Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Giáo dục y đức cho sinh viên ngành y (qua khảo sát trường Cao đẳng y tế Phú Thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.12 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LIỄU THỊ HỒNG TUYẾN

GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN NGÀNH Y
(QUA KHẢO SÁT TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ PHÚ THỌ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC

Hà Nội-2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LIỄU THỊ HỒNG TUYẾN

GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN NGÀNH Y
(QUA KHẢO SÁT TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ PHÚ THỌ)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành triết học
Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Công Nhất

Hà Nội-2014



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 7
5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu ................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn............................................................................ 7
7. Ý nghĩa của luận văn ............................................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 8
Chương 1. Y ĐỨC VÀ GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN
NGÀNH Y ..................................................................................................... 9
1.1. Quan niệm chung về y đức và giáo dục y đức ...................................... 9
1.1.1. Y đức và những chuẩn mực của y đức ........................................... 9
1.1.2. Giáo dục y đức ............................................................................. 15
1.2. Giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở nước ta ................................ 21
1.2.1. Sự cần thiết phải tăng cường giáo dục y đức cho sinh viên
ngành y ở nước ta .................................................................................. 21
1.2.2. Những đặc điểm và một số nội dung cơ bản trong giáo dục y
đức cho sinh viên ngành y ở nước ta. ..................................................... 23
1.2.3. Những nhân tố tác động đến quá trình giáo dục y đức cho sinh
viên ngành y .......................................................................................... 32
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 37
Chương 2. GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN NGÀNH Y (QUA
KHẢO SÁT TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ PHÚ THỌ) -THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ........................................................................... 39
2.1. Thực trạng giáo dục y đức cho sinh viên tại trường Cao đẳng Y tế
Phú Thọ .................................................................................................... 39



2.1.1. Khái quát về trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ ................................ 39
2.1.2. Thực trạng giáo dục y đức cho sinh viên ngành y(qua khảo sát
trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ) - Đánh giá những ưu điểm, hạn chế. .... 45
2.2. Một số vấn đề đặt ra ........................................................................... 60
2.3. Một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục y
đức cho sinh viên ngành y ở nước ta(qua khảo sát trường Cao đẳng Y
tế Phú Thọ). .............................................................................................. 66
2.3.1.Giải pháp về nâng cao nhận thức vai trò, vị trí môn học................ 67
2.3.2.Giải pháp về xây dựng nội dung và thiết kế các hình thức giảng
dạy môn học .......................................................................................... 69
2.3.3.Giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy. ................................... 73
2.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ...................................... 76
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 79
KẾT LUẬN ................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 82


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã có những tác động tích cực trong sự
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nó cũng nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực.
Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp văn
hóa, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức, những giá trị đạo đức đích thực.
Trong đó có lĩnh vực y đức – đạo đức của người thầy thuốc.
Đạo đức với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã
hội và có vai trò to lớn đối với đời sống con người. Một trong những đặc trưng
cơ bản nhất của hình thái ý thức đạo đức là sự quan tâm một cách tự nguyện, tự
giác đến hạnh phúc của người khác, của xã hội chứ không phải cho mình và vì

mình. Trong các chức năng của đạo đức, chức năng giáo dục và điều chỉnh hành
vi có vị trí hết sức quan trọng, vì thông qua đó mà con người tự giác điều chỉnh
hoạt động của mình sao cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, ngành y tế có một vai trò rất quan trọng.
Đội ngũ y, bác sĩ ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, trong số đó có
những người không chỉ giỏi về chuyên môn, mà còn là tấm gương sáng về
đạo đức và lối sống. Họ luôn hăng hái tham gia vào hoạt động của ngành,
cũng như trong cộng đồng xã hội. Tuy vậy, dưới tác động từ mặt trái của nền
kinh tế thị trường dẫn đến suy thoái đạo đức nghề nghiệp của người thầy
thuốc. Biểu hiện của sự suy thoái ấy khá phong phú. Sự suy thoái của một bộ
phận thầy thuốc đã tạo nên nỗi băn khoăn, lo lắng, làm giảm lòng tin của nhân
dân với truyền thống và giá trị nhân đạo của ngành y tế.
Vì nghề y là một nghề đặc biệt, khác với các nghề khác trong xã hội,
người làm nghề y liên quan một cách sâu sắc đến đời sống con người và mỗi
lỗi lầm nhỏ nhất của người làm nghề y cũng có thể gây tác hại lớn cho con
người…Do tính đặc thù như vậy, cho nên xã hội luôn có những yêu cầu,

1


những đòi hỏi người làm nghề y bên cạnh trình độ chuyên môn phải vững
vàng, còn phải có lương tâm trong sáng, có như vậy thì mục đích, tôn chỉ cao
quý của nghề y mới không bị phai mờ.
Tuy nhiên, thực tiễn ngành y tế nước ta hiện nay còn nhiều bất cập.
Trong đó có bất cập về y đức người thầy thuốc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
sự bất cập về y đức trong đó có nguyên nhân do công tác giảng dạy, giáo dục y
đức trong các nhà trường chưa được chú trọng và quan tâm đúng mực. Chính
điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành y đức người thầy thuốc.
Từ chỗ thiếu nhận thức, dẫn đến hành vi không chuẩn mực, làm ảnh hưởng tới
hình ảnh người thầy thuốc vốn được mọi người tin yêu và kính trọng.

Trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ, là một trường thuộc khu vực trung du
miền núi phía bắc. Nơi đây là còn là miền đất lưu giữ nhiều giá trị văn hoá dân
tộc đặc sắc của tổ tiên, mang tính giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn;
lễ hội Đền Hùng, hội phết (Hiền Quang), hội làng Đào Xá, Sơn Vi…; nhiều làn
điệu dân ca, xoan ghẹo, nhiều trò diễn dân gian, nhiều truyền thuyết - huyền
thoại về dựng nước, nhiều truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười giàu tính nhân
văn, mang nét đặc sắc của vùng đất Tổ, đặc trưng văn hoá Lạc Hồng.
Cùng với việc bảo tồn và lưu giữ các giá trị truyền thống đó, trường Cao
đẳng Y tế Phú Thọ ngoài công tác đào tạo chuyên môn, luôn tạo điều kiện để
sinh viên có cơ hội tìm hiểu và tham gia giao lưu văn hóa, các hoạt động ngoại
khóa tìm hiểu về cội nguồn. Nhà trường đã có nhiều đóng góp cho xã hội
những đội ngũ y sỹ, điều dưỡng phục vụ cho sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe nhân dân. Hiện nay, nhà trường đang có những thay đổi đáng kể về cơ sở
vật chất kĩ thuật, về nguồn nhân lực để phục vụ cho công tác đào tạo. Là một
trường y, nhà trường ngoài đào tạo cho sinh viên không chỉ giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ mà còn phải có y đức. Song công tác giáo dục y đức cho sinh viên
còn những hạn chế nhất định như: Nội dung giảng dạy còn đơn điệu, hình thức
giảng dạy chưa phong phú, phương pháp giảng dạy còn chậm đổi mới…vv

2


Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả nhận thấy việc giáo dục y đức cho
sinh viên ngành y hiện nay trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết,
cần phải có các giải pháp khắc phục sự yếu kém trong công tác giáo dục y đức
cho sinh viên, đáp ứng lòng tin yêu và kính trọng của mọi người đối với
người thầy thuốc.Vì vậy, tác giả chọn đề tài: Giáo dục y đức cho sinh viên
ngành y(Qua khảo sát trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ) làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào công tác giáo dục
y đức cho sinh viên nhà trường nói riêng và sinh viên ngành y nói chung.

2. Tình hình nghiên cứu
Y đức – đạo đức của người thầy thuốc, không phải là vấn đề mới mẻ, từ
xa xưa đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác
nhau. Qua các giai đoạn của lich sử, các triều đại, y đức được đề cập tới bằng
những điều luật áp dụng cho nghề y, qua lời thề, qua các tuyên ngôn về y tế
của tổ chức y tế thế giới. Đến nay vấn đề này đã được nhiều nước đưa vào
nghĩa vụ luật thầy thuốc.
Lịch sử y học phương Tây vẫn luôn luôn nhắc đến lời thề
Hyppocrate(thế kỷ thứ IV trước công nguyên) như một bài học y đức đầu tiên
cho người thầy thuốc mới ra trường. Lời thề ấy cho đến nay vẫn được sử dụng
rộng rãi trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta, từ xưa đến nay đã không ít người thầy thuốc tiêu biểu cho
lòng nhân đạo, tính bất vụ danh lợi của nghề y: Hải Thượng Lãn Ông(17201719), vị danh sư của nước ta vào thế kỷ XVIII mà tài năng và đức độ được
phong hàng “y thánh” đã để lại tấm gương sáng về đạo đức, y đức của mình,
hay Nguyễn Đình Chiểu có “Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp”.
Ngay khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên
nói chung và cán bộ ngành y tế nói riêng, Người đã để lại nhiều di huấn quý
báu về y đức. Trong thư gửi trường Quân Y năm 1946, Hội nghị Quân Y năm

3


1948, Người thường nhấn mạnh đến tình thương, đức hi sinh, lòng tận tâm
phục vụ, tinh thần đoàn kết để tiến bộ, cũng như ý thức kỷ luật tinh thần trách
nhiệm của cán bộ nhân viên ngành y tế.
Hiện nay, trong hầu hết các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đối với công tác y tế, vấn đề y đức đều được đề cập đến. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VII “Những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe bảo vệ nhân dân”(ngày

14/1/1993). Ngày 06/11/1996 ngành y tế đã có quyết định của Bộ trưởng Bộ y
tế Đỗ Nguyên Phương về Thực hiện 12 điều y đức cùng nhiều văn bản pháp
quy khác có liên quan đến y đức.
Ngoài ra, đã có một số đề tài, công trình bàn về giáo dục y đức ở nhiều
khía cạnh khác nhau. Có thể phân các công trình nghiên cứu chủ yếu thành ba
nhóm sau đây:
* Các công trình là sách:
- Cuốn “Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay”(Nxb Y học, Hà Nội,1996),Tác giả Đỗ Nguyên Phương nói về vấn đề y
đức, y đạo và đòi hỏi cấp bách phải nâng cao y đức của người thầy thuốc
trong giai đoạn hiện nay.
- Cuốn “Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển Việt Nam” (Nxb
Y học, Hà Nội, 1998). Tác giả Đỗ Nguyên Phương đã dành một phần nội
dung cuốn sách để làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về y tế và đạo đức người
thầy thuốc Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả còn bàn nhiều về tấm gương đạo
đức của giáo sư Đặng Văn Ngữ, giáo sư Hoàng Đình Cầu và truyền thống đạo
đức của nhiều thầy thuốc tiêu biểu khác.
- Cuốn “ Y đức và đức sinh học – nguồn gốc và sự phát triển”.(Nxb Y
học, Hà Nội, 1999). Tác giả Ngô Gia Hy đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
trong công tác và qua các quy chế, văn bản pháp quy về y đức.

