của Y

cao-> thấp

bậc

X nằm trên một chuỗi thứ bậc có liên quan đến thứ Hai-> Chủ nhật
Y
Như vậy, qua dẫn dụ này, có thể thấy quan hệ trái nghĩa trong hướng tiếp cận

nhân học cũng chỉ là một trong số những quan hệ ngữ nghĩa cần phải được phát
hiện, miêu tả. Quan hệ trái nghĩa trong ví dụ đang dẫn, đối với cảm thức bản ngữ
dân gian, thường được định nghĩa theo lối phủ định. Trong ví dụ này, các từ trái
nghĩa với nhau được định nghĩa theo công thức X là sự phủ định của Y.
Một hướng nghiên cứu khác cũng phát triển mạnh trong nghiên cứu nhân học,
dù rằng nó không được bắt rễ từ bản thân nhân học, đó là hướng vận dụng những
kết quả nghiên cứu về trí nhớ ngữ nghĩa để nghiên cứu quan hệ ngữ nghĩa. Những
người tiên phong vận dụng lí thuyết trí nhớ ngữ nghĩa (của Tulving, 1972) vào
nghiên cứu nhân học là Quillian, Werner, Topper,…[148, 167, 168, 169]. Trong
cách tiếp cận này, trí nhớ ngữ nghĩa chính là "mạng lưới liên tưởng gồm các quan
hệ ngữ nghĩa được sử dụng để biểu đạt các tri thức văn hóa ngầm ẩn" [168, tr 76],
và quan hệ trái nghĩa cũng là một quan hệ góp phần tạo nên các cấu trúc “biểu diễn
một cách ngầm ẩn của tri thức con người" [168 tr. 48].
Hai hướng nghiên cứu trên là những hướng chính của nhân học tập trung vào
việc khám phá các quan hệ ngữ nghĩa. Chính vì thế mà người ta thường gán cho hai
hướng nghiên cứu này tên gọi dân tộc học ngữ nghĩa (ethnosemantics). Tuy nhiên,
cùng với đà phát triể n của ngôn ngữ h ọc xã hô ̣i , khuynh hướng nghiên cứu dân t ộc
học ngữ nghiã đến những năm 1980, về cơ bản, đã bị khuynh hướng nhân học miêu

tả các hành vi lời nói thay th

ế. Với khuynh hướng nhân học miêu tả, đối tượng

nghiên cứu là từ vựng trư ớc đây đã b ị diễn ngôn thay thế, phương pháp lu ận ngữ

19


nghĩa học dân tộc trước đây đã bị phương pháp lu ận ngôn ngữ ho ̣c xã hô ̣i thay th ế.
Chính vì thế mà quan hệ trái nghĩa , cũng giống như các quan hê ̣ ngữ nghiã khác ,
tạm thời không còn là mối quan tâm đáng kể của nhân học nữa.
1.2.4. Hƣớng tiếp cận của ngôn ngữ học
Khi nghiên cứu từ trái nghĩa, theo truyền thống, các nhà ngôn ngữ học chú ý
đến mấy vấn đề chính: (1) định nghĩa/ nhận diện từ trái nghĩa, (2) phân loại từ trái
nghĩa, (3) miêu tả từ trái nghĩa, (4) vai trò của từ trái nghĩa trong diễn ngôn. Vấn đề
nào trong số bốn vấn đề này là trọng tâm của một công trình nghiên cứu tuỳ thuộc
vào điểm xuất phát và đích đến của từng tác giả. Nhìn tổng quát, có thể xem vấn đề
thứ nhất và thứ hai là những vấn đề được đặt lên hàng đầu trong các nghiên cứu của
các nhà ngôn ngữ học lí thuyết thuần tuý; vấn đề thứ ba lại là nhiệm vụ trung tâm
của các nhà từ điển học thực hành; vấn đề thứ tư là vấn đề trọng tâm của các nhà
ngôn ngữ học tính toán và các nhà nghiên cứu ngữ pháp, diễn ngôn.
1.2.4.1. Hƣớng tiếp cận của ngôn ngữ học lí thuyết
Trong số những quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu trong hệ thống từ vựng mà ngôn
ngữ học hay nói đến hiện nay thì quan hệ trái nghĩa, cũng như quan hệ đồng nghĩa,
đã được ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu từ thời cổ đại (quan hệ thuộc nghĩa,
phân nghĩa (meronymy) mới có lịch sử nghiên cứu khoảng trên dưới 100 năm nay;
quan hệ nhân quả (causonymy), suy ra, thuộc tính mới được nghiên cứu khoảng 40
năm nay). Tuy nhiên, cũng phải đến thời hiện đại khi ngôn ngữ học cấu trúc, với
quan niệm xem ngôn ngữ là một hệ thống bao gồm các phần tử và quan hệ, ra đời

