Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Ngoại giao văn hóa trong việc gia tăng sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á mười năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.71 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

LÂM MẪN (LIN MIN)

NGOẠI GIAO VĂN HÓA TRONG VIÊÔC GIA TĂNG SỨC MẠNH
MỀM CỦA TRUNG QUỐC TẠI ĐÔNG NAM Á MƯỜI NĂM ĐẦU
THẾ KỶ XXI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUAN HÊÔ QUỐC TẾ

HÀ NỘI, 2015

4


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

LÂM MẪN (LIN MIN)

NGOẠI GIAO VĂN HÓA TRONG VIÊÔC GIA TĂNG SỨC MẠNH
MỀM CỦA TRUNG QUỐC TẠI ĐÔNG NAM Á MƯỜI NĂM ĐẦU
THẾ KỶ XXI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÀNH: Quan hê Ô quốc tê
Mã số: 60310206
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


TS. Lê Văn Mỹ, Viê Ôn Hàn Lâm Khoa Học Xã hô Ôi Viê Ôt Nam

HÀ NỘI, 2015

5


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vấn đề................................................................6
3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................................7
5. Cấu trúc Luâ ân văn.................................................................................................16
Chương 1:QUAN ĐIỂM CỦA TRUNG QUỐC VỀ VẤN ĐỀ GIA TĂNG SỨC
MẠNH MỀM THÔNG QUA SỰ HẤP DẪN CỦA VĂN HÓA..............................17
1.1. Lý thuết về sức mạnh mềm của phương Tây.........................................................17
1.2. Khái quát khái niê âm về ngoại giao công chúng và ngoại giao văn hóa.................18
1.3.....Mô ât số quan điểm và nhâ ân thức về ngoại giao văn hóa của các nước trên thế giới
..................................................................................................................................19
1.4.Quan điểm của lãnh đạo nhà nước Trung Quốc về tăng cường sức mạnh mềm văn
hóa.................................................................................................................................22
1.4.1.Sự ảnh hưởng đă âc biê ât của nền văn hóa trong nhâ ân thức về hình ảnh nhà
nước...............................................................................................................................22
1.4.2. Văn hóa truyền thống là tâm hồn của nhà nước..................................................24
1.5. Quan điểm và nhâ ân thức về sức mạnh mềm văn hóa của các học giả Trung
Quốc..............................................................................................................................25
1.6. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong ngoại giao văn hóa Trung Quốc............27
1.7. Ngoại giao văn hóa Trung Quốc trên thế giới những năm gần đây.......................29
Chương 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỰC HIÊÔN NGOẠI GIAO VĂN HÓA

CỦA TRUNG QUỐC TẠI MÔÔT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á........................35
2.1. Những phương thức thực hiê ân ngoại giao văn hóa để gia tăng sức mạnh mềm tại
mô ât số quốc gia Đông Nam Á.......................................................................................35
2.1.1. Thành lâ âp Học viê ân Khổng Tử và thúc đẩy giáo dục Khổng Tử tại Đông Nam
Á................................................................................................................................35
2.1.2.

Những

phương

tiê ân

khác................................................................41
6

truyền

thông


2.2.

Cô âng

đồng

người

Hoa


tại

Đông

Nam

Á.................................................................55
2.3. Tuần lễ văn hóa và Năm văn hóa của Trung Quốc tại Đông Nam Á.....................57
2.4. Các du học sinh Trung Quốc tại Đông Nam Á và các du học sinh Đông Nam Á tại
Trung Quốc................................................................................................................60
2.5.

Trung

Quốc

thực

hiê ân

ngoại

giao

văn

hóa

tại


Viê ât

Nam........................................66
2.6. Sự tác đô âng của viê âc thực hiê ân ngoại giao văn hóa Trung Quốc đối với Đông
Nam
Á................................................................................................................................74
Chương 3: TRIỂN VỌNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA TRUNG QUỐC TẠI
ĐÔNG NAM Á NHỮNG NĂM TỚI........................................................................77
3.1. Những thành công tiêu tiểu và ảnh hưởng tại các nước Đông Nam Á..................77
2.Mô ât số triển vọng về ngoại giao văn hóa của Trung Quốc tại các nước Đông Nam Á
trong những năm tới ( từ nay-2020).............................................................................78
3. Những khó khăn tồn tại cần giải quyết....................................................................82
KẾT LUÂÔN................................................................................................................87
TÀI LIÊÔU THAM KHẢO.........................................................................................89

7


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luâ ân văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, hoàn toàn do tôi thực hiê ân và được thực hiê ân dưới sự hướng dẫn khoa học
của Tiến sĩ Lê Văn Mỹ. Các số liê âu, những kết luâ ân nghiên cứu được trình bày
trong luâ ân văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức
nào. Các đoạn trích dẫn và số liê âu sử dụng trong luâ ân văn đều được dẫn nguồn
và có đô â chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tôi xin chịu trách nhiê âm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Lâm Mẫn (LIN MIN)
Hà Nô âi, ngày 01 tháng 12 năm 2014


1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Văn My đã tâ ân tình hướng dẫn tôi thực
hiê ân công trình nghiên cứu này. Cảm ớn Thầy đã luôn định hướng, ủng hô â và
đô âng viên tôi hoàn thành bản luâ ân văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Hoàng Khắc Nam và các Thầy cô
Khoa Quốc tế học, trường Đại học Khoa học Xã hô âi và Nhân văn-Đại học Quốc
gia Hà Nô âi trong thời gian qua đã tạo cơ hô âi học tâ âp và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của các bạn đồng học.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình đã cho tôi lòng tin.
Học viên
Lâm Mẫn

2


Summary
The term "soft power", since the date of appearance, has become a standard
reference for comparison with the overall strength of the state, the state power
are not only the traditional hard powers such as economy, military composition,
but also including cultural resources. Culture can make other countries feel the
attractiveness of a country, draw people’s attention toward a foreign policy in
order to gain respect. China is now walking firmly on the path of peaceful rise
development, paying special attention to the issue of promoting soft power to
build a healthy and good images. While developing partner relationships with
countries in the region and the world, China has recognized the importance of
cultural soft power. Therefore, in developing and strengthening bilateral

relations with Southeast Asian countries (ASEAN), China has developed
cultural diplomacy so as to lift up the China-ASEAN cooperational relationship
continuously, and to alleviate the concerns of the Southeast Asian countries on
the rise of China and refute arguments "China threat" of the West.
KEY WORDS: Soft power Culture Diplomacy China Southeast Asia

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ý nghĩa thực tiễn
Trong quan hê â quốc tế nói riêng và đời sống nhân loại nói chung, văn hóa giữ vai
trò rất quan trọng. Văn hóa có mă ât ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hô âi và gắn bó
trực tiếp với mỗi người. Ngày nay cuô âc cách mạng khoa học công nghê â diễn ra mạnh
mẽ cùng với hô âi nhâ âp quốc tế trở thành xu thế lớn của thế giới, thông tin liên lạc và sự
hiểu biết lẫn nhau về văn hóa trong quan hê â quốc tế là yếu tố không thể bỏ qua trên
con đường hô âi nhâ âp thành công của mỗi quốc gia. Các nền văn minh, văn hóa các dân
tô âc trên thế giới vốn đã rất phong phú đa dạng, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiê ân
nay càng trở nên đa dạng bô âi phần. Sự cô nâ g hưởng của truyền thống đại chúng phát
triển mạnh mẽ khiến cho giao lưu văn hóa quốc tế ngày nay đâ âm đă âc, sâu rô âng. Với
vai trò vừa là chủ thể vừa là đối tượng của văn hoá, con người có bề dày về kinh
nghiê âm, văn hóa sẽ có khả năng đồng cảm với cô âng đồng khác trong quá trình tương
tác. Sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa sẽ làm cho mỗi nhóm, mỗi cô âng đồng trở nên
tinh tế hơn trong hành vi tìm kiếm lợi ích của mình trong các mối quan hê â với các
nhóm và các cô âng đồng khác. Ngược lại nếu không có sự hiểu biết về văn hóa, hoă âc
hiểu biết hời hợt sẽ dẫn đến những hành vi tìm kiếm lợi ích của các cô nâ g đồng trở nên
khó chấp nhâ ân và có thể bị thất bại.
Ý nghĩa khoa học
Để công tác ngoại giao văn hóa đạt hiê âu quả cao, cần đi sâu nghiên cứu các khía