4


* Các luận án tiến sỹ
- Luận án “Tư tưởng triết học về con người qua các tác phẩm y học của
Hải Thượng Lãn Ông” (Phạm Công Nhất, Luận án Tiến sỹ triết học, Học viện
Chính trị quốc gia, Hồ Chí Minh, 2001), tác giả đã đánh giá một cách có hệ
thống các giá trị trong tư tưởng triết học về con người của Hải Thượng Lãn
Ông. Bên cạnh đó tác giả chỉ ra ý nghĩa của các giá trị tư tưởng đó đối với quá

trình đổi mới và phát triển ngành y tế hiện nay ở nước ta.
- Luận án “Phát huy vai trò của tri thức ngành y tế Việt Nam trong
công cuộc đổi mới” (Nguyễn Thị Hòa Bình, Luận án Tiến sỹ chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia, Hồ Chí Minh, 2006)
tác giả làm rõ đặc điểm, vai trò và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ cán
bộ y tế. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của tri thức
ngành y tế Việt Nam trong công cuộc đổi mới
* Các luận văn
- Luận văn “Vấn đề giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở thành phố
Hà Nội” (Hoàng Kim Oanh, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2007) tác giả đã làm rõ về y đức, vai trò, sự cần thiết
giáo dục y đức, thực trạng giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở thành phố
Hà Nội. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục y
đức cho sinh viên ở thành phố Hà Nội.
- Luận văn “Xây dựng lý tưởng đạo đức ngành y cho sinh viên đại học
y Hà Nội hiện nay” (Trần Thị Mai Hương, Luận văn thạc sỹ triết học, Trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, 2013) tác giả đã làm rõ
tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của việc xây dựng lý tưởng đạo đức ngành
y cho sinh viên. Từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng lý tưởng
đạo đức ngành y cho sinh viên Đại học y Hà Nội.

5


* Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
Trong những năm gần đây, trên các sách báo, tạp chí, nhiều nhà khoa
hoc, nhà giáo, nhà hoạt động xã hội nghiên cứu về hiện tượng suy thoái,
xuống cấp y đức: “Y đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh và ý nghĩa của nó đối
với đội ngũ thầy thuốc hiện nay”. Phạm Công Nhất, (tạp chí Nghiên cứu lí
luận số 2/ ), “Nâng cao y đức, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh”, Lâm Văn Đồng, (tạp chí lí luận chính trị số 6/2009), “Mẫu thuẫn giữa
mặt trái của cơ chế thị trường với bản chất nhân đạo của ngành y tế nước ta
hiện nay”, Phạm Công Nhất (Tạp chí giáo dục lý luận số 2/1999). “Nhận xét
của sinh viên một số trường đại học y về thực trạng dạy học và các biểu hiện
vi phạm y đức”, (Lê Thu Hòa, Phạm Thị Minh Đức, Lê Thi Tài và cộng sự,
Tạp chí y học Việt Nam, số 1/2009).
Nhìn chung, bàn về y đức có nhiều công trình, bài viết đề cập dưới
nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về thực
trạng giáo dục y đức cho sinh viên ngành y(qua khảo sát trường Cao đẳng Y
tế Phú Thọ). Vì vậy, để làm rõ hơn thực trạng giáo dục y đức cho sinh viên
ngành y nói chung và sinh viên trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ nói riêng, là
việc trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Trên cơ sở tiếp thu, kế
thừa những công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ cố gắng triển khai đề tài
đáp ứng nhu cầu thực tiễn đang đặt ra tại nhà trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lí luận về y đức, nội dung giáo dục
y đức cho sinh viên ngành y và đánh giá thực trạng giáo dục y đức cho sinh
viên trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường quá trình giáo dục y đức cho sinh viên ngành y(qua khảo sát
trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ).

6


* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Trình bày khái quát một số vấn đề lí luận về y đức, nội dung giáo dục
y đức cho sinh viên ngành y.
+ Làm rõ thực trạng giáo dục y đức cho sinh viên ngành y(qua khảo sát

trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ) và những vấn đề đặt ra.
+ Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường giáo dục y đức cho sinh viên
ngành y(qua khảo sát trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và
thực tiễn liên quan đến công tác giáo dục y đức cho sinh viên ngành y(qua
khảo sát trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ).
+ Phạm vi: Từ thực tiễn khảo sát trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ, thời
gian từ năm 2009 đến nay.
5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lí luận
+ Luận văn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và y đức. Ngoài
ra, luận văn có tham khảo, kế thừa có chọn lọc những kết quả của các công
trình có liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
+ Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
đặc biệt là các phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp, khái quát hóa,
khảo sát…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
y đức cho sinh viên ngành y(qua khảo sát trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ)

7


7. Ý nghĩa của luận văn
+ Luận văn góp phần phong phú sâu sắc về y đức, giáo dục y đức cho
sinh viên ngành y.
+ Luận văn góp phần tăng cường công tác giáo dục y đức cho sinh viên

ngành y(qua khảo sát trường Cao đẳng Y tế Phú Thọ).
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.

