Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Chân dung con người Việt Nam trên báo in hiện nay (Khảo sát tin, bài về người tốt, việc tốt trên các báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết năm 2014 đến hết tháng 3/2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------

TRƢƠNG THỊ YẾN

CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(Khảo sát tin, bài về ngƣời tốt, việc tốt trên các báo
Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết năm 2014 đến hết tháng 3/2015)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------

TRƢƠNG THỊ YẾN

CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(Khảo sát tin, bài về ngƣời tốt, việc tốt trên các báo
Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết năm 2014 đến hết tháng 3/2015)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Linh Khiếu



Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Linh Khiếu. Những số liệu trong luận văn là
trung thực. Kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trương Thị Yến


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các giảng viên khoa Báo chí và Truyền
thông, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã
tận tình giảng dạy trong thời gian tôi học tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS. Nguyễn Linh
Khiếu đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ
tôi trong quá trình hoàn thiện luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trương Thị Yến



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM TRÊN BÁO IN –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN ..................................................................9
1.1. Một số khái niệm ............................................................................................9
1.1.1. Báo in .........................................................................................................9
1.1.2. Chân dung con người ...............................................................................11
1.1.3. Người tốt, việc tốt.....................................................................................13
1.2. Vai trò của báo chí trong tuyên truyền về ngƣời tốt, việc tốt ..................16
1.3. Một số tiêu chí của ngƣời tốt, việc tốt trên báo chí hiện nay ...................21
1.3.1. Tiêu chí người tốt, việc tốt .......................................................................21
1.3.2. Tiêu chí người tốt, việc tốt trên báo chí ...................................................28
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................29
Chƣơng 2: CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM TRÊN BÁO TUỔI
TRẺ, LAO ĐỘNG, ĐẠI ĐOÀN KẾT ...................................................................31
2.1. Giới thiệu về các tờ báo lựa chọn khảo sát ................................................31
2.1.1. Báo Tuổi trẻ ..............................................................................................31
2.1.2. Báo Lao động ...........................................................................................31
2.1.3. Báo Đại đoàn kết ......................................................................................32
2.2. Thực trạng các tác phẩm về chân dung con ngƣời trên báo in ...............32
2.2.1. Số lượng và tần suất .................................................................................32
2.2.2. Nội dung ...................................................................................................34
2.2.3. Hình thức ..................................................................................................45
2.3. Đánh giá thực trạng tuyên truyền về chân dung con ngƣời trên báo in .....54
2.3.1. Ưu điểm ....................................................................................................54
2.3.2. Hạn chế .....................................................................................................55
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................58
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG, HIỆU QUẢ TUYÊN TRUYỀN CHÂN DUNG CON NGƢỜI
TRÊN BÁO IN .........................................................................................................59

3.1. Giải pháp về nhận thức ...............................................................................59


3.2. Giải pháp từ cơ quan báo chí ......................................................................60
3.2.1. Tăng cường sự xuất hiện của bài viết về người tốt, việc tốt ....................60
3.2.2. Đổi mới hình thức trình bày .....................................................................62
3.2.3. Nâng cao hiệu quả của ảnh minh họa .......................................................65
3.3. Giải pháp với nhà báo .................................................................................67
3.3.1. Nâng cao kiến thức, năng lực và vốn sống...............................................67
3.3.2. Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ ...................................................................67
3.3.3. Trau dồi đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của nhà báo ..........71
3.4. Một số kiến nghị ...........................................................................................73
3.4.1. Với các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí...............................................73
3.4.2. Đối với cơ quan báo chí ...........................................................................74
3.4.3. Đối với Hội Nhà báo Việt Nam................................................................76
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH

: Công nghiệp hóa

CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐH


: Hiện đại hóa

HTX

: Hợp tác xã

NTVT

: Người tốt, việc tốt

NXB

: Nhà xuất bản

TNCS

: Thanh niên Cộng sản

TP

: Thành phố

XHCN : Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tần suất xuất hiện các tin, bài về người tốt, việc tốt trên báo in ............33
Bảng 2.2: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí yêu nước của người tốt,
việc tốt thể hiện trên báo in .....................................................................35
Bảng 2.3: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí nhân ái, nghĩa tình của

người tốt, việc tốt thể hiện trên báo in ....................................................37
Bảng 2.4: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí đoàn kết, vì cộng đồng của
người tốt, việc tốt thể hiện trên báo in ....................................................38
Bảng 2.5: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí lao động giỏi, cần cù, sáng
tạo của người tốt, việc tốt thể hiện trên báo in .......................................40
Bảng 2.6: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí tài năng, trí tuệ, dám nghĩ
dám làm của người tốt, việc tốt thể hiện trên báo in ..............................41
Bảng 2.7: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí nghị lực vượt lên số phận
của người tốt, việc tốt thể hiện trên báo in .............................................42
Bảng 2.8: Mức độ đánh giá của độc giả về tiêu chí dũng cảm, bản lĩnh của
người tốt, việc tốt thể hiện trên báo in ....................................................44


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ các nội dung tuyên truyền về người tốt, việc tốt trên báo in .....35
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu các thể loại báo chí được sử dụng trong tuyên truyền về
người tốt, việc tốt trên báo in ..............................................................48
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ sử dụng ảnh minh họa trong các tin, bài về người tốt, việc
tốt trên báo in ......................................................................................53