cạnh của ngoại giao văn hóa, từ đó phát triển lý luâ ân và khoa học cho hoạt đô âng thực
tiễn, xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, có trọng tâm trọng điểm, tránh rơi vào bị
đô âng, đối phố xử lý tình huống. Nghiên cứu ngoại giao văn hóa trong viê âc gia tăng
sức mạnh mềm là góp phần tìm hiểu vai trò “gác cửa” của văn hóa đối ngoại trên mă ât
trâ ân văn hóa tư tưởng.
Với nền văn minh rực rỡ phát triển từ hàng nghìn năm, dân tộc Trung Hoa là một
dân tộc yêu hòa bình, tôn sùng tự do, theo đuổi chính nghĩa, và văn hóa Trung Hoa là
một nền văn hóa hòa bình, chân thành “Hòa vi quý ” vẫn là giai điệu chính trước sau
4


như một của tư tưởng xã hội Trung Quốc.
Sự trỗi dâ ây của Trung Quốc trong thế kỷ XXI được thể hiê ân trong nhiều lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quan hê â quốc tế... Trong đó, Trung Quốc đă âc biê ât
nhấn mạnh đến viê âc phổ biến văn hóa như mô ât phương tiê ân để phổ biến hình ảnh và
sức hấp dẫn của mình đến khắp nơi trên thế giới. Các nước Đông Nam Á như Viê ât
Nam với đă âc điểm vừa là quốc gia láng giềng, vừa là mô ât phần của Đông Nam Á, nơi
Trung Quốc đă âc biê ât quan tâm và mở rô âng ảnh hưởng, có mối quan hê â văn hóa lâu
đời với Trung Quốc, và chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn hóa đó.
Thuật ngữ “sức mạnh mềm” ngay từ khi xuất hiê ân đã trở thành một tiêu chuẩn
tham khảo để so sánh với sức mạnh tổng thể nhà nước, tức là sức mạnh nhà nước
không những là do các sức mạnh cứng truyền thống như kinh tế, quân sự cấu thành,
mà còn bao gồm cả tài nguyên văn hóa.Văn hóa có thể khiến cho các nước khác cảm
nhận được sức hấp dẫn của mô ât quốc gia nào đó, khiến cho người ta hướng về mô ât
chính sách ngoại giao để có thể giành được sự kính trọng. Từ khi Chiến tranh Lạnh kết
thúc đến nay, trong khi phát triển mối quan hệ song phương với các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), Trung Quốc đã nhận thức đến tầm quan trọng của sức mạnh mềm
và đã triển khai ngoại giao sức mạnh mềm với nhiều hình thức đa dạng trên nhiều lĩnh
vực, giúp cho mối quan hệ hợp tác Trung Quốc-ASEAN được nâng lên không ngừng.
Hiện nay, giới học thuật của Trung Quốc nghiên cứu về sức mạnh mềm và mối

quan hệ ASEAN-Trung Quốc đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và đã giành được
một số thành tựu. Có thể nói rằng ngoại giao văn hóa là một trong những bộ phâ ân
quan trọng không thể thiếu được trong chính sách ngoại giao sức mạnh mềm của
Trung Quốc.
Từ khi nước Trung Quốc mới được thành lâ âp và phát triển hơn 60 năm nay, nhất
là khoảng 30 năm gần đây, Trung Quốc đã và vẫn đang đóng vai trò ngày càng quan
trọng hơn trên trường quốc tế với sức mạnh nhà nước được nâng lên không ngừng.
Trong quá trình này, sự nghiệp ngoại giao Trung Quốc đã giành được những thành tựu
đáng nể, khiến mỗi người Trung Quốc đều cảm thấy tự hào, bên cạnh đó Trung Quốc
cũng đang đối mặt với những nhiệm vụ mới và thách thức mới.
5


Thực tế, những ảnh hưởng văn hóa đó là gì? Những ảnh hưởng đó là quá trình tác
đô âng ngẫu nhiên hay nằm trong chính sách phổ biến “sức mạnh mềm” của Trung
Quốc? Những ảnh hưởng đó tác đô âng như thế nào đến nhâ ân thức của người nước
ngoài, và đă âc biê ât là đối với mối quan hê â kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao...giữa
hai nước? Tất cả những câu hỏi đó đều sẽ được làm rõ sau kết quả nghiên cứu và khảo
sát thực tế của đề tài.
Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tài “Ngoại giao văn
hóa trong việc gia tăng sức mạnh mềm của Trung Quốc tại Đông Nam Á mười năm
đầu thế kỳ XXI” làm đề tài nghiên cứu luâ ân văn thạc sỹ ngành Quan hê â quốc tế tại
khoa Quốc tế học, Đại học Khoa học xã hô âi và Nhân văn-Đại học Quốc gia.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vấn đề
Ngoại giao văn hóa là mô ât lĩnh vực rô âng, có tính liên ngành cao, diễn ra trên
nhiều lĩnh vực, nhiều lực lượng cùng tham gia. Trong giới hạn luâ ân văn, trên cơ sơ
nghiên cứu những vấn đề lý luâ ân cơ bản của ngoại giao văn hóa chúng tôi đi sâu tìm
hiểu vai trò, hoạt đô âng thực tiễn về nô âi dung ngoại giao văn hóa trong viê câ gia tăng
sức mạnh mềm Trung Quốc hiê ân nay.
Nghiên cứu quan điểm về vấn đề gia tăng sức mạnh mềm Trung Quốc thông qua

sức hấp dẫn văn hóa. Những sự ảnh hưởng và thể hiê ân của Tư tưởng Nho giáo trong
mă ât ngoại giao nhất là ngoại giao văn hóa; quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung
Quốc cũng như sự nhâ ân thức của các học giả Trung Quốc đối với vấn đề tăng cường
sức mạnh văn hóa. Đồng thời cũng có đề câ âp tới trong những năm gần đây công cuô âc
ngoại giao văn hóa Trung Quốc đã có mô ât số phát triển và thành tựu trên khắp thế
giới.
Tìm hiểu hoạt đô âng giao lưu văn hóa đối ngoại trong ngoại giao văn hóa của
Trung Quốc tại các nước Đông Nam Á, và sẽ có tác đô âng như thế nào để gia tăng sức
mạnh mềm.