8


Chương 1
Y ĐỨC VÀ GIÁO DỤC Y ĐỨC CHO SINH VIÊN NGÀNH Y
1.1. Quan niệm chung về y đức và giáo dục y đức
1.1.1. Y đức và những chuẩn mực của y đức
* Các quan niệm về y đức trong lịch sử
Quan niệm về y đức trong y học phương Tây
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng đạo đức
nói riêng, y đức người thầy thuốc luôn được đề cập và quan tâm. Tuy có sự
khác xa nhau về khu vực địa lý, nhưng trong quan niệm về y đức đều có
những điểm tương đồng, là thầy thuốc phải luôn hết lòng vì người bệnh, luôn
tận tâm với nghề, thậm chí có những lời thề nghề nghiệp như đại danh y
Hyppocrat….
Ở Ấn Độ cổ đại, từ thế kỷ thứ V-III T.C.N trong tập thơ dân gian “Ana
Vêda’’ đã đề cập đến tiêu chuẩn của người làm nghề y tế. Đó là những người:
“Phải hết lòng chăm lo chạy chữa cho bệnh nhân, và cả đến lúc phải hy sinh
cuộc đời mình cũng không có quyền làm cho bệnh nhân đau đớn, không bao
giờ nên có trong đầu ý nghĩ làm phật lòng vợ kẻ khác, cũng như chà đạp lên
của cải của họ…Dù có tài cao học rộng, người thầy thuốc cũng không nên
khoe khoang những điều hiểu biết của mình’’.[9, tr.85].
Ở Hy Lạp cổ đại, danh y Hyppocrat đã để lại cho chúng ta “Lời thề’’
bất tử. Lời thề ấy chứa đựng yếu tố nhân đạo, nó là sự đòi hỏi, phải giữ gìn
mình, là bổn phận thái độ ứng xử sao cho có lương tâm, có trách nhiệm của

con người với đồng loại, với đồng nghiệp và với bệnh nhân.
Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Ésculape thần Y học,
trước thần Hygic và Panacu và trước sự chứng giám của tất cả nữ thiên thần là
tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây:

9


Tôi sẽ coi các thầy học của tôi ngang hàng với các bậc thân sinh ra tôi,
khi cần tôi sẽ đáp ứng nhu cầu của các vị đó. Tôi sẽ coi con của thầy như anh
em ruột thịt của tôi và nếu họ muốn học nghề y thì tôi sẽ dậy cho họ không
lấy tiền công mà cũng không dấu nghề. Tôi sẽ truyền đạt cho họ những
nguyên lý, những bài học truyền miệng và tất cả vốn hiểu biết của tôi cho con
tôi, các con của thầy tôi và cho tất cả môn đệ cùng gắn bó bởi một lời thề và
lời cam kết đúng với y luật mà không truyền dạy cho ai khác.
Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh, tùy theo khă năng và
sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công.
Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả họ yêu cầu và cũng
không tự mình gợi ý cho họ, cũng như vậy, tôi cũng không trao cho bất cứ
người nào thuốc sẩy thai.
Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết.
Tôi sẽ không thực hiện những phẫu thuật mổ bang quang mà dành công
việc đó cho những người chuyên.
Dù bất cứ giá nào tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi
hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại, nhất là tránh cám dỗ phụ nữ và thiếu niên tự
do hay nô lệ.
Dù có nhìn hoặc nghe thấy gì trong xã hội, trong và ngoài lúc hành
nghề của tôi. Tôi sẽ xin im lặng trước những điều không bao giờ để lộ ra và
coi sự kín đáo trong trường hợp đó là một nghĩa vụ.
Nếu tôi làm tròn lời thề này và không có gì vi phạm tôi sẽ hưởng một

cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của
con người. Nếu tôi vi phạm lời thề này hay tôi tự phản bội thì tôi sẽ chịu một
số phận khổ sở ngược lại.
Như vậy ngay từ buổi bình minh của lịch sử y học phương tây
Hyppocrat đã đưa ra những quan điểm quan trọng, cốt lõi cho y đức của
người thầy thuốc như chữa bệnh cho người nghèo, tận tâm, tận lực, hết lòng
vì người bệnh.

10


Quan niệm về y đức trong lịch sử y học phương Đông
Ở phương Đông, y đức có nguồn gốc từ quan niệm đạo đức của người
thầy thuốc phải rộng như biển cả, và tự mình phải minh. Phật giáo và thuyết
nhân- quả luân hồi khuyên người thầy thuốc giỏi phải có đức độ, vị tha như
lời khuyên của Phật “y đức là niết bàn”.
Theo Lão học và Đạo học: Bản chất của y khoa là cứu người, cái đức
của người thầy thuốc là cứu người mà không thấy rằng mình cứu người,
không nói rằng mình cứu người
Với lòng nhân ái cao cả “thương người như thể thương thân” nhân dân
ta rất quý trọng nghề y và tôn vinh những người thầy thuốc hết mình vì người
bệnh mà các bậc danh y như Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV), Hải Thượng Lãn Ông
(1720 - 1791) đều hết sức chú trọng xây dựng và truyền đạt y đức tới người
thầy thuốc.
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác là một trong những tấm gương
sáng về y đức, y đạo, y thuật của y học cổ truyền Việt Nam. Trong suốt cuộc
đời rèn luyện và phục vụ y học, ông luôn tự nhắc nhở mình phải: “Tiến đức,
tu nghiệp”. Tiến đức là mỗi ngày phải rèn luyện cho toàn thiện, toàn mỹ đạo
đức của người hành nghề y. Tu nghiệp là hàng ngày phải chăm chỉ học tập
cho y thuật ngày càng giỏi. Đối với Hải Thượng Lãn Ông, đạo làm thuốc