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, con người được coi là nhân tố
quan trọng hàng đầu để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bởi vậy việc đào tạo, xây dựng
nhân tố con người được xác định là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước ta.
Vấn đề đặt ra là cần xác định rõ những chuẩn mực của con người Việt Nam hiện
nay, đâu là chân dung con người cần hướng tới xây dựng, phát triển?
Viết về con người là đề tài sinh động và giàu sức sống của báo chí. Chân

dung con người trên báo chí cũng được phản ánh đa dạng ở nhiều khía cạnh, góc
nhìn khác nhau. Dù ở khía cạnh nào, thì con người khi xuất hiện trên báo chí đều có
sự ảnh hưởng nhất định đến con người trong xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu với báo
chí, đó là làm thế nào để những ảnh hưởng đó có tác dụng tích cực, góp phần vào
mục tiêu xây dựng con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Muốn vậy, thì con người xuất hiện trên báo chí phải là những con người có “đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc” như Đảng ta xác định trong
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định “Đào tạo con người là vấn
đề chiến lược, phong trào“người tốt, việc tốt” chính là một biện pháp quan trọng
của chiến lược đào tạo con người đó” [51, tr.387]. Người cũng cho rằng: Những
gương người tốt, làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để xây dựng con
người. Như vậy, có thể khẳng định người tốt, việc tốt (NTVT) có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng, phát triển con người; là đại diện cho những yếu tố tiêu biểu,
tích cực của con người cần được nhân rộng, lan tỏa trong xã hội.
Cùng với việc coi trọng vai trò của gương NTVT, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng xác định tầm quan trọng của việc tuyên truyền rộng rãi những tấm gương đó
trên báo chí. Từ năm 1954, Người đã yêu cầu báo Đảng và báo của các đoàn thể mở
ra chuyên mục “Người tốt việc tốt” để tuyên truyền rộng rãi gương tốt trong quần
chúng nhân dân. Người cho rằng “Lấy gương ngươi tốt, việc tốt để hàng ngày giáo
dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ

1


chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” [32, tr. 558]. Tiếp thu tư
tưởng của Người, trong Luật Báo chí nước ta cũng quy định rõ một trong những
nhiệm vụ của báo chí là: “Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới;
đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực
xã hội khác”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thực hiện nhiệm vụ này của báo chí

thời gian qua còn nhiều hạn chế. Báo chí dường như đang tập trung quá nhiều vào
việc khai thác các thông tin tiêu cực, thậm chí cả thông tin xấu mà thiếu vắng hình
ảnh những tấm gương tốt của con người. Trong báo cáo công tác báo chí hàng năm
của Hội Nhà báo Việt Nam những năm gần đây cũng đã gọi tên rõ những hạn chế
của báo chí, đó là tình trạng xa rời tôn chỉ mục đích, thiên về khai thác mặt trái, giật
gân, hình ảnh phản cảm nhằm câu khách vì mục tiêu kinh tế; thiếu thông tin phản
ánh tích cực, gương NTVT. Trước thực tế đó, việc tuyên truyền về NTVT trên báo
chí nói chung, báo in nói riêng càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Với những vấn đề đặt ra như trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Chân dung con ngƣời Việt Nam trên báo in hiện nay” thông qua việc khảo sát
các tin, bài về NTVT nhằm làm rõ vấn đề: chân dung con người Việt Nam tiên tiến,
tiêu biểu, tích cực đã được tuyên truyền như thế nào trên báo in hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về chân dung con người trên báo chí, đặc biệt là NTVT đã có các
công trình nghiên cứu trước đây như:
“Tuyên truyền gương thanh niên tiêu biểu trên nhật báo của Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh (Khảo sát báo Tiền phong và Thanh niên từ tháng 6/2012 đến tháng
6/2013”) (Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Dương Thị Mai): Trong công trình nghiên
cứu này, tác giả đã khảo sát, tìm hiểu và phân tích thực trạng việc tuyên truyền
gương thanh niên tiêu biểu trên Báo Thanh niên và Tiền phong. Qua khảo sát của
tác giả cho thấy: Đa phần các tin, bài đã tập trung phản ánh những tấm gương thanh
niên tiêu biểu trên các lĩnh vực như: tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, phong trào sáng tạo trẻ và nghiên cứu khoa học; trong học tập, văn hóa,
thể dục, thể thao; trong tình nguyện vì cộng đồng… Đây là những nội dung khi
được phản ánh trên báo đã tạo tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của