thì quan hệ trái nghĩa mới được chú ý nghiên cứu nhiều hơn. Hầu hết các cách tiếp
cận lí thuyết đến các quan hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng đều bắt nguồn từ
truyền thống cấu trúc luận [138, tr.65]. Đặc điểm chung của các công trình nghiên
cứu về từ trái nghĩa từ lập trường cấu trúc luận là xử lí các từ trái nghĩa độc lập với
ngữ cảnh và xét nó trong mối quan hệ đối lập hay phân biệt về mặt hệ hình với các
quan hệ ngữ nghĩa khác (chủ yếu là đồng nghĩa). Có thể chẻ nhỏ cách tiếp cận của
cấu trúc luận đến từ trái nghĩa thành mấy nhóm nhỏ: kiểu tiếp cận liên tưởng [122,
125, 131, 135,…], kiểu tiếp cận phân tích [122, 141,…], kiểu tiếp cận ngữ cảnh [94,
138,…] , và kiểu tiếp tri nhận [93, 95, 137,…].

20


Cách tiếp cận của ngữ nghĩa học liên tưởng đến từ trái nghĩa chịu ảnh hưởng
trực tiếp của Saussure [138]. Ngữ nghĩa học liên tưởng, bắt đầu từ Bally, đã giới
hạn các liên tưởng ngữ nghĩa lại trong những trường liên tưởng tự do. Cách tiếp cận
liên tưởng xem trái nghĩa (cùng với đồng nghĩa, phân nghĩa và thuộc nghĩa) là quan
hệ quan trọng trong việc xác lập tính hệ thống của hệ thống từ vựng của mỗi ngôn
ngữ; trường nghĩa hay trường từ vựng chính là một biểu hiện sinh động cho cách
tiếp cận này [123, 124, 125]. Từ trái nghĩa, do đó, là một quan hệ tĩnh tại trong hệ
thống từ vựng của ngôn ngữ và được xem như là một thuộc tính cố hữu của từ, các
từ có quan hệ trái nghĩa với nhau khi chúng xuất hiện trong các liên tưởng tự do,
độc lập vốn được trừu xuất khỏi các ngữ cảnh sử dụng thực tại. Trong cách tiếp cận
này, quan hệ trái nghĩa thường được xem như là một dạng quan hệ đối lập mà cụ thể
là đối lập lưỡng phân. Đối lập lưỡng phân đến lượt mình lại là nguyên lí quan trọng
nhất chi phối cấu trúc của hệ thống từ vựng các ngôn ngữ tự nhiên; “một trong
những biểu hiện rõ ràng nhất của nguyên lí này là hiện tượng từ trái nghĩa” [131, tr.
271]. Chính vì thế, khi tiến hành phân loại các nhóm từ đối lập, các nhà cấu trúc
luận thường đề cập đến bốn phạm trù:
-


Từ đối lập bổ sung (complementaries) (sống-chết, đúng-sai); triết học và
lô gích học thường chú ý đến nhóm đối lập này.

-

Từ đối lập thang độ (contraries) (nóng-lạnh, nhanh-chậm,…); khái niệm
từ trái nghĩa thường được các nhà cấu trúc luận (điển hình là Lyons, 1977;
Cruse, 1986) gán cho nhóm từ đối lập này.

-

Từ đối lập phương hướng (reversives) (lên-xuống, đóng-mở,…).

-

Từ đối lập quan hệ (converses) (mua-bán, vợ-chồng,…).