không chỉ bó hẹp trong phạm vi chuyên môn nghề nghiệp, mà còn bao hàm cả
đạo đức nghề nghiệp. Y thuật phải gắn liền với y đức. Thấm nhuần chủ nghĩa
nhân đạo trong nghề y, Hải Thượng Lãn Ông cho rằng, một người thầy thuốc
chân chính không những phải có kiến thức vững vàng về chuyên môn, mà còn
phải xác định cho mình những quy chuẩn đạo đức đúng đắn, đó là ý nghĩa
đích thực của đạo làm thuốc và cũng là bí quyết để xây dựng và phát triển
nghề y. Ông viết: “Suy nghĩ thật sâu xa tôi hiểu rằng thầy thuốc là bảo vệ sinh
mạng cho con người, sống chết một tay mình nắm, họa phúc một tay mình
giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm

11


hồn không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái
nghề cao quý đó chăng ” [44, tr.159]
Trong Y huấn cách ngôn, ông viết: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật,
chuyên bảo vệ sinh mạng cho con người, lo cái lo của người, vui cái vui của
người, chỉ lấy việc cứu sống mọi người làm nhiệm vụ của mình, không nên
cầu lợi, kể công” [44, tr.153]
Từ những quan niệm đó ông đã đưa ra các chuẩn mực của người thầy
thuốc cần phải có: Nhân, minh, trí, đức, thành, lượng, khiêm, cần.
Như vậy, có thể thấy rằng Hải Thượng Lãn Ông là một trong những
danh y nổi tiếng trong lịch sử y học dân tộc ta, ông đã nêu ra những chuẩn
mực sâu sắc về đạo nghề nghiệp. Đó chính là đạo đức nghề nghiệp-y đức có
giá trị cho muôn đời sau.
Quan niệm về y đức giai đoạn hiện đại
Kế thừa truyền thống y đức của ông cha, tiếp thu y đức nhân loại, trên
cương vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và một nhà văn hóa lớn, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau rồi và rèn luyện y đức. Người đã nhiều
lần gửi thư, trực tiếp gặp, thăm các cơ sở y tế và nói rõ quan điểm của Đảng

và Chính phủ ta về phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc.
Trong thư gửi Hội nghị quân y tháng 8/1948, Bác viết: “Người thầy
thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh
thần cho những người ốm yếu”. Người có câu: “Lương y kiêm từ mẫu” nghĩa
là : “Người thầy thuốc phải là người mẹ hiền”[37, tr.395]
Trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc tháng 6/1953, Người đã
chỉ ra những việc cán bộ y tế cần làm: “Về chuyên môn luôn luôn học tập,
nghiên cứu để luôn tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích
hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta;Về chính trị cần trau rồi tư tưởng và
đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: yêu nước, yêu dân, yêu nghề,
đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác’’.[37, tr.88]. Trong thư gửi

12


cán bộ y tế ngày 27/2/1955 một lần nữa Người nhắc nhở: “Người bệnh phó
thác tính mệnh nơi các cô, các chú việc chữa bệnh tật và sức khỏe cho đồng
bào. Đó là nhiệm vụ vẻ vang, vì vậy cán bộ phải thương yêu chăm sóc người
bệnh như anh em ruột thịt mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn,
lương y phải như từ mẫu [37, tr.478]
Như vậy, Hồ Chí Minh đã nâng nội dung y đức lên một bước: “Muốn
hồng phải chuyên”, tức là đòi hỏi phải thương yêu bệnh nhân và không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Lời dạy của Người có sức thuyết
phục và sức cảm hóa mạnh là vì Người đã nêu một tấm gương sáng về lòng
thương yêu vô hạn đối với nhân dân, với đức hi sinh cao cả, về lối sống giản
dị, mẫu mực và trong sáng.
Ngày nay, trong bối cảnh mới của đất nước, vấn đề y đức cũng đang
được đặt ra như một vấn đề bức súc. Sự chuyển đổi từ một nền y tế bao cấp
sang một nền y tế trong cơ chế thị trường, những tác động tiêu cực của nó ảnh
hưởng không nhỏ đến vấn đề giữ gìn đạo đức, phẩm chất của người thầy

thuốc. Nhận thức rõ tính bức xúc trên đây, trong thời gian qua ngành y tế
bằng nhiều biện pháp đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng y đức, với
quyết tâm càng ngày càng nâng cao hơn nữa lòng tin của nhân dân đối với
ngành y tế. Bộ y tế đã ban hành 12 điều quy định về y đức. Có thể nói rằng 12
điều quy định này đã được dư luận rộng rãi nhân dân trong cả nước đồng tình
và ủng hộ. Ở trong ngành y tế đã và đang có những đợt sinh hoạt chính trị
rộng rãi để quán triệt, tổ chức thực hiện 12 điều quy định về y đức.
Những nội dung trọng tâm của 12 điều y đức là những quy định về tinh
thần trách nhiệm, thái độ của người thầy thuốc đối với bệnh nhân, thái độ
niềm nở, tận tình, khẩn trương tổ chức khám chữa, tôn trọng bệnh nhân không
phân biệt giàu nghèo. Trong điều trị phải tận tình, chu đáo, luôn luôn có mặt ở
vị trí công tác, theo dõi chặt chẽ, xử lý kịp thời các tình huống, phải thực hiện