2


thanh niên. Theo nghiên cứu của tác giả, việc viết về gương thanh niên tiêu biểu

được nhiều phóng viên chia sẻ đây là một đề tài khó viết và bị đánh giá là khô khan,
khó thu hút được độc giả khiến nhà báo phải loay hoay lựa chọn cách thể hiện về
nội dung, hình thức và cách đặt vấn đề. Có xu hướng mất cân đối giữa tỷ lệ tin, bài
về gương thanh niên tiêu biểu và những tin, bài viết về thanh niên chưa tốt làm tác
động không nhỏ tới nhận thức của thanh niên nói chung. Tác giả đưa ra 3 giải pháp
về nhận thức, nguồn lực và chế độ, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả công tác
tuyên tryền gương thanh niên tiêu biểu trên hai tờ báo.
“Hình ảnh người chiến sĩ công an thủ đô qua báo chí Hà Nội (Khảo sát báo
An ninh thủ đô, HàNộimới, chuyên mục “truyền hình ATV” và chuyên mục “Truyền
hình Vì an ninh Thủ đô” của Đài Phát thanh truyền hình Hà Nội từ tháng 1 đến
tháng 6/2012)” (Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Bùi Ngọc Mai): Trong nghiên cứu này,
tác giả đã khảo sát thực tế, chỉ ra những ưu nhược điểm của báo chí Thủ đô trong
việc tuyên truyền hình ảnh người chiến sĩ công an. Qua khảo sát cho thấy báo chí đã
phản ánh khá rõ nét về hình ảnh người chiến sĩ công an Thủ đô trên các mặc công
tác, góp phần xây dựng được hình ảnh đẹp về người chiến sĩ công an, giúp độc giả,
khán giả hình dung ra được phần nào các mặt hoạt động của lực lượng công an Thủ
đô. Tuy vậy, báo chí mới chỉ khắc họa chủ yếu hình ảnh người chiến sĩ công an Thủ
đô qua công cuộc đấu tranh trấn áp tội phạm, còn coi nhẹ hình ảnh người chiến sĩ
công an trong việc thường ngày. Báo chí tập trung chủ yếu vào công việc mà chưa
khắc họa được đời sống tinh thần, đạo đức, lối sống của người chiến sĩ công an. Báo
chí thiên về biểu dương hình ảnh người chiến sĩ công an mà coi nhẹ phê phán, đấu
tranh với những biểu hiện chưa tốt, nhất là đối với báo chí của công an Hà Nội. Về
hình thức, báo chí Hà Nội đã sử dụng được nhiều thể loại bài viết đa dạng, phong
phú trong việc xây dựng hình ảnh về người chiến sĩ công an Thủ đô.
“Thông tin về điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc
trên báo in ngành công an (Khảo sát 3 báo: An ninh Thủ đô, Công an Nhân dân,
Công an Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1 đến tháng 12/2012)” (Luận văn Thạc
sĩ Báo chí - Nguyễn Kim Anh): Nghiên cứu đã phản ánh tình hình thông tin về điển
hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên 3 đầu báo


3


chính của ngành công an, đồng thời nêu rõ sự tác động mà thông tin các báo đem lại
có tác dụng và hiệu quả như thế nào đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc. Nhiều tấm gương sáng được các báo đề cập, nhiều tập thể được tuyên dương
xứng đáng, tuy nhiên còn chủ yếu tập trung vào những tập thể, cá nhân điển hình
trong ngành công an, chưa chú trọng đến những tập thể, cá nhân điển hình ngoài
ngành. Có bài viết còn phản ánh chung chung, chưa thực sự chuyên sâu vào các
điển hình tập thể và cá nhân. Tác giả đưa ra 4 nhóm giải pháp: về nguồn tài chính,
về tổ chức cán bộ, về nghiệp vụ, về phối hợp giữa báo in ngành công an với các cơ
quan báo chí khác.
Bên cạnh đó, có nhiều công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề tuyên truyền
NTVT trên báo chí như: "Người tốt việc tốt" trên báo chí hiện nay, thực trạng và
vấn đề đặt ra (Khảo sát trên các báo: Nhân dân, Quân đội nhân dân, HàNộimới,
Lao động từ năm 2004 - 2006)” (Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Bùi Thị Thu Trang):
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả có những thống kê về số lượng, dung
lượng các bài viết về NTVT trên 4 tờ báo được khảo sát; nêu rõ các khía cạnh về
nội dung, hình thức thể hiện, những thành công, hạn chế, nguyên nhân và các giải
pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền về NTVT trên các báo.
Nghiên cứu này của tác giả đã nêu khá cụ thể về thực trạng tuyên truyền về người
tốt việc tốt trên một số tờ báo giai đoạn 2004-2006.
“Phóng sự Báo Lao động trong chức năng biểu dương khẳng định nhân tố
mới, điển hình tiên tiến trong cuộc đổi mới” (Khóa luận Cử nhân Báo chí - Nguyễn
Thị Tuyết Lan). Trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung khảo sát các bài phóng
sự trên Báo Lao động viết về chủ đề biểu dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến; từ
đó có những nhận xét, đánh giá về chất lượng, hiệu quả tuyên truyền qua hình thức
phóng sự của Báo Lao động. Nghiên cứu của tác giả khá cụ thể tuy nhiên mới chỉ
hạn chế trong một thể loại (phóng sự) và trong phạm vi một tờ báo (Báo Lao động),
chưa có những nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn.

Một số công trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài như: “Nhân tố con
người được tuyên truyền trên báo Nhân dân năm 2000 - 2002” (Khóa luận Cử nhân
Báo chí - Nguyễn Thị Na); “Hình ảnh con người mới Việt Nam trong quá trình

4


công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” (Khóa luận Cử nhân Báo chí - Phí Thanh
Hường); “Tuyên truyền về điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên báo chí hiện
nay” (Khóa luận Cử nhân Báo chí - Nguyễn Thị Thu Hà).
Từ các góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu này đã nêu lên thực
trạng tuyên truyền về hình ảnh con người, những NTVT, điển hình tiên tiến trên báo
chí. Các công trình nghiên cứu cũng đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng về hình thức, nội dung và hiệu quả tuyên truyền. Tuy nhiên đến nay chưa có
công trình nghiên cứu nào về chân dung con người Việt Nam được thể hiện qua các
tin, bài về NTVT trên các báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các tác phẩm về NTVT
trên báo in thời gian qua, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả tuyên truyền NTVT trên báo in hiện nay, góp phần làm sáng
rõ chân dung tiêu biểu, tích cực của con người Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn cần thực hiện 3 nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận chung xung quanh việc tuyên truyền
về NTVT trên báo in để làm cơ sở cho những nghiên cứu của đề tài luận văn.
Thứ hai, khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tác phẩm báo chí viết về
NTVT trên báo in hiện nay; những thành công, hạn chế và những vấn đề đang đặt
ra đối với tuyên truyền NTVT trên báo in.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu

quả tuyên truyền về NTVT trên báo in hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chân dung con người Việt Nam được thể hiện qua báo in hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Chân dung con người Việt Nam trên báo chí được phản ánh đa dạng, nhiều
chiều, có chân dung con người tích cực, tiêu biểu và cũng có những chân dung tiêu