6


3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiê ân đề tài, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu là phân tích:
 Phân tích những văn kiê ân chính thức nhà nước.
 Tham khảo và phân tích các công trình nghiên cứu về sức mạnh mềm nói chung và
sức mạnh mềm Trung Quốc nói riêng qua các bài báo của các học giả trong và
ngoài nước đăng trên các tạp chí chuyên ngành và các trang thông tin trực tuyến...
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
“Sức mạnh mềm” trong quan hê â quốc tế nhất là trong thời gian gần đây đã trở
thành mô ât khái niê âm phổ biến được nhiều người quan tâm. Đây không phải là mô ât
học thuyết mới, thâ âm chí những tư tưởng cơ bản của “sức mạnh mềm” đã xuất hiê ân từ
rất lâu trong các hê â tư tưởng kinh tế-chính trị phương Đông cổ đại. Tuy nhiên, do “sức
mạnh mềm” ngày càng được ưu tiên trong chính sách đối ngoại của nhiều nước, đăc
biê ât là Mỹ và Trung Quốc nên vấn đề này đã nhâ nâ được sự quan tâm xứng đáng. Đó
là mô ât khái niê âm trong ngành chính trị học và quan hê â quốc tế, được nhắc đến lần đầu
tiên từ những năm 1970 bởi các học giả như Klaus Knorr, George Modelski. Và khái
niê âm này được giáo sư Joseph Nye nghiên cứu và định nghĩa mô ât cách đầy đủ. Sau
đó, lý thuyết sức mạnh mềm đã được giới học giả các nước phát triển mạnh với mô ât số

đă âc điểm riêng.
Trong đó, theo Giáo sư Joseph S. Nye, “Bound to Lead: The Changing Nature of
American Power” xuất bản năm 1990 (Basic Books, New York) là quyển sách đầu tiên
ông phát triển khái niê âm sức mạnh mềm. Ông cho rằng bản chất của quyền lực đã thay
đổi, thế giới đang ngày càng phụ thuô âc lẫn nhau. Sau đó, ông có đề câ âp lại khái niê âm
sức mạnh mềm khi viết quyển “The Paradox of American Power: Why the World’s
Only Superpower Can’t Go It Alone” năm 2001(Oxford University Press), tại đây ông
cho rằng, các quyền lực lớn bao gồm cả Mỹ đã sử dụng khéo léo cả sức mạnh cứng và
sức mạnh mềm. Mỹ sở hữu mô ât sức mạnh và sức ảnh hưởng hoàn toàn khác phân biê ât
với “sức mạnh cứng”. Sau đó quan điểm này được phát triển sâu rô âng hơn trong mô ât
7


ấn phẩm sách của ông ấy mang tên là “Soft power: The Means to Success in World
Politics” được xuất bản năm 2004 ( Public Affairs, New York). Ông Nye định nghĩa “
sức mạnh mềm” nằm ở khả năng gây ảnh hưởng đến người khác... Đó là khả năng có
thể đạt được thứ mình muốn thông qua tính thuyết phục chứ không phải qua đe dọa
hay mua chuô âc. “sức mạnh mềm” được hình thành từ sự hấp dẫn của văn hóa quốc
gia, lý tưởng chính trị, và chính sách. Khi những chính sách của mô ât đất nước phù hợp
trong mắt của người khác thì “sức mạnh mềm” sẽ được gia tăng. 1
Ở Nhâ tâ Bản, sức mạnh mềm Nhâ tâ Bản từ lâu đã được các nhà lãnh đạo và học giả Nhâ tâ
Bản chú ý nghiên cứu đồng thòi xây dựng chiến lược phát triển. Có mô tâ cả viê nâ nghiên cứu sức
mạnh mềm “The Japan Soft Power Research Institute” mô tâ trong những thành quả tiêu biểu của
nó là quyển sách “Soft Power Superpower: Cultural and National Assets of Japan and the
United States” của hai tác giả Yasushi Watanabe và David McConnell xuất bản năm 2008(M.E
Sharpe, Armonk, New York). Đây là mô tâ khảo sát tường tâ nâ về điểm mạnh và hạn chế của sức
mạnh mềm Hoa Kỳ và Nhâ tâ Bản.2
Đây là đề tài nghiên cứu còn khá mới mẻ đối với Viê ât Nam, nhưng đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu đã có đề câ âp tới. Qua khảo sát các công trình ngiên cứu
của Viê ât Nam, có thể nhâ ân thấy mô ât số thành quả nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực

nghiên cứu của đề tài này được phân loại thành các nhóm chủ đề như sau:
a. Nhóm theo góc nhìn về cô âng đồng người Hoa có thành quả nghiên cứu như sau:
bài Người Hoa ở Malayisia của Nguyễn Thành Văn thuô âc Viê ân Nghiên cứu Đông
Nam Á (tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5(51)- 2003), trong bài này tác giả đã
trình bày quá trình di cư của người Hoa đến Malayxia từ năm 1786 đến năm 1941
và nguyên nhân di cư của người Hoa đến Malayxia trong giai đoạn 1786-1941, rồi
cũng chỉ ra sự tác đô âng của người Hoa đối với kinh tế chính trị xã hô âi và văn hóa
Malayxia. Ngoài bài nói trên ra, còn có Trần Khánh TSKH Viê ân Nghiên cứu Đông
Nam Á có bài in với đề tài là Người Hoa trong quan hê ê Trung Quốc-ASEAN ( tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (58)-2004), trong bài này tác giả trước hết đã khái
Nye. Jr.Joseph S.(2004), “Soft power: The Means to Success in World Politics”, Public Affairs, NY, tr.1011
2
Võ Thị Mai Thuâ ân (2012), “Sức mạnh mềm Nhâ ât Bản những năm đầu thế kỷ 21”, Luâ nâ văn Thạc sĩ
chuyên ngành Quan hê â quốc tế,trường ĐH KHXH-NV ,Hồ Chí Minh.
1

8


quát về cô âng đồng người Hoa Đông Nam Á, sau đó đã đề ra tầm quan trọng và ảnh
hưởng của “nhân tố Hoa” trong bang giao ASEAN-Trung Quốc dưới thời Chiến
tranh lạnh, và phần nô âi dung về người Hoa trong quan hê â ASEAN-Trung Quốc từ
đầu thâ âp tiên 90 của thế kỷ XX đến nay, tác giả cũng khẳng định và nhấn mạnh
rằng người Hoa có mô ât vị trí quan trọng trong bang giao Đông Nam Á-Trung Quốc
nói chung, ASEAN-Trung Quốc nói riêng.
b. Nhóm theo quan điểm về quan hê â Trung Quốc với các nước Đông Nam Á như
Viê ât Nam chẳng hạn thì có những công trình nghiên cứu như:
Tác phẩm công trình nghiên cứu khoa học với tên đề tài Ngoại giao Cô êng hòa
Nhân dân Trung Hoa hai mươi năm đầu thế kỷ XXI do Tiến sĩ Lê Văn Mỹ (Nxb.Từ
Điển Bách Khoa), Viê nâ Nghiên cứu Trung Quốc-Viê ân Khoa học xã hô iâ Viê ât Nam

chủ biên cũng có đề câ âp tới ngoại giao công chúng và sức mạnh mềm, trong cuốn
sách này có trình bày tình hình thế trong khu vực và trên thế giới, cũng như đề ra
quan điểm về quan hê â Trung Quốc với các nước phát triển như Mỹ và Liên minh
châu Âu, đă âc biê ât là trong chương ba có phân tích và đề câ âp tới ngoại giao láng
giềng của Trung Quốc với các nước như Nga, Ấn Đô â và Nhâ ât Bản, cũng như
ASEAN. Trong chương năm thì trọng điểm đề câ âp tới hai nô âi dung như nhâ ân thức
và tầm quan trọng của Ngoại giao văn hóa trong viê âc tăng cường sức mạnh mềm
và sự thúc đẩy của Ngoại giao nhân dân trong viê âc quảng bá và nâng lên hình ảnh
nhà nước Trung Quốc. Trong chương này tác giả thấy rằng chiến lược nâng cao sức
mạnh mềm thông qua ngoại giao văn hóa của Trung Quốc tâ âp trung vào ba hướng
cơ bản:
1) Nhâ ân thức toàn diê ân văn hóa truyền thống Trung Hoa, truyền bá các giá trị văn
hóa phổ biến nhằm tăng cường sức ảnh hưởng quốc tế của văn hóa Trung Hoa;
2) Tích cực thúc đẩy sáng tạo, hiê ân đại hóa văn hóa truyền thống;
3)Tăng cường giao lưu đối ngoại, thúc đẩy văn hóa Trung Hoa hướng ra thế giới.
Mà viê âc Trung Quốc ngày càng sử dụng rô âng rãi hơn sức mạnh mềm văn hóa sẽ
giúp quốc gia này khai thác được những lợi thế cơ bản của nguồn lực văn hóa như
sau: trước hết là lợi thế của mô ât nền văn hóa truyền thống đầy sức hấp dẫn đối với
9