13


được điều như cố bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đã nói: Đến, niềm nở tiếp đón,
Ở, tận tình chăm sóc. Đi, ân cần dăn dò.
*Khái niệm đạo đức và y đức
Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hệ thống các chuẩn mực xã hội quy định, điều chỉnh sự
giao tiếp và hành vi xử sự của con người trong quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo
sự hài hòa, thống nhất lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Đạo đức có thể
hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Theo từ điển triết học – Bản dịch tiếng việt có sửa chữa và bổ sung của
nhà xuất bản tiến bộ và nhà xuất bản Sự thật(1986) - Định nghĩa: “Đạo đức là
một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội, thực hiện chức
năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
không trừ một lĩnh vực nào”.[71, tr.156].
Theo giáo trình “Đạo đức học” của tác giả Trần Hậu Kiêm: “Đạo đức là

một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống những quan điểm,
quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại
và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của
xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã
hội”. [27, tr.12].
Theo giáo trình Triết học Mác - Lênin: “Đạo đức là toàn bộ những quan
niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công
bằng….và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân
với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội” [25, tr. 590].
Thông qua một số cách quan niệm tiêu biểu về đạo đức trên, ta có thể
hiểu một cách chung nhất, đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội,
phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con
người. Sự ý thức về lương tâm, danh dự và long tự trọng phản ánh khả năng tự

14


chủ của con người, sức mạnh đặc biệt của đạo đức là nét cơ bản quy định
gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con
người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội.
Đạo đức bao gồm một hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức,
tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng
nhất. Bởi lẽ, do nhu cầu phối hợp trong sinh hoạt hàng ngày, trong sản
xuất….từ đó nảy sinh khát vọng sống có trách nhiệm với nhau, sống vì cộng
đồng, sống được tôn trọng và tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên trong xã
hội mà hình thành nên tình cảm đạo đức. Do vậy, nếu thiếu đi yếu tố tình cảm
đạo đức thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu
nhận bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Y đức là một khái niệm nằm trong phạm trù đạo đức. Y đức là một

nhánh của đạo đức đề cập đến vấn đề đạo đức trong thực hành y học. Y đức là
những quy tắc hay chuẩn mực mà những người hành nghề y dược phải tuân
thủ trong thực hành nghề nghiệp. Y đức bao gồm những quy tắc có tính đặc
thù nghề nghiệp và bao gồm những quy định về luật pháp trong thực hành
nghề nghiệp. Do vậy, phạm trù y đức vừa mang những thuộc tính chung cho
tất cả những người hành nghề y trên thế giới, vừa có những quy định riêng
phụ thuộc luật pháp từng quốc gia.
1.1.2. Giáo dục y đức
* Khái niệm giáo dục, giáo dục y đức
Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dậy và học
theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng
những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại
và phát triển của con người trong xã hội đương đại.

15


Theo từ “Giáo dục” tiếng Anh – “Education” – vốn có gốc từ tiếng La
tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Có thể hiểu: “Giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khẳ năng tiềm ẩn của người được giáo dục”
Giáo dục bao gồm việc dạy và học, và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như
là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền
thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho sự truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế
hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả
năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người.
Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương pháp nghiên cứu mối quan hệ
giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và làm chủ các mặt về
ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử trong xã hội.

Theo Từ điển Tiếng Việt: “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một
cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào
đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu dặt ra” [67, tr.492].
Nhìn chung khái niệm “Giáo dục” có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa
rộng và nghĩa hẹp.
Giáo dục (Theo nghĩa rộng):
Là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ
chức thong qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục với người
được giáo dục giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã
hội của loài người.
Giáo dục (Theo nghĩa hẹp)
Đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá trình hình thành
những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình
cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong
xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực.

16


Chức năng nổi bật của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) chỉ được
thực hiện trên cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến tình cảm và
hành vi.
Giáo dục y đức
Với tính chất là một nghề đặc biệt, liên quan trực tiếp đến tính mạng và
sức khỏe con người, nên đạo đức ngành y luôn được xã hội quan tâm. Y đức
không phải là luật pháp, là nghĩa vụ pháp lý, mà là những phẩm chất tốt đẹp,
cao quý của người hành nghề y, là những quy ước và nguyên tắc được coi là
kim chỉ nam cho việc hành nghề. Các quy ước này cho phép, nghiêm cấm, hay
đề ra cách hành xử cho các tình huống khác nhau. Vì vậy, ngành y không chỉ