5


cực, đáng phê phán. Tuy nhiên, chân dung con người Việt Nam tiêu biểu, tiên tiến
luôn là đề tài được khuyến khích trên báo chí, với mục tiêu hướng đến là góp phần
lan tỏa cái tốt đẹp, cái nhân văn ra cộng đồng, góp phần xây dựng con người Việt
Nam thời kỳ mới với những đặc trưng tiêu biểu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Trong công tác tuyên truyền nói chung và trên báo in nói riêng, chân dung
con người tiên tiến, tiêu biểu, tích cực được biểu hiện đầy đủ, rõ nét nhất những
phẩm chất tốt đẹp của mình qua các tấm gương NTVT trong mọi ngành nghề, lĩnh
vực của đời sống xã hội. Bởi vậy, trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi chỉ giới
hạn nghiên cứu chân dung con người Việt Nam ở khía cạnh con người tích cực, tiêu
biểu được tuyên truyền qua những tin, bài NTVT trên báo in.
- Đối tượng khảo sát: 3 tờ nhật báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại đoàn kết
- Thời gian kháo sát: Từ tháng 1/2014 đến tháng 3/2015.
5. Cơ sở

uận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về
vai trò, tính chất và nhiệm vụ của báo chí trong xây dựng và phát triển con người,

tôn vinh NTVT.
Các phương pháp nghiên cứu của luận văn gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả sử dụng nguồn thông tin, các kết
quả nghiên cứu trước đó đã được công bố để làm sáng tỏ cho vấn đề mình nghiên
cứu. Đây chính là những lí thuyết cơ sở cho việc đánh giá các kết quả khảo sát thực
tế và tìm kiếm những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích văn bản: Là phương pháp dùng để thu thập, xử lý
số lượng và phân tích các tác phẩm về NTVT trên các báo Tuổi trẻ, Lao động, Đại
đoàn kết trong thời gian từ tháng 1/2014 đến hết tháng 3/2015.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
Để tiến hành phương pháp này, tác giả sử dụng bảng hỏi anket để thu thập
thông tin từ độc giả - những người tiếp nhận tác phẩm về NTVT trên báo in.
Với 200 bảng hỏi, tác giả lựa chọn mẫu theo cụm 3 tỉnh, thành là Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh và Thái Nguyên theo yếu tố vùng miền và dân cư. Hà Nội và

6


TP. Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn đại diện cho 2 miền Nam - Bắc; là nơi tập
trung của nhiều cơ quan, đơn vị, trường học; có số dân cư đông, đa dạng về thành
phần xã hội; số lượng báo in được phát hành chiếm tỷ lệ cao so với các tỉnh, thành
khác. Thái Nguyên là tỉnh đại diện cho khu vực miền núi, đồng thời cũng là thành
phố tập trung nhiều khu công nghiệp, trường đại học, cao đẳng, có thành phần dân
cư đa dạng.
Các mẫu chọn cụ thể như sau:
200 mẫu

TP. Hồ Chí
Minh
(60 mẫu)


Hà Nội
(80 mẫu)

Cán bộ,
công chức,
giảng viên,
nhà báo

(50 mẫu)

Học sinh,
sinh viên
(30 mẫu)

Cán bộ,
công chức,
giảng viên,
nhà báo
…..
(30 mẫu)

Học sinh,
sinh viên
(30 mẫu)

Thái Nguyên
(60 mẫu)

Cán bộ,

công chức,
giảng viên,
nhà báo

(30 mẫu)

Học sinh,
sinh viên
(30 mẫu)

Kết quả: Tổng số 200 phiếu phát ra, thu về được 180 phiếu hợp lệ (đạt 90%).
6. Ý nghĩa

uận và thực tiễn của uận văn

Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung trong việc báo chí tuyên
truyền làm sáng rõ chân dung con người Việt Nam thông qua tuyên truyền về NTVT.
Về mặt thực tiễn
- Luận văn góp phần làm rõ một số ưu điểm, hạn chế của việc truyên truyền
về NTVT trên báo in. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về NTVT trên báo in hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với những người quan
tâm đến vấn đề tuyên truyền về chân dung con người, NTVT trên báo chí, nhất là
đối với sinh viên báo chí, cán bộ, phóng viên, biên tập viên báo chí về đề tài này.

7


7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Chân dung con người Việt Nam trên báo in - Những vấn đề lý
luận cơ bản.
- Chương 2: Chân dung con người Việt Nam trên các báo Tuổi trẻ, Lao động,
Đại đoàn kết.
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
tuyên truyền về chân dung con người trên báo in.