thế giới. Nếu Trung Quốc phát huy tốt lợi thế về bề dày lịch sử, giá trị tinh hoa với
hạt nhân là văn minh Nho giáo, tích cực tiến sâu địa hạt văn hóa đại chúng toàn
cầu, chắc chắn đó sẽ là mô ât loại quyền lực giúp nước này gia tăng sức ảnh hưởng,
sức cạnh tranh, từ đó giành được nhiều quyền chủ đô âng hơn trong các công viê âc
chi phối hành vi quốc tế. Tiếp theo là lợi thế đến từ thời đại bùng nổ thông tin sẽ
đem lại cho Trung Quốc nhiều cơ hô âi để truyền bá sức ảnh hưởng của văn hóa ra
toàn cầu. Nếu Trung Quốc tăng cường truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống
cũng như hiê ân đại thông qua các phương tiê ân thông tin đại chúng như báo chí,
truyền hình, truyền thanh và mạng internet, văn hóa sẽ trở thành thứ vũ khí có tính

lan tỏa và cô âng hưởng cao giúp giải quyết nhiều vấn đề khi nảy sinh tranh chấp
quốc tế. Mă ât khác, trong bối cảnh khủng khoảng kính tế đang ngày càng sâu sắc,
viê âc sử dụng hiê âu quả loại sức mạnh có chi phí truyền bá thấp và ít rủi ro như văn
hóa, không chỉ giúp Trung Quốc giảm thiểu khả năng phải áp dụng các biê nâ pháp
mang tính cưỡng chế có chi phí cao mà còn mở rô âng hơn nữa những lợi ích lớn,
thâ âm chí cả những mục tiêu mà sức mạnh cứng không thể thực hiê ân được. từ đây
tác giả thấy rằng là chiến lược gia tăng sức mạnh mềm văn hóa của Trung Quốc
trong thời điểm này kết hợp song song với “sức mạnh cứng” sẽ giải quyết được ít
nhất hai vấn đề. Thứ nhất là sự gia tăng sức hấp dẫn văn hóa sẽ khiến cho các nước
khác không thấy Trung Quốc là mô ât “sư tử hung dữ”- “mô ât mối đe dọa”. Thứ hai
là thông qua sự lan tỏa ngày càng sâu rô âng của văn hóa Trung Quốc sẽ từng bước
tạo dựng được những tiền đề cơ bản nhằm nâng các chính sách ngoại giao, chính trị
của nước này lên tầm cao mới, mô ât trọng lượng mới trên trường quốc tế.3 Trong
cuốn sách này, tác giả cũng có quan điểm dự báo xu hướng gia tăng sức mạnh mềm
của ngoại giao Trung Quốc và thấy rằng đối với khu vực Đông Nam Á, mô ât khu
vực có tầm chiến lược, Trung Quốc trong 10 năm tới sẽ vẫn tiếp tục điều chỉnh
chính sách đối ngoại nhằm làm dịu bớt mối lo ngại của các nước Đông Nam Á về
sự trỗi dâ ây của họ, tạo ra môi trường hòa bình, ổn định xung quanh để phát triển
kinh tế, đồng thời chấp nhâ ân các biê ân pháp mềm dẻo hơn trong giải quyết các bất
TS. Lê Văn Mỹ (2011), Ngoại giao Cô êng hòa Nhân dân Trung Hoa hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Từ điển Bách khoa, tr.188-190.
3

10


đồng, tranh chấp biên giới, lãnh thổ và lãnh hải; vẫn nỗ lực gây dựng “ấn tượng
Trung Hoa đối với khu vực Đông Nam Á thông qua nhiều hoạt đô âng viê ân trợ, tài
trợ văn hóa vì viê âc cải thiê ân lòng tin, giảm bớt phản ứng của dư luâ ân về tranh
chấp trên biển, dần dần đi đến khẳng định chắc chắn hơn sức mạnh mềm tại khu

vực Đông Nam Á vẫn còn là mục tiêu xa vời và khó đạt được của Trung Quốc. 4
Còn mô ât quyển sách mang tên những vấn đề nổi bâ êt trong quan hê ê Trung QuốcViê êt Nam 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến năm 2020 do Tiến sĩ Nguyên
Đình Liêm của Viê ân Nghiên cứu Trung Quốc- Viê ân Khoa học xã hô âi Viê ât Nam
chủ biên và được xuất bản. Trong cuốn sách này được chia thành ba phần, nô âi
dung phần thứ nhất là nhìn lại quan hê â Trung Quốc- Viê ât Nam sau 10 năm bình
thường hóa từ năm 1991-2000; thì phần thứ hai đề câ âp đến những vấn đề nổi bâ ât
trong quan hê â Trung Quôc-Viê ât Nam 10 năm đều thế kỷ XXI từ những góc đô â như
quan hê â chính trị, kinh tế và do lịch sử để lại; và phần thứ ba là nêu ra triển vọng
quan hê â Trung Quốc-Viê ât Nam trong những năm 2011-2020, trong phần này ngoài
nêu ra những nhân tố mới tác đô âng đến quan hê â Trung Quốc-Viê ât Nam ra, cũng có
dự báo xu hướng phát triển quan hê â Trung-Viê ât sẽ tiến lên như thế nào trong
những năm 2011-2020.
c. Nhóm theo quan điểm về mă ât văn hóa phát triển của Trung Quốc là bài Những đểm
sáng văn hóa Trung Quốc năm 2009 và triển vọng 2010 của Thạc sĩ Chử Bích Thu
thuô âc Viê ân Nghiên cứu Trung Quốc được đăng bài trên tạp chí Nghiên cứu Trung
Quốc số 4(104)- 2010, mà cái quan điểm của bài này xuất phát từ lĩnh vực phát
triển văn hóa, tâ âp trong trình bày những trọng điểm phát triển văn hóa của Trung
Quốc trong năm 2009, bên cảnh đó cũng có đưa ra mô ât số đánh giá về những mă ât
hạn chế, cũng như phương hướng phát triển của ngành văn hóa Trung Quốc trong
năm 2010.
Thạc sĩ Chử Bích Thu của Viê ân Nghiên cứu Trung Quốc theo góc nhìn lịch sử văn
hóa cũng tương đương có bài nô âi dung đề câ âp tới sức mạnh mềm văn hóa, bài in
được phát biểu trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 1 năm 2009 với tền đề tài là
TS. Lê Văn Mỹ (2011), Ngoại giao Cô êng hòa Nhân dân Trung Hoa hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Từ điển Bách khoa, tr.291.
4