cần những thầy thuốc tài năng, mà hơn thế là những tấm gương đạo đức cao cả.
Ngày nay, dưới tác động của kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không
nhỏ tới y đức người thầy thuốc. Bàn về y đức đang là vấn đề được cả xã hội
quan tâm. Vậy vấn đề đặt ra là giáo dục y đức cho sinh viên như thế nào để
ngoài việc học tập về chuyên môn họ cần có ý thức rèn luyện cả về y đức.
Như chúng ta đều biết Y đức được hình thành từ trong nhân cách con
người, nhân cách ấy được hun đúc từ nếp sống gia đình (tế bào của xã hội),
trong cộng đồng sinh sống, từ dưới mái trường phổ thông, đặc biệt trong các
trường y, chú trọng giáo dục y đức cho sinh viên ngành y là điều cấp bách.
Giáo dục cho họ hiểu về bổn phận của mỗi người hành nghề y phải bền bỉ,
kiên trì rèn luyện để tự điều chỉnh thái độ, hành vi đối với người bệnh bằng
lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp cao. Vì y đức không tự có mà phải qua
quá trình rèn luyện, học tập của mỗi người.
Nhận thức được vị trí, vai trò của giáo dục y đức đối với sinh viên ngành
y nói riêng và đạo đức cho thanh niên, học sinh nói chung là một vấn đề thiết
thực, có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Do đó, sự nghiệp
giáo dục y đức cũng cần phải được đầu tư tương xứng về người và vật chất.

17


Như vậy, giáo dục y đức là quá trình giảng dạy, tuyên truyền nâng cao
hình thức những vấn đề về chuẩn mực, hành vi ứng xử của người thầy thuốc
được thực hiện trong các nhà trường y, các cơ sở đào tạo cán bộ y tế hiện nay.
Lịch sử giáo dục y đức
Trên thế giới
Đào tạo đạo đức y học trong chương trình chính khóa sớm cho các sinh
viên y khoa là một phương pháp hiệu quả để trang bị kiến thức cơ bản về đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên. Học đạo đức y học giúp sinh viên nhận thức
đúng đắn về hành vi, thái độ trong thực hành chuyên môn, giao tiếp với người

bệnh và nghiên cứu khoa học y học.
Tuy nhiên, chương trình đạo đức y học khác nhau tại từng trường và
từng quốc gia. Từ năm 1974, đạo đức y học đã bắt đầu được giảng tại Hoa
Kỳ. Đến năm 1990, tất cả 123 trường Đại học Y của Hoa Kỳ đã đưa đạo đức
y học vào chương trình đào tạo chính thức.
Theo sự khuyến cáo của Hội đồng Y học đa khoa Anh, năm 1984 các
trường đào tạo ngành Y của Anh đã bắt đầu đào tạo đạo đức y học cho sinh
viên y.
Những nhà giáo dục y học ở các nước này đã nhận thấy rằng nếu tổ
chức thành một khóa học riêng lẻ, tách biệt về đạo đức y học trong chương
trình đào tạo thì không hoàn toàn thích hợp để đạt được mục đích đào tạo, và
cuối cùng, họ đề nghị kết hợp các loại hình khác nhau: Các học phần về đạo
đức y học lồng ghép trong suốt chương trình đào tạo y khoa; Khóa học riêng
về đạo đức y học và các học phần lồng ghép trong chương trình; Nhiều khóa
học hoặc seminar kết hợp với các vòng lâm sàng.
Điểm chung của các loại hình chương trình này là để phát triển nền
tảng kiến thức và kỹ năng phân tích cho sinh viên trước khi đi bệnh viện và
tiếp tục được phát triển thông qua kinh nghiệm tích lũy khi học lâm sàng.

18


Năm 1989, một nghiên cứu được thực hiện với các sinh viên và giảng
viên tại các trường Đại học Y của London (gồm Nottingham, Southampton,
King’s College). Tại các trường này, các khóa học đạo đức y học không được
giảng thường xuyên, và không phải tất cả sinh viên y khoa năm cuối đều được
học về đạo đức y học. Thời lượng rất khác nhau, từ 1-2 giờ đến 24 giờ.
Tại 91 trường Đại học Y của Hoa Kỳ và Canada năm 2004, chương
trình dạy-học đạo đức y học theo ba hình thức: Khóa học về đạo đức y học
trước khi đi lâm sàng; Khóa học về đạo đức y học trong các năm đi lâm sàng;

Khóa học ngoại khóa. Khóa học bắt buộc cho sinh viên năm 3 luân khoa lâm
sàng là dạy đạo đức y học lồng ghép trong các vòng lâm sàng chính như Nội,
Nhi, Sản, Tâm thần, Ngoại.
Hội các trường y tế công cộng châu Âu (ASPHER) năm 2010 đã điều
tra tại 82 trường y tế công cộng về dạy-học đạo đức y học. Đạo đức y học đã
được đưa vào chương trình chính thức như một một học riêng, hoặc một khóa
học cơ bản về đạo đức y học, hoặc các nội dung lồng ghép trong nhiều môn
học khác.
Tại Australia, dạy-học đạo đức y học là lồng ghép với dạy lâm sàng
theo các mô hình: Dạy đạo đức y học tại bệnh phòng; Dạy đạo đức y học tại
phòng giảng và giao ban; Thảo luận về y đức trong các seminar về lâm sàng;
Câu lạc bộ báo chí về đạo đức y học.
Năm 2010, Tổ chức y tế thế giới đề nghị tổ chức dạy học đạo đức y học
gồm nhiều bộ môn tham gia như Giáo dục y học, Y pháp, Y tế công cộng,
Dược và các bộ môn lâm sàng. Tổng thời lượng là 21 giờ, bao gồm 15 giờ lý
thuyết và 6 giờ thảo luận trên lâm sàng hoặc cộng đồng.
Xu hướng chung của nhiều quốc gia trên thế giới là chương trình đạo
đức y học theo nhiều hình thức kết hợp: Khóa học riêng cho đạo đức y học
trong các năm đầu y khoa; Các khóa học đạo đức y học kết hợp với các môn
học lâm sàng; Các khóa học ngoại khóa. Hình thức tổ chức kết hợp này phù