Ở Việt ngữ học, cách tiếp cận cấu trúc luận này xuất hiện ở hầu khắp các tác
giả, dù rằng tên gọi của hiện tượng từ trái nghĩa có thể khác nhau chút ít (ví dụ như
từ phản nghĩa, từ đối nghĩa, từ ngược nghĩa, từ đối lập, từ đảo nghĩa) [4, 10, 11, 27,
56, 57, 60, 62, 63]. Các nhà Việt ngữ học về cơ bản đều xem cả bốn nhóm từ đối
lập trên là những từ trái nghĩa chân chính. Tuy nhiên, cách tiếp cận cấu trúc luận
này trong Việt ngữ học có sự khác biệt ít nhiều; tính chất ngữ cảnh của từ trái nghĩa,
có lẽ là do ảnh hưởng hay là hệ quả trực tiếp của quan điểm triết học Mác - Lê nin
khi luôn nhấn mạnh đến tính xã hội trong các hoạt động ngôn ngữ cá nhân thực tế,
thường được các nhà Việt ngữ học tham chiếu tới nhiều hơn khi họ thường hay dẫn

21



chiếu thêm một nhóm từ trái nghĩa thứ năm nữa là nhóm từ trái nghĩa ngữ cảnh (từ
trái nghĩa ngữ dụng/ từ trái nghĩa lời nói) - những cặp từ trái nghĩa vốn được thiết
lập nhờ ngữ cảnh sử dụng (mận-đào, châu chấu-voi,…).
Kiểu tiếp cận phân tích được vận dụng trong nghiên cứu từ trái nghĩa khi
phương pháp phân tích thành tố (nghĩa) xuất hiện. Leech, Kempson là những nhà
ngôn ngữ học đầu tiên áp dụng phương pháp phân tích thành tố vào nghiên cứu từ
trái nghĩa [119, 122]. Ví dụ kinh điển thường được các tác giả (cả trong và ngoài
Việt ngữ) dẫn chiếu cho việc áp dụng cách phân tích thành tố này thường là các cặp
đàn ông-đàn bà, nam-nữ (trai-gái), vợ-chồng, cha-mẹ.
Ở Việt ngữ, quan niệm về từ trái nghĩa theo tinh thần phân tích thành tố được
thể hiện khá rõ khi ta thấy rằng các nhà nghiên cứu thường cho rằng các từ trái
nghĩa "có cấu trúc nghĩa đồng hình” [4, 10, 11, 57, 58, 60, 62,…], “đồng nhất với
nhau ở tất cả các nghĩa, trừ nét nghĩa bị lưỡng cực hoá” [7, tr.201]. Tuy nhiên,
người sử dụng trực tiếp và rõ ràng nhất thao tác phân tích thành tố này trong nghiên
cứu các từ trái nghĩa là Chu Bích Thu khi tác giả tiến hành phân tích các cặp từ như
thích, chán, thơm-thối, cao-thấp, ngon-dở, tốt-xấu,…. Chẳng hạn, cặp cao-thấp
được Chu Bích Thu phân tích thành hai cấu trúc nghĩa [57, tr. 35-36]:
“[- có kích thước,
- theo phương thẳng đứng,
- hướng từ dưới lên, so với chuẩn hoặc với mức đang được nói đến,
- lớn hơn]”
& “[- có kích thước,
-

theo phương thẳng đứng,

-

hướng từ dưới lên,


-

so với chuẩn hoặc với mức đang được nói đến,

-

nhỏ hơn]”

Hai cấu trúc nghĩa này chỉ khác nhau ở nét nghĩa cuối cùng được lưỡng cực
hoá là “lớn hơn” và “nhỏ hơn” mà thôi.
Kiểu tiếp cận ngữ cảnh và tri nhận là kiểu tiếp cận xuất hiện từ cuối những
năm 1980 đến nay. A. Cruse là một trong những người đầu tiên điển hình xem xét
công khai từ trái nghĩa trong ngữ cảnh, nhưng ngữ cảnh của Cruse mới thường chỉ
dừng lại nghiên cứu những kết cấu từ vựng - ngữ pháp có giá trị nhận diện từ trái

22


×