8


Chƣơng 1:
CHÂN DUNG CON NGƢỜI VIỆT NAM TRÊN BÁO IN
– NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Báo in
a) Khái niệm
Báo in là loại hình báo chí xuất hiện sớm nhất trong các loại hình báo chí,
hình thức thể hiện được in trên giấy, có hình ảnh minh họa, là một trong 4 loại hình
báo chí: Báo in, báo nói, báo hình, báo mạng điện tử. Báo in là phương tiện truyền
thông cơ bản không thể thiếu trong đời sống xã hội.
Đến nay, đã có nhiều quan niệm khác nhau về báo in:
Theo tác giả Hà Huy Phượng: Báo in là thuật ngữ chỉ một loại hình báo chí
định kỳ thông tin thời sự các sự kiện, các vấn đề trong đời sống xã hội thông qua
việc sử dụng ngôn ngữ chữ viết và kỹ thuật in ấn để truyền tải thông tin.
Theo tác giả Dương Xuân Sơn: Báo chí in bao gồm báo và tạp chí là những
ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành
rộng rãi trong xã hội.
Theo Luật Báo chí (2016): Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh,

ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.
b) Đặc trưng, đặc điểm của báo in
Báo in là ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự
và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Định kỳ của báo in có nhiều loại khác nhau
như: hàng ngày, thưa kỳ (2, 3, 5 ngày một số), hàng tuần. Định kỳ của báo in chính
là sự xuất hiện theo chu kỳ đều đặn và cố định của sản phẩm báo. Chu kỳ xuất hiện
của báo in có ý nghĩa quan trọng vì nó quy định thời điểm mà công chúng đón nhận
sản phẩm báo in.
Tính thời sự của báo in được hiểu là sự phản ánh nhanh chóng những sự kiện
mới xảy ra, vấn đề mới nảy sinh hoặc vừa mới được phát hiện trong đời sống xã
hội. Mỗi tờ báo in có công chúng tiếp nhận khác nhau và công chúng thực hiện
phương thức tiếp nhận theo những hướng khác nhau.

9


Báo in chuyển tải nội dung thông tin thông qua văn bản in gồm: chữ in, hình
vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Toàn bộ các yếu tố thể hiện nội dung thông tin của
các tác phẩm báo in xuất hiện đồng thời trước mắt người đọc hầu như ngay trên
cùng một trang báo. Sự đồng hiện của báo in được thể hiện bằng những thông tin
cùng xuất hiện đồng thời trên trang báo in thông qua việc trình bày tổ chức trang
báo, bao gồm các phần: tên chuyên mục, tiêu đề, tít, sapô hoặc những dòng chữ gây
chú ý, tít phụ cùng sự hỗ trợ của hình vẽ, tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ… Công chúng
đọc một bài báo in có thể do tít và sapô hấp dẫn hay cũng có thể do tranh ảnh, biểu
đồ minh họa gây chú ý cho họ. Cũng chính vì vậy mà có thể nói sự đồng hiện thông
tin của bài viết trên cùng một trang báo in là một trong những lợi thế nhất định của
báo in. Công chúng có thể cùng lúc lướt mắt trên toàn bộ bài báo và sau đó có thể
tìm những thông tin thú vị hoặc cần thiết cho mình. Cũng chính sự đồng hiện các
yếu tố thể hiện của một bài báo trên một trang báo cũng làm ảnh hưởng lớn đến
công tác biên tập nội dung tít, sapô và phần chính văn của một bài báo in. Do

phương thức thông tin đặc thù trên, báo in có những đặc điểm ưu việt sau:
Thứ nhất, người đọc hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận thông tin từ
báo in. Sự chủ động bao gồm từ việc bố trí thời điểm đọc, lựa chọn trình tự đọc đến
việc chủ động về tốc độ đọc, cách thức đọc khi trong tay có một tờ báo in cụ thể.
Buổi sáng người ta có thể mua một tờ báo in của một cơ quan báo chí nào đó, đọc
lướt qua các tin tức, bình luận quan trọng rồi chiều tối về nhà mới đọc tiếp những
bài báo dài và đáng quan tâm như phóng sự, phản ánh, các loại ký… Khi đọc các tờ
báo in, người ta hoàn toàn có thể đọc lướt nhanh những nội dung quen thuộc, đọc
kỹ hay đọc lại những nội dung phức tạp mà đọc lần đầu chưa rõ. Đặc điểm này tạo
cho báo in khả năng thông tin những nội dung sâu sắc, phức tạp. Nhà báo có thể
trình bày, lý giải các nội dung thông tin với những mối quan hệ đan chéo, những
biểu hiện trên nhiều bình diện, nhiều tầng lớp khác nhau. Những thông tin có thể
được tổ chức theo nhiều cách khác nhau mà người đọc vẫn có thể hiểu, miễn là
những thông tin, nội dung bài viết là bổ ích, đáp ứng được nhu cầu của người đọc.
Thứ hai, vì sự tiếp nhận thông tin báo in của công chúng là quá trình chủ
động, đòi hỏi người đọc phải tập trung cao độ, phải huy động sự làm việc tích cực