19


hợp với khuyến cáo của các tổ chức y học quốc tế và cần có sự tham gia của
nhiều giảng viên từ nhiều môn học khác nhau.
Tại Việt Nam
Thời kỳ trước 1945, Trường Y Đông Dương (tiền thân của trường Đại
học Y Hà Nội ngày nay) không có môn Đạo đức y học, nhưng nhà trường đã
có những hoạt động hướng đến đạo đức nghề nghiệp như môn “Quy chế hành

nghề” (dạy cách hành xử cho phù hợp pháp luật, quy chế chuyên môn và đạo
đức thầy thuốc); tất cả bác sĩ khi ra trường cần đọc lời thề tốt nghiệp [30].
Trong những năm tiếp theo, tại nhiều trường Đại học Y của Việt Nam vẫn chưa
có môn học riêng cho đạo đức y học. Những bài giảng về đạo đức nghề nghiệp
được dạy cho sinh viên thường được lồng ghép vào một số môn học. Đến năm
2001,“Chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa” đã có môn “Tâm lý và y đức”
[1]. Thời lượng dành cho Y đức (Đạo đức y học) tại các trường từ 10-15 giờ,
do đó môn học này thường được giảng cùng với một số môn khác như Tâm lý
y học, Tổ chức và quản lý y tế, Giáo dục sức khỏe… và chưa hình thành môn
học riêng cũng như chưa lồng ghép giảng dạy vào lâm sàng [18]. Học phần Y
đức thường được các trường Đại học Y phân bổ với thời lượng tối đa là 1 học
trình, nên học phần này chưa thể tính điểm thi riêng như một môn học độc lập,
mà vẫn thi chung và tính điểm chung cùng với học phần Tâm lý y học.
Nhận thức được sự cấp bách về đào tạo đạo đức y học tại các trường Đại
học Y, năm 2002, trường Đại học Y Hà Nội đã cử giảng viên sang nghiên cứu tài
liệu và học tập cùng các chuyên gia giảng đạo đức y học của trường Đại học YĐại học Sydney, Australia. Từ năm 2004, Trường Đại học Y Hà Nội là trường
đầu tiên dạy-học đạo đức y học cho sinh viên y khoa theo “Nguyên lý học”.
Như vậy, chúng ta thấy các trường đào tạo về ngành y đều chú trọng đến
công tác giáo dục y đức cho sinh viên. Tuy nội dung và hình thức đào tạo có
khác nhau, song dù ở Thế giới hay Việt Nam vấn đề y đức luôn được đề cao đối
với người thầy thuốc. Nhưng có một thực tế là ở Việt Nam công tác giáo dục y

20


đức còn nhiều bất cập, hạn chế và các cơ sở đào tạo về ngành y cũng như các
trường y đang cố gắng để có một quy định thống nhất về đào tạo y đức cho sinh
viên nhằm nâng cao không chỉ y thuật mà còn cả y đức cho đội ngũ thầy thuốc.
1.2. Giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở nước ta
1.2.1. Sự cần thiết phải tăng cường giáo dục y đức cho sinh viên

ngành y ở nước ta
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường dựa trên sự phân công lao
động xã hội có sự phân chia về lợi ích giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Yêu
cầu khách quan của sự phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là quá trình toàn cầu
hóa đời sống kinh tế hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế thị trường là một tất
yếu khách quan. Từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, thực tiễn
cho thấy sức sản xuất được giải phóng, năng suất lao động ngày một tăng, tạo
tiền đề vật chất nâng cao đời sống của nhân dân. Kích thích tiềm năng sáng
tạo của con người, hình thành nên các cá nhân độc lập, phát triển tự chủ cá
nhân, con người năng động hơn, luôn vươn lên để tự khẳng định mình.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong những năm qua, chúng ta
cũng đang phải đối mặt với một thực tế, đó là sự xuống cấp về mặt đạo đức
trong đời sống xã hội. Trong đó, có đạo đức người thầy thuốc, nếu như trong
thời kỳ bao cấp người thầy thuốc chữa bệnh cứu người với cái tâm trong sáng,
không chạy theo lợi ích vật chất có chăng cũng chỉ là nhận từ sự cảm ơn của
bệnh nhân đồng quà tấm bánh cảm ơn của người nhà bệnh nhân, không hề
một chút tính toán vụ lợi.
Hiện nay, dưới tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường mọi
người đều lo toan kiếm sống, làm sao để kiếm được nhiều tiền hơn. Vì vậy,
những người thầy thuốc cũng bị cuốn theo vòng quay đó. Song, nhiều thầy
thuốc vì chạy theo lợi ích vật chất đã chà đạp lên những thang giá trị đạo đức
nghề y như gợi ý bệnh nhân để nhận phong bì, thái độ gắt gỏng với bệnh
nhân, hay một số cán bộ y tế làm những việc trái lương tâm, đạo đức nghề

21


×