11



Vấn đề Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Trung Quốc trong tiến trình hô âi
nhâ âp quốc tế.
d. Nhóm theo quan điểm về sức mạnh mềm và chính sách ngoại giao đối ngoại có bài
nghiên cứu như :
TS. Lê Văn Mỹ có bài được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 3(61)-2005
Bước đầu tìm hiểu về “Ngoại giao láng giềng” của Trung Quốc từ sau chiến tranh
Lạnh.
Thạc sĩ Phạm Hồng Yến thuô âc Viê ân Nghiên cứu Trung Quốc có bài nghiên cứu với
tên đề tài là Ngoại giao văn hóa Trung Quốc và vai trò của nó trong quá trình hô êi
nhâ êp quốc tế và đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quôc số8(96)-2009;
Ngoại giao công chúng Trung Quốc hiê ân trạng và thách thức với số tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc là số 2(114)-2011.
Thạc sĩ Chử Bích Thu cũng có bài đề câ âp tới chuyên đề này với tên đề tài là Nhìn nhâ ên
vai trò của sức mạnh mềm trong sự trỗi dâ êy của Trung Quốc, bài này được phát biểu
trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 7(131)-2012. Ngoài ra, còn có bài nghiên cứu
Thự hiê ên sức mạnh mềm và chiến lược truyền bá đối ngoại của Trung Quốc của Lý Trí
được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số1(89)-2009.
e. Nhóm theo mă ât văn hóa và giáo dục để hướng về mối quan hê â Trung Quốc với các
nước Đông Nam Á thì có những công trình nghiên cứu như thạc sĩ Chử Bích Thu
có bài Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Trung Quốc trong tiến trình
hô êi nhâ êp quốc tế được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 1(89)-2009;
Giáo dục trung học sơ sở và trung học phổ thông ở Trung Quốc: thực trạng và
triển vọng moịt vài điểm so sánh với Viêtê Nam của Tiến sĩ Trung tâm Nghiên cứu
Trung Quốc Đỗ Tiến Sâm mà được phát biểu trên Nghiên cứu Trung Quốc số
2(42)-2002 và Vũ Minh Tuấn thuô âc Vụ Hợp tác quốc tế- Bô â Giáo dục và đào tạo
có bài được đăng trên số 2(60)-2005 Nghiên cứu Trung Quốc với đề tài là Giao lưu
và hợp tác giáo dục Viêtê Nam-Trung Quốc trên đà phát triển.
Phía Trung Quốc cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đề câ âp tới sức mạnh mềm
cũng như ngoại giao văn hóa hoă âc ngoại giao công chúng tại Đông Nam Á nói riêng
12



và khắp thế giới nói chung, nhiễu công trình nghiên cứu này với thành quả nghiên cứu
rất rõ nét và khả quan. Chẳng hạn như Bành Tân Lương đã có tác phẩm sách in với đề
tài là Ngoại giao văn hóa và sức mạnh mềm Trung Quốc: Mô êt góc nhìn toàn cầu hóa
(2008) (Nhà xuất bản dạy học và nghiên cứu ngoại ngũ Bắc Kinh), cuốn sách này theo
góc đô â khái niê âm văn hóa, tính dân tô âc và trong bối cảnh toàn cầu hóa nên tâ ân dụng
những thủ đoạn của ngoại giao và sẽ triển khai công viê âc ngoại giao văn hóa như thế
nào để đạt tới mục tiêu của ngoại giao. Bên cảnh đó trong bài này cũng có trình bày lợi
ích văn hóa quốc gia và an ninh văn hóa của Trung Quốc trong lối cảnh toàn cầu hóa,
rồi cũng tỏ ra những suy nghĩ về ngoại giao văn hóa Trung Quốc trong thời kỳ tới và
phân tích những sự kiê ân đă âc biê ât của ngoại giao văn hóa Trung Quốc như xây dựng
Học viê ân Khổng Tử tại khắp nơi thế giới, tổ chức hàng loạt hoạt đô âng nghê â thuâ ât như
Năm văn hóa Trung Quốc tại hải ngoại.
Là mô ât người chuyên gia chuyên sâu về ngoại giao công chúng với nhiều năm dồi dào
kinh nghiê âm thực tiễn công viê âc ngoại giao đối ngoại, ông Triê âu Khởi Chính cũng có
những công trình nghiên cứu rất đáng kể, như Đối thoại xuyên quốc gia-nét trí tuê ê của
Ngoại giao công chúng (2012) (The Wisdom of Public Diplomacy, Nhà xuất bản Tân
Thế giới ). Trong cuốn sách này đã thu tâ âp những nô âi dung về ông đã từng tiến hành
buổi đối thoại với những nhân viên ngoại giao cấp cao của các nước như Mỹ, Anh,
Hàn Quốc, Nhâ tâ Bản và nhân sĩ nghiên cứu chuyên môn trong khu vực Châu Á và
trên khắp thế giới, cũng như có mô ât số bài phát biểu mà đã được thuyết trình trong
những sự kiê ân đă âc biê ât trong mấy năm trở lại đây, có thể nói đó là mô ât cuốn sách
mang tính thực tiễn và tính nghiên cứu rất cao đối với công trình nghiên cứu và thực
hiê ân ngoại giao công chúng của Trung Quốc; còn có những tác phẩm khác như
Dialogue between Nations Speeches by Zbao (2009) (Nhà xuất bản Ngoại văn), sách
này được bằng tiếng Anh in ra, nô âi dung xung quanh về ngoại giao công chúng và
giao lưu văn hóa đối ngoại, đều căn cứ vào những bài phóng sự và thuyết trình của ông
ấy ngay từ năm 1998 bắt đầu; Sự giao lưu xuyên nét văn hóa và ngoại giao công
chúng (2011) (Nhà xuất bản Đại học Nhân dân Trung Quốc), thì tác phẩm này cũng có

nêu ra và phân tích khái niê âm ngoại giao công chúng, trong đó cũng bằng nhiều sự
13


kiê ân để minh bạch và bành chứng sức mạnh mềm văn hóa có tác đô âng như thế nào đối
với sự phát triển của nhà nước.
Về sức mạnh mềm và ngoại giao công chúng của Trung Quốc thì các nước phương
Tây cũng có nhiều công trình nghiên cứu đề câ âp tới, có mô ât số chuyên đề như Học
viê ân Khổng Tử cũng có khá nhiều thành quả nghiên cứu. Tháng 9 năm 2014, tại Trung
tâm nghiên cứu Ngoại giao công chúng của trường Đại học Southern California đã
công bố Báo cáo nghiên cứu về Học viê ân Khổng Tử với tên đề tài “Confucius
Institutes and the Globalization of China’s Soft Power ”5, trong đó bao gồm ba bài báo
cáo nghiên cứu riêng của các học giả cụ thể như: “ China’s Confucius Institutes:
Understanding the Relational Structure and Relational Dynamics of Network
Collaboration” của giáo sư R.S. Zaharna, đó là mô ât bài chuyên nghiên cứu viê âc thực
thi và triển khai Học viê nâ Khổng Tử trên khắp nơi toàn cầu; “Authenticating the
Nation: Confucius Institutes and Soft Power” là bài nghiên cứu của giáo sư Jennifer
Hubbert, xoay quanh viê âc nghiên cứu thực tế về sự quảng bá sức mạnh mềm và Học
viê ân Khổng Tử; còn có mô ât bài khác với tên đề tài là “ The Globalization of Chinese
Soft Power: Confucius Institutes in South Africa” của Học giả Falk Hartig, đó là báo
cáo khảo sát về công viê âc thực thi của Học viê ân Khổng Tử tại Nam Phi.
“The Rise of China’s Public Diplomacy” của Học giả Hà Lan Ingrid d’Hooghe được
phát biểu ở năm 2007, đó là mô ât bài báo cáo chuyên môn phân tích và giới thiê âu
ngoại giao công chúng của Trung Quốc với nô âi dung sâu sắc. Trong bài này trước hết
đưa ra quan điểm và khái niê âm về ngoại giao công chúng dưới hoàn cảnh Trung Quốc;
sau đó nêu ra các yếu tố mà đã ảnh hưởng đến viê âc ngoại giao công chúng Trung
Quốc như cải cách kinh tế chính trị và sự phát triển của chính sách ngoại giao, rồi tác
giả phân tích ưu thế và yếu thế cả hai mă ât trong viê âc ngoại giao công chúng của Trung
Quốc, thấy rằng Trung Quốc với đă âc điểm có văn hóa phong phú và lịch sử lâu đời
chính là ưu thế lớn nhất trong viê âc ngoại giao công chúng. Ngoài ra trong bài này còn

trình bày mục tiếu và hê â thống thực hiê ân viê âc ngoại giao công chúng của Trung
USC Center on Public Diplomacy at the Annenberg School (2014), Confucius Institutes and the
Globalization of China’s Soft Power, Los Angeles.
/>%20Institutes%20v2%20%281%29.pdf
5