10


của trí não. Vì thế làm tăng khả năng ghi nhớ thông tin, giúp người đọc có thể nhận
thức sâu sắc những mối quan hệ bên trong phức tạp. Nội dung thông tin đề cập các
vấn đề, sự kiện trong cả một chu kỳ xuất bản. Thông tin về các vấn đề, sự kiện thời
sự diễn ra trong chu kỳ sau đó chỉ có thể được đề cập trong sản phẩm được xuất bản
vào thời điểm định kỳ sau. Vì thế trong báo in bao giờ cũng tồn tại một khoảng thời
gian trống thông tin, hay nói cách khác, độ nhanh, tính thời sự của báo in bị hạn chế
hơn so với các loại hình phát thanh và truyền hình và đặc biệt là báo mạng điện tử.
Hơn nữa nguồn thông tin từ báo in đảm bảo sự chính xác và độ xác định cao.
Dù thông tin chậm hơn so với các loại hình báo chí khác nhưng đảm bảo sự chính
xác về thông tin vì đã được kiểm định. Báo in có thể làm tài liệu, minh chứng cho

các công trình nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Chân dung con người
Chân dung là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong lĩnh vực nghệ thuật như
hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, văn học... Và từ lâu khái niệm chân dung cũng được
sử dụng phổ biến trong lĩnh vực báo chí.
Theo Từ điển Tiếng Việt,“chân dung” được định nghĩa là “tác phẩm hội họa,
điêu khắc, nhiếp ảnh thể hiện đúng diện mạo, thần sắc, hình dáng một người nào đó”
[34, tr.193]. Theo định nghĩa này, chân dung con người được hiểu là diện mạo, thần
sắc và hình dáng của con người được thể hiện thông qua một bức tranh, ảnh hay một
tác phẩm điêu khắc có hình khối cụ thể. Người xem có thể nhìn thấy trực tiếp diện
mạo, thần sắc, hình dáng đó, dễ dàng hình dung ra con người có thật ngoài thực tế.
Trong lĩnh vực văn học, khái niệm chân dung cũng được sử dụng khi nói về
một thể loại văn học lấy con người làm đối tượng chủ yếu để phản ánh. Trong cuốn
Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
đã đưa ra khái niệm chân dung văn học như sau: Nhà văn phát huy sở trường quan
sát, lựa chọn chi tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng
lại bộ mặt tinh thần của một con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ, các nhà hoạt
động xã hội nổi tiếng. Hay như nhà văn Tô Hoài định nghĩa: Chân dung văn học là
việc dựng lại những bóng dáng thần thái văn nhân, những câu nói cái cười, bước đi
dáng đứng của họ mà mình từng thấy từng biết.

11


Chân dung con người trong văn học, nghệ thuật khác với chân dung con
người trong lĩnh vực báo chí. Chân dung con người trong văn học, nghệ thuật có thể
mang yếu tố hư cấu, còn trong báo chí, chân dung đó phải là người thật, việc thật,
được phản ánh chân thực thông qua tác phẩm báo chí. Việc dùng báo chí để khắc
họa chân dung con người không giống như người họa sĩ vẽ chân dung, coi chân
dung là mục đích cuối cùng. Mà khái quát hơn, sâu sắc hơn là nhà báo làm toát lên

chân dung một con người với cuộc sống thực của họ, từ đó khái quát lên thành
những vấn đề xã hội, những thông điệp xã hội muốn gửi tới độc giả.
Bàn về khái niệm của thể loại ký chân dung - thể loại báo chí tiêu biểu khi
phản ánh chân dung con người, tác giả Đức Dũng quan niệm: Con người trong tác
phẩm ký chân dung phải có địa chỉ sát thực, tiêu biểu, đáp ứng được yêu cầu tuyên
truyền thời sự. Con người phải được đặc tả ở diện mạo, dáng vẻ bề ngoài hoặc
thông qua những hành động, những việc làm tiêu biểu.
Trong cuốn Tác phẩm báo chí, khi nói về chân dung con người trong thể loại
phóng sự báo chí, các tác giả cho rằng: “Mỗi bức chân dung cụ thể có thể nói lên một
mảng hiện thực nào đó: hoặc minh chứng cho một truyền thống lịch sử, một phong
tục tập quán, một nếp nghĩ, nếp làm ăn của một địa phương, một tộc người hoặc một
khuynh hướng xã hội nào đó. Chân dung con người có thể là tích cực hoặc tiêu cực,
hạnh phúc hay bất hạnh, đáng biểu dương hay đáng phê phán…” [10, tr. 181].
Trong khái niệm về thể loại ký chân dung, tác giả Dương Xuân Sơn cho rằng:
Ký chân dung là một thể loại thuộc thể ký báo chí có đối tượng phản ánh là những
con người hay một tập thể người có thật, được coi là tiêu biểu vào những thời điểm
nhất định, đáp ứng yêu cầu thông tin thời sự. Đó là những con người hay tập thể
người có hành động, việc làm hoặc suy nghĩ nội tâm đáp ứng nhu cầu thông tin của
công chúng. [38, tr. 84].
Như vậy, có thể hiểu khái niệm chân dung con người trên báo chí là những
con người có thật được báo chí phản ánh thông qua tác phẩm báo chí. Qua đó,
không chỉ diện mạo, thần sắc, hình dáng của con người được thể hiện, mà cả tính
cách, phẩm chất, lối sống, năng lực, thể trạng, hoàn cảnh, địa vị xã hội và các mối
quan hệ xã hội của con người đó cũng được bộc lộ. Trên báo in, chân dung con

12


người được thể hiện thông qua ngôn ngữ hình ảnh (ảnh báo chí) và ngôn ngữ chữ
viết (bài báo).

