Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Sự biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của kinh tế thị trường ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay : Luận văn ThS. Nhân văn khác: 602203

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ ÁNH

Ự I N Đ I Ủ GI Đ NH NGƢỜI D O DƢỚI TÁC
ĐỘNG CỦA KINH T THỊ TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠ

Ĩ TRI T HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

NGUYỄN THỊ ÁNH

Ự I N Đ I Ủ GI Đ NH NGƢỜI D O DƢỚI TÁC
ĐỘNG CỦA KINH T THỊ TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hà Thị Bắc



Hà Nội - 2018


LỜI

M ĐO N

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự
hướng dẫn của TS Hà Thị Bắc. Các số liệu, tư liệu, tài liệu được sử dụng
trong luận án là trung thực, khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Ánh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành là kết quả của hai năm nghiên cứu và học tập tại
Khoa Triết Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – ĐHQG Hà
Nội. Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, các anh chị khóa trước và các bạn trong
lớp. Vì vậy, tôi xin thành cảm ơn các thầy cô và các bạn đã giúp đỡ tôi, đặc
biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hà Thị Bắc - người đã tận tình
hướng dẫn, động viên và giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các cấp ủy đảng và chính
quyền huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là hai xã Quân Chu và Phú
Xuyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu, điều tra xã
hội học để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn vẫn không tránh khỏi

những thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các thầy cô và bạn bè để tiếp tục hoàn thiện luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2018
Học viên

Nguyễn Thị Ánh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................... 5
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................................. 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ....................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn .....................................................10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................11
6. Đóng góp mới của luận văn ......................................................................................12
7. Ý nghĩa của luận văn .................................................................................................12
8. Kết cấu luận văn.........................................................................................................12
hƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ BI N Đ I CỦA GIA
Đ NH NGƢỜI D O DƢỚI TÁ ĐỘNG CỦA KINH T THỊ TRƢỜNG13
1.1. Gia đình và gia đình người Dao ở Việt Nam .......................................................13
1.1.1. Khái quát về gia đình, cấu trúc và chức năng của gia đình ............ 13
1.1.2 Gia đình người Dao ở Việt Nam hiện nay ....................................... 22
1.2. Kinh tế thị trường và sự biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động
của kinh tế thị trường ................................................................................... 26
1.2.1. Kinh tế thị trường và đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay ..................................................................................................... 26
1.2.2. Sự biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của KTTT ...... 32
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................................39

hƣơng 2. THỰC TRẠNG BI N Đ I CỦ GI Đ NH NGƢỜI DAO
DƢỚI TÁ ĐỘNG CỦA