14


Quốc, sơ qua giới thiê âu mô ât số dự án chương trình của ngoại giao công chúng kể cả
Học viê ân Khổng Tử, dự án du học và trao đổi sinh viên, truyền thông, xuất bản phẩm,
viê ân trợ quốc tế và hợp tác thương mại, thì trong bài cuối tác giả cũng đưa ra kết luâ ân
về công viê âc ngoại giao công chúng của Trung Quốc tức là tương lai của ngoại giao
công chúng của Trung Quốc còn phải chịu trách nhiê âm nă âng nề mà con đường dẫn tới
thành công thì còn rất xa, vẫn phải trải qua mô ât chă âng đường lâu dài và gă âp nhiều
khó khăn.6
Nhưng trong bài “The Struggle for Soft Power in Asia: Public Diplomacy and
Regional Competition” của Ian Hall và Frank Smith được đăng trên tạp chí Asian

Ingrid d’ Hooghe (2007), The Rise of China’s Public diplomacy, The Hague, Netherlands Institute of
International Relations Clingendael, Clingendael Diplomacy Papers No.12, nguyên văn như “...China’s
leader have long recognized that improving China’s image is a prerequisite for its economic and political
rise and that China therefore needs public diplomacy. China arouses suspicion for various reasons in
various parts of the world. The world worries about China’s economic, political and military rise, its hunger
for raw materials and energy, its violations of human rights and increasingly about the deteriorating
environment. At the same time, China’s soft power is growing. China has become an attractive partner and
a source of inspiration for many. China’s political-economic model-the Beijing Consensus-coupled with
development aid, appeals to developing countries, and China’s economic dynamism and its vibrant culture
are attractive to almost the whole world. After all, everybody loves a winner. It is evident that the Chinese
government is aware of both China’s soft power and it problematic image and uses public diplomacy as a

strategic tool to benefit from the first and address the latter. Chinese leaders have developed comprehensive
and well – thought - out plans for action and have adapted them to new developments when needed. They
have identified realistic public diplomacy goals and various key issues, selected target groups for each goal
and fine-tuned each message to specific audiences. They use a wide variety of instruments to get the
message across, such as the media (radio, newspapers and television), the internet, white papers, cultural
events, official visits, development aid and investment, and cultural and educational institutions. The
government trains officals and the population in how to creat a better image... Ever-more public diplomacy
activities take place outside the area of government control where individuals and civil society groups
meet, exchange information and engage in dialogues. People-to-people diplomacy, international academic
and business cooperation, and cultural events have a growing impact on China’s standing in the world. In
some cases these people-to-people events are initiated and supervised by the government, but in most cases
official involvement is limited to granting permission. There are too many NGOs and there is simply too
much going on to be controlled in detail by government organizations. A growing number of elementary
and middle schools all over the world now offer Chinese-language programmes, thereby raising interest in
China’s culture and history. Chinas’ strategy of establishing Confucius Institutes worldwide on the basis of
partnerships with foreign educational institutes leads to the active involvement of non-official foreign
partners in promoting Chinese culture. For the Chinese diaspora, China’s economic and political rise is a
source of pride and Chinese communities abroad increasingly organize or participate in events that promote
China and Chinese culture. If not yet, then in the near future China’s blogosphere may become an important
contributor to youth culture that is spread via the internet. In spite of public diplomacy successes and an
improving image over the last decade, China also seems trapped between its aim at perfection in image
projection and the strutural lack of openness of its society, as well as its inability to give up control.
Furthermore, the Chinese regime will need to match its words more often to actions. China’s economic
cooperation with corrupt regimes undermines its image as an increasingly responsible member of the
international community and leads to international calls to boycott the 2008 Beijing Olympic Game. And as
long as political dissidents are arrested and detained for their political ideas or liberal newspapers and
magazines are shut down, no public diplomacy will be able to change China’s image as a country where
human rights are violated.
6


15


Security (2013) thì có quan điểm khác nhau về sức mạnh mềm và ngoại giao công
chúng của các nước Châu Á. Bài này chủ yêu nghiên cứu những chính sách và phương
thức của các nước Châu Á kể cả Trung Quốc, Nhâ ât Bản, Ấn Đô â và Malayxia tâ ân
dùng ngoại giao công chúng để gia tăng sức mạnh mềm, và căn cứ hai phương pháp
nghiên cứu định lượng và định tính để đưa ra kết luâ ân và quan điểm, họ cho rằng sự
liên kết giữa quan niê âm của người dân nước ngoài với các chính sách ngoại giao công
chúng được thực thi của mô ât quốc gia đó không cao, tức là những hoạt đô âng của
ngoại giao công chúng của các nước Châu Á không phải là giúp cho sức mạnh mềm
nhà nước có thể gia tăng, nhưng những quốc gia này vẫn hết sức đưa vào viê âc ngoại
giao công chúng chính vì mục tích khác. Bởi các hành vi nỗ lực gia tăng sức mạnh
mềm là vì những mục tiêu nào đó trong mức nhất định, thì coi như đó cũng là hoạt
đô âng mô ât cách đúng đắn. Trong phần cuối tác giả thấy rằng về giành giâ ât sức mạnh
mềm có lẽ sẽ tăng sâu hơn mâu thuẫn chứ không phải giảm nhẹ sự cạnh tranh trong
khu vực này.7
5. Cấu trúc Luâ Ôn văn
Bố cục của luâ ân văn được chia thành ba chương:
Chương 1 đề câ pâ đến quan điểm của Trung Quốc về vấn đề gia tăng sức mạnh
mềm thông qua sự hấp dẫn về văn hóa, khái quát quan điểm về gia tăng sức mạnh
mềm văn hóa của các lãnh đạo nhà nước cũng như giới học thuâ ât Trung Quốc.
Chương 2 phân tích những phương thức hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại của
Trung Quốc tại Đông Nam Á, tại đây thông qua đề ra các phương thức giao lưu đối
ngoại như phim ảnh truyền hình, Liên hoan nghê â thuâ ât, xây dựng Học viê ân Khổng Tử
v.v... để thúc đẩy nền văn hóa Trung Quốc được lan tràn tại khắp nơi Đông Nam Á và
tạo nên mô ât ấn tượng văn hóa Trung Hoa sâu sắc trong lòng mỗi người dân.
Chương 3 triển vọng ngoại giao văn hóa Trung Quốc tại Đông Nam Á những năm
tới, trong bô â phâ ân này không những đề câ âp tới mô ât số vấn đề còn tồn tại trong viê âc
ngoại giao văn hóa mà cần khắc phúc, đồng thời cũng có triển vọng công cuô âc ngoại


7

Ian Hall & Frank Smith (2013), The Struggle for Soft Power in Asia: Public Diplomacy and Regional
Competition, Asian SecurityVolume 9, Issue 1, 2013, pp.1-18

16


giao văn hóa của Trung Quốc từ nay đến năm 2020 đối với Viê ât Nam nói riêng và các
nước Đông Nam Á nói chung.
Chương 1
Quan điểm của Trung Quốc về vấn đề gia tăng sức mạnh mềm thông qua sự hấp
dẫn của văn hóa
1.1.