Chân dung con người trên báo chí được phản ánh đa dạng, nhiều chiều, có
những chân dung tích cực, tiêu biểu và cũng có những chân dung đáng phê phán.
Nhưng về cơ bản, chân dung con người đó phải đáp ứng được các yêu cầu, đó là có
tính chân thực, tiêu biểu, điển hình và tính thời sự.
1.1.3. Người tốt, việc tốt
Đầu tháng 6/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với một số cán bộ Ban
Tuyên huấn Trung ương Đảng về việc làm và xuất bản loại sách Người tốt việc tốt.
Người đã nói: “Nhân dân ta rất anh hùng, ra ngõ gặp anh hùng… Có thể nói trong
mỗi nhà đều có anh hùng, như thế ra ngõ mới gặp anh hùng chứ! Nhìn lại lịch sử
mấy nghìn năm của ông cha ta, ta cũng thấy điều đó. Cứ mỗi lần có những thử thách
lớn thì nhân dân ta lại tỏ rõ khí phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình… Cho
nên Bác nghĩ: cần có những phần thưởng để khuyến khích, động viên, cổ vũ mọi
người hăng hái làm tròn nhiệm vụ. Từ ngày hòa bình lập lại, Bác có yêu cầu báo
của Đảng và của các đoàn thể mở ra mục Người mới việc mới để làm việc đó đi đôi
với phong trào thi đua ở các cấp, các ngành. Bây giờ nên gọi là Người tốt việc tốt
cho đúng hơn” [32, tr. 547-548]. Như vậy, khái niệm NTVT trên báo chí lần đầu
tiên được nhắc đến do Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nói đến những người có đóng góp
cho phong trào cách mạng của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Bất cứ ai, hễ làm việc gì mà nổi lên tinh
thần chí công vô tư, mình vì mọi người, dù rất nhỏ, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, ở tầng
lớp nào, trong giới nào, ở lứa tuổi nào đều được coi là gương NTVT. Đó có thể là
“cháu gái tên Xuân ở Quảng Bình đã chiến đấu dũng cảm, góp phần bắn rơi máy
bay Mỹ”, là “các cháu bé Việt Nam nhặt được của rơi đem trả”, là bộ đội “không
những biết đánh giặc giỏi mà còn biết đỡ đẻ cho dân”, là các cụ già Việt Nam “cùng
con cháu đánh giặc giữ nước, xung phong chăm sóc sức khỏe thương bệnh binh, đỡ
đầu lớp mẫu giáo, trông nom vườn trẻ, gương mẫu trồng cây, trồng rừng. Có những
cụ ông, cụ bà chuyên nhận nuôi những con trâu ghẻ, trâu gầy của hợp tác xã thành
những con trâu béo khỏe có thể kéo cày, kéo gỗ được”… Người tốt, việc tốt trong

13



quan niệm của Bác còn là: “Hai cô con gái đi đường thấy cái hố nhỏ ở vỉa hè đã rủ
nhau đi lấy đất lấp lại cho đồng bào khỏi vấp ngã. Một người nông dân đi giữa trời
mưa thấy bao gạo của Nhà nước không có gì che phủ, đã cởi tấm nilông của mình ra
đậy gạo cho Nhà nước. Cụ già Việt kiều trở về Tổ quốc để cùng chia sẻ những khó
khăn, cùng gánh vác công việc đánh Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội”…
Có thể thấy, những NTVT theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
những con người rất bình dị, đời thường, làm những việc nhỏ nhưng có ích cho xã
hội. Đó là những người yêu nước, có đạo đức trong sáng, có lòng dũng cảm, gan dạ,
có tình đoàn kết, sẻ chia, nhân hậu… Đó là những nét đẹp truyền thống của con
người Việt Nam, là những nét vẽ tạo nên chân dung tiêu biểu của con người Việt
Nam trong truyền thống văn hóa của dân tộc.
Bước sang thời kỳ đổi mới đất nước, khái niệm NTVT được hiểu theo nghĩa
rộng hơn: bên cạnh những giá trị truyền thống của con người Việt Nam, NTVT hiện
nay cần phải có tri thức, biết đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào cuộc sống, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, chủ động năng động, sáng tạo trong tình hình mới, biết
làm nên sự nghiệp từ bàn tay trí óc của mình, giúp ích cho xã hội, cho đất nước.
Nhà báo Nguyễn Uyển trong bài tham luận “Báo chí với việc nêu gương tốt
việc tốt” cho rằng: Từ lâu tổ hợp từ này đã được dùng để chỉ những điển hình về
con người và sự việc tiêu biểu xuất hiện trong nhân dân lao động và đương nhiên
những điển hình ấy phải phù hợp với xu thế phát triển chung của lịch sử. Mới, tốt có
nghĩa là tiên tiến và thường được biểu hiện ở một số điểm như sau: Người tiên tiến,
việc tiên tiến, biện pháp tiên tiến. Hai vế cụm từ “người tốt, việc tốt” có liên quan
với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Nói người tốt (qua việc tốt), tức là phải
xem xét dưới nhiều khía cạnh. Ngược lại, khi nói việc tốt chỉ cần nêu sâu sự việc
không cần biết lai lịch.
Ông Vũ Hồ, trong bài viết “Trao đổi kinh nghiệm viết gương tốt” thì cho
rằng: Người tốt được nêu phải là một tấm gương có tác dụng tốt trong việc giáo dục
đường lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, xây

dựng đạo đức mới, con người mới, phục vụ tốt yêu cầu từng thời kỳ của công tác
giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, có tác dụng góp phần vào sự chiến thắng của