Lý thuyêt về sức mạnh mềm của phương Tây
Quan điểm về sức mạnh mềm đã được đưa ra rất sớm trong giới học thuâ tâ quốc

tế, khái niê âm “sức mạnh mềm” được lần đầu tiên nhắc đến trong cuốn “Quyền lực và
thịnh vượng: Kinh tế chính trị học trong quyền lực quốc tế” của học giả Klaus Knorr,
giáo sư nghiên cứu kinh tế của Mỹ. Những nghiên cứu đầu tiên về sức mạnh mềm cho
thấy: yêu cầu trước tiên có tính phương pháp trong nghiên cứu sức mạnh mềm của các
cường quốc là phải đă ât sức mạnh mềm trong toàn bô â “sức mạnh tổng hợp quốc gia”.8
Sức mạnh tổng hợp của một đất nước không chỉ bao gồm “sức mạnh cứng” được thể
hiê ân qua các mặt như kinh tế, khoa học, sức mạnh quân sự, mà còn bao gồm cả “sức
mạnh mềm”, được thể hiện qua các yếu tố như văn hóa, tư tưởng giá trị, phương thức
sinh hoạt và hình thái ý thức. Sức mạnh mềm có sức ảnh hưởng lớn lao với cộng đồng
xã hội, và nền văn hóa đang trở nên một công cụ cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc
gia. Rồi khái niê âm “sức mạnh mềm” được Joseph S. Nye, giáo sư đại học Harvard của

Mỹ, định nghĩa và phát triển thành mô ât luâ ân thuyết, mở rô âng và phát triển theo ý
tưởng của Edward Hallett Carr về sức mạnh quan điểm ( power over opion). ông Nye
đã nhâ ân định, ngoài sức mạnh cứng được thể hiê ân qua sức mạnh quân sự, còn có
những nguồn lực và ảnh hưởng khác mà mô ât trong số đó chính là “sức mạnh
mềm”(soft power).9 Sau đó lý luâ ân và khái niê âm về sức mạnh mềm lại được giải thích
rõ hơn bởi ông Nye đi sâu phân tích trong năm 2004. Trong cuốn “Quyền lực mềm:
Phương tiê ân để đạt được thành công trong chính trị quốc tế”, ông Nye cho rằng, sức
mạnh mềm có thể xem là “ Phương tiê ân thứ hai của quyền lực, nghĩa là mô ât quốc gia
TS. Nguyễn Thị Thu Phương (2013), Sự trỗi dậy về
và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb. Từ điển
9
TS. Nguyễn Thị Thu Phương (2013), Sự trỗi dậy về
và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb. Từ điển
8

17

sức mạnh mềm của Trung Quốc
Bách Khoa, Hà Nội, tr.12.
sức mạnh mềm của Trung Quốc
Bách Khoa, Hà Nội, tr.13.


có thể đạt được những điều họ muốn trong chính trị quốc tế là do các nước khác tự
nguyê ân mong muốn làm theo, họ ngưỡng mô â giá trị của quốc gia, muốn học theo tấm
gương đó, khát vọng đạt tới sự phồn vinh và mở cửa như vâ ây.” Và ông ấy còn kết
luâ ân cho rằng, “ Xét từ góc đô â hành vi, sức mạnh mềm là sức hấp dẫn. Xét từ góc đô â
nguồn tài nguyên, sức mạnh mềm là tài nguyên sản sinh ra sức hấp dẫn này.” 10
1.2.


Khái quát khái niê Ôm về ngoại giao công chúng và ngoại giao văn hóa
Ngoại giao công chúng và ngoại giao chính trị cùng tạo nên ngoại giao tổng thể

của mô ât đất nước. Phía được thực hiê ân ngoại giao công chúng sẽ trình bày tình hình
nhà nước theo góc nhìn khác, để nói rõ và giải thích chính sách của đất nước cho công
chúng nước ngoài, đồng thời sẽ tìm hiểu sự phản ứng của phía tiếp nhâ ân trong sự giao
lưu quốc tế. Mục đích của viê âc thực hiê ân ngoại giao công chúng là nâng lên hình ảnh
nhà nước, và cải thiê ân ấn tượng của công chúng nước ngoài đối với bản thân mình, để
ảnh hưởng đến chính sách thực hiê ân của chính phú nước ngoài đối với nước mình.
Chủ thể thực hiê ân ngoại giao công chúng bao gồm chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ (dân gian), cô âng đồng xã hô âi và quần chúng nhân dân. Trong đó, chính phủ là chủ
chốt, các tổ chức phi chính phủ và cô nâ g đồng xã hô iâ là lực lượng quan trọng, thì quần
chúng nhân dân là nền tảng cơ bản. Những phương thức thực hiê ân ngoại giao như
ngoại giao văn hóa, ngoại giao truyền thông, ngoại giao thể dục thể thao, ngoại giao kỹ
thuâ ât số v.v...đều là mô ât trong những phương thức để thực hiê ân ngoại giao công
chúng.
Đă âc trưng của văn hóa giống nước, mềm mại nhưng mạnh mẽ, xuyên thấu vào
lòng người, thay đổi lúc nào không hay. Trong ngoại giao thời cổ đại và câ ân đại, mă âc
dù văn hóa cũng cùng tham gia giao lưu và tác đô âng lẫn nhau, nhưng hầu như được
coi là bối cảnh ngoại giao gây ảnh hưởng đến viê âc lựa chọn mục điêu chính sách, quá
trình quyết sách, phong cách ngoại giao và phương thức ngoại giao của ngoại giao
quốc gia. Đây là sự giải thích sớm nhất của con người về quan hê â văn hóa và ngoại
giao, cũng là hàm nghĩa đầu tiên của “ngoại giao văn hóa”, nghĩa là: văn hóa là bối
TS. Nguyễn Thị Thu Phương (2013), Sự trỗi dậy về sức mạnh mềm của Trung Quốc
và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.14-15.
10

18



cảnh của ngoại giao, bản thân nó không tham dự vào hoạt đô âng ngoại giao. Nhưng bắt
đầu từ thế kỷ XX, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tác dụng và vị trí của giao lưu
văn hóa trong quan hê â quốc tế ngày càng nổi bâ ât. Các nước trên thế giới phổ biến coi
trọng viê âc lợi dụng thủ đoạn văn hóa để thể hiê ân rõ văn hóa nước mình, truyền bá
quan niê âm giá trị của mình, nâng cao và mở rô âng sức ảnh hưởng của quốc gia. Có
học giả Trung Quốc cho rằng, ngoại giao văn hóa là “ tổng hòa của quan hê â văn hóa
đối ngoại mà chính phủ mô ât nước theo đuổi, nói cách khác, là quan hê â văn hóa chính
thức của quốc gia có chủ quyền là chủ thể, thực thi chủ quyền đối ngoại.” 11 Trong bối
cảnh lớn toàn cầu hóa, văn hóa không chỉ là bối cảnh của ngoại giao, cũng không chỉ
là “thủ đoạn” của ngoại giao, mà đã là tôn chỉ của hoạt đô âng ngoại giao, là căn cứ của
quyết sách ngoại giao, là mục tiêu của yêu cầu ngoại giao. Điếu đó đã được chứng
minh trong chiến lược ngoại giao và thực tiễn ngoại giao của nhiều quốc gia trên thế
giới hiê nâ nay. Do vâ yâ , định nghĩa về ngoại giao văn hóa là sự thể hiê nâ hoă câ phản ánh
của đă âc tính văn hóa của mô ât nước trong lý luâ ân ngoại giao và thực tiễn ngoại giao
của nước đó. Nó biểu hiê ân cụ thể thành ba mă ât: xu hướng hê â giá trị quan của chiến
lược ngoại giao nước đó, phong cách và đă âc điểm truyền thống của ngoại giao nước
đó, mô hình chủ yếu của hành vi ngoại giao nước đó. Đó là mô ât hình thức ngoại giao,
hoă âc là mô ât phương diê ân, mô ât lĩnh vực của ngoại giao nói chung.
1.3.

Mô tÔ số quan điểm và nhâ n
Ô thức về ngoại giao văn hóa của các nước trên thê
giới
Khái niệm “Ngoại giao văn hóa” do nhà sử học ngoại giao người Mỹ Ralph Turner từ

những năm 40 của thế kỷ XX đưa ra.Về sau nhà sử học ngoại giao Mỹ Frank Ninkovich đã
trình bày và phát triển một cách hệ thống. Ninkovic cho rằng: “ Nhà chính trị có kiến thức
sâu rộng luôn luôn thừa nhận ngoại giao cần suy tính kỹ quan niệm giá trị văn hóa, vì những
quan niệm giá trị này có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành sức mạnh ngoại giao,
do đó mà càng có ý nghĩa hơn so với tín ngưỡng , hình thái ý thức hay quan niệm trừu

tượng của nó. Ở thế kỷ XX , hầu như tất cả các nhà hoạt đô nâ g chính trị quan trọng của Mỹ
Bành Tân Lương (2008), Ngoại giao văn hóa và sức mạnh mềm Trung Quốc theo
góc nhìn toàn cầu hóa, Nxb Nghiên cứu và giảng học Ngoại ngữ, Bắc Kinh.
11

19


đều cân nhắc coi nhân tố văn hóa là bộ phâ nâ để xử lý công việc ngoại giao của họ; quả thật
văn hóa có tác dụng rõ ràng thường là quyết định trong quyết sách đối ngoại.”12
Nhà nghiên cứu Zhulite Antonius Sarborosi, đại học Georgettown Mỹ cho rằng “ Ngoại
giao văn hóa là sự đầu tư được tiến hành mang tính lâu dài nhằm thúc đẩy quan hệ tìm hiểu
giữa người dân mỹ với nhân dân các nước khác, làm cho nhân dân các nước khác hiểu rõ
chính sách và ý niê m
â về lợi ích nhà nước của mỹ.”13
Bộ Ngoại giao Mỹ định nghĩa “Ngoại giao văn hóa là bô â phâ nâ cốt lõi nhất trong ngoại
giao công chúng, vì các hoạt động văn hóa được thể hiện rõ nét nhất hình ảnh của một quốc
gia, ngoại giao văn hóa có thể góp phần vào viê câ tăng cường an ninh quốc gia theo chiều
rộng lẫn chiều sâu mô tâ cách bền vững. Ngoại giao văn hóa được coi là con đường hai chiều
để giúp nhân dân nước ngoài hiểu biết nước Mỹ, cũng như giúp nhân dân Mỹ tìm hiểu các
dân tộc khác đang nghĩ gì về mình.14
Nhật Bản có quan điểm “Ngoại giao văn hóa là một trong những nhiệm vụ ưu tiên và
cấp bách trong chiến lược đối ngoại, là biện pháp xây dựng sự tin câ yâ với các đối tác trong
quan hệ chính trị và kinh tế, và là phương thức hấp thu những tinh hoa giá trị văn hóa của
thế giới để cùng tạo ra các dạng thức văn hóa mới trong quá trình truyền bá.”
Theo Tiến sĩ Victoria Solônidis, Tham tán văn hóa Hy Lạp, đại diê nâ của Qũy văn hóa
Hy Lạp tại Anh cho rằng: “Ngoại giao văn hóa sẽ là một trong những nền tảng chủ chốt của
quan hệ quốc tế thế kỷ XXI”. Ông cũng cho rằng hiện nay hầu hết các nước đều nhất trí
quan điểm về trao đổi văn hóa là khía cạnh thứ ba trong quan hệ giao lưu giữa các quốc gia
ngoài chính trị và kinh tế.

Bộ Ngoại giao Singapo xác định “Ngoại giao văn hóa là hoạt động ngoại giao với mục
tiêu phát triển và hợp tác và trao đổi văn hóa; tăng cường hiểu biết lẫn nhau và quan hệ với
nhân dân các nước; tăng cường ý thức về bản sắc và nguồn gốc dân tộc, thúc đẩy ổn định xã
hội và kinh tế trong khu vực, thông qua việc giao lưu, phim ảnh, kịch múa, âm nhạc và các

Bành Tân Lương (2008), Ngoại giao văn hóa và sức mạnh mềm Trung Quốc theo
góc nhìn toàn cầu hóa, Nxb Nghiên cứu và giảng học Ngoại ngữ, Bắc Kinh.
13
Trường Ngọc Quốc(2005), “ Lợi ích quốc gia và chính sách văn hóa”, Nxb Nhân dân Quảng Đông,
tr.164
14
Bô â trưởng ngoại giao Mỹ, Báo cáo của Ủy ban Tư vấn về ngoại giao văn hóa, nô âi dung cốt lõi của nền
ngoại giao nhân dân tháng 9/2005, tr.4
12

20


tác phẩm văn học và nghệ thuật của Singapo.”15
Thái Lan có quan niệm “Ngoại giao văn hóa là biện pháp ngoại giao nhằm quảng bá
con người và đất nước Thái Lan, gồm cả lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, lễ hội, văn
học nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, thông qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó giới thiệu
ẩm thực được đặt lên hàng đầu”. Người ta thường gọi Thái Lan là bếp ăn của thế giới cũng
bắt nguồn từ nét đặc sắc giới thiệu ẩm thực trong Ngoại giao văn hóa.
Theo Nicholas J.Cull, “Ngoại giao văn hóa là sự nỗ lực của một chủ thể nhằm tác động
tới môi trường quốc tế thông qua việc tận dụng những nguồn lực về văn hóa và những
thành tựu được bên ngoài biết tới để thúc đẩy phổ biến văn hóa ở nước ngoài. Trong lịch sử
ngoại giao văn hóa đã từng hiểu là chính sách của một quốc gia nhằm thúc đẩy xuất khẩu
những đặc trưng văn hóa của mình”.16
Theo Cummings, “Ngoại giao văn hóa là sự giao lưu, trao đổi về tư tưởng, thông tin

nghệ thuật trong các lĩnh vực khác giữa các quốc gia và người dân nhằm tăng cường hiểu
biết lẫn nhau. Ngoại giao văn hóa còn được coi là phương tiê nâ để quảng bá văn hóa và
ngôn ngữ, các giá trị của mình; tuyên truyền giải thích chính sách, hãy kể cho thế giới nghê
câu chuyện của riêng mình”.17 Theo quan điểm này có thể lý giải ngoại giao văn hóa tổng
thể do nhà nước chỉ đạo các hoạt đô nâ g văn hóa, thực hiện ở các khu vực ngoài lãnh thổ để
đảm bảo viê câ hình thành về hình ảnh văn hóa nhà nước và tăng cường truyền bá hình ảnh
nhà nước ở nước ngoài.
Ở Việt Nam, trong Hội thảo khoa học Quốc gia “Ngoại giao văn hóa vì mô tâ bản sắc
Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình , hội nhập và phát triển bền vững” ngày15
đến 16 tháng 10 năm 2008, nhiều ý kiến và quan điểm về ngoại giao văn hóa được đưa ra.
Nhâ nâ xét và tổng kết những ý kiến, quan điểm về ngoại giao văn hóa, phó Thủ tướng kiêm
Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Gia Khiêm đưa ra khái niệm chung nhất về ngoại giao văn
hóa : “ngoại giao văn hóa là một hình thức ngoại giao thông qua công cụ văn hóa để thiết
苏玉,新加坡文化外交之研究,暨南大学 Tô Ngọc (2010), “Nhâ ên xét và nghiên cứu về Ngoại giao
văn hóa của Singapore”, Luâ nâ văn Thạc sĩ chuyên ngành QHQT, trường Đại học Hý Nam, Quảng Đông
Trung Quốc. />16
Nicholas J. Cull(2008), “Publish Diplomacy: Taxonomies and Histories, The Annals of the American
Academy of Political and Social Science”, pp. 31-54
/>17
Milton C. Cummings JR(2003), “Cultural Diplomacy and the United States Government” , Washinhton,
DC: Center for Art and Culture.
15

21


×