14


cái tiên tiến đối với cái lạc hậu, cái tốt đối với cái xấu, chủ nghĩa tập thể với chủ
nghĩa cá nhân. Họ là người có tư tưởng và hành động tiên tiến, có thành tích xuất
sắc (trước hết là các anh hùng, dũng sỹ quyết thắng, chiến sỹ thi đua…), được quần
chúng - trước hết là quần chúng ở chính nơi đó công tác công nhận, xứng đáng được
nêu gương về nhiều mặt hoặc về một mặt nào đó.
Trong Lời tựa sách Tâm sáng, chí bền của Thông tấn xã Việt Nam, khái
niệm NTVT được nêu như sau: Nhân vật được coi là người tốt việc tốt phải là
“Những cá nhân, tập thể trung thành với sự nghiệp cách mạng, đi đầu trong đổi mới,
dũng cảm, cần cù, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản thân, đơn vị,
gương mẫu trong đời sống hàng ngày”. Có rất nhiều đề tài cho thể loại gương
NTVT như: Xây dựng nếp sống văn minh; Gia đình văn hóa; Hộ gia đình làm kinh
tế giỏi; gia đình hiếu học, tấm gương sản xuất giỏi; tấm gương đi đầu trong phong
trào thi đua… Đó là những người có địa chỉ xác thực, có những hành động và việc
làm tiêu biểu, đủ sức thuyết phục.
Ở một phạm vi rộng hơn, NTVT chính là những tấm gương điển hình tiên
tiến, những nhân tố mới trong đời sống xã hội hiện nay. Theo Từ điển tiếng Việt
định nghĩa: “Điển hình là có tính tiêu biểu nhất, bộc lộ rõ bản chất của một nhóm
hiện tượng, đối tượng”, “tiên tiến là ở vị trí hàng đầu, vượt hẳn trình độ phát triển
chung, đạt thành tích cao, có tác dụng đối với phong trào thi đua”. Như vậy, điển
hình tiên tiến trên báo chí có thể hiểu được là: Những tấm gương cụ thể, sinh động
(cá nhân hoặc tập thể) có tính chất điển hình, tiêu biểu nhất trong sản xuất và đời
sống, vượt hẳn trình độ phát triển chung, đạt thành tích cao, có tác dụng cổ vũ tinh
thần thi đua lao động sản xuất, tổ chức cuộc sống của đông đảo nhân dân.
Về khái niệm điển hình tiên tiến và nhân tố mới, PGS.TS. Nguyễn Văn Dững

trong cuốn Báo chí và dư luận xã hội cho rằng: “Cần phân biệt giữa điển hình tiên
tiến và nhân tố mới. Nếu điển hình tiên tiến được coi là mô hình hay cách thức tổ
chức sản xuất, tổ chức cuộc sống có hình hài khá toàn diện để mọi người, mọi nơi
học tập và làm theo, thì nhân tố mới, đúng như tên gọi của nó, chỉ là một nhân tố
mới, một khía cạnh tích cực, nổi trội, chứ chưa phải là mô hình hoàn chỉnh của sự
vật hay hiện tượng” [9, tr. 307].

15


Như vậy, có thể hiểu về khái niệm NTVT như sau: Người tốt, việc tốt là
những con người có phẩm chất, đạo đức tốt cùng những việc làm hay, cử chỉ đẹp có
lợi ích cho đất nước, xã hội, được coi là những tấm gương để tuyên truyền, giáo
dục có hiệu quả và cần được nhân rộng ra. Đó là những con người mẫu mực, tiêu
biểu cho con người của một giai đoạn lịch sử nhất định.
1.2. Vai trò của báo chí trong tuyên truyền về ngƣời tốt, việc tốt
Người tốt, việc tốt có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi nếu mỗi
người, mỗi ngày cố gắng làm những việc tốt thì cái tốt sẽ trở thành phổ biến, sẽ lấn
át được cái xấu, cái xấu sẽ bị đẩy lùi nhường chỗ cho cái tốt nảy nở và phát triển, cả
xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, văn minh. Muốn cho cái tốt ngày càng nảy nở, phát triển
thì những gương NTVT phải được tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng nhân dân
để mọi người cùng học tập, noi theo. Đây là vai trò và cũng là nhiệm vụ quan trọng
của báo chí nói chung, báo in nói riêng.
Báo chí là phương tiện thông tin tác động đến đông đảo công chúng nhất,
một cách thường xuyên liên tục nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất. Do vậy, mọi hoạt
động của báo chí luôn gắn liền với vấn đề thu phục, tập hợp lực lượng và “tranh thủ
bạn đồng minh chính trị” theo cách nói của V.I.Lê-nin. Khi đề cập đến chức năng
của báo chí, V.I.Lê-nin đã khẳng định: “Báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ
động tập thể, và tổ chức tập thể”, điều này càng phù hợp với thời đại bùng nổ thông
tin hiện nay. Với nội dung thông tin có định hướng đúng đắn, chân thật, có sức

thuyết phục, báo chí có khả năng hình thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã
hội, phù hợp với sự vận động của hiện thực theo những chiều hướng có chủ định.
Với vai trò là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, báo chí xã hội chủ nghĩa có
trách nhiệm xây dựng dư luận xã hội lành mạnh, động viên quần chúng tích cực
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Để thực hiện sứ mệnh của mình, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí là khẳng định
yếu tố tích cực, phát hiện và phản ánh cái mới trong sự nghiệp xây dựng CNXH,
phê phán những tàn dư của chế độ cũ, những quan niệm, lối sống lỗi thời trong nội
bộ nhân dân, phát huy trí tuệ tài năng và tiềm lực của đất nước nhằm đặt ra và giải
quyết những nhiệm vụ chính trị to lớn. Việc thông tin một cách liên tục, phong phú,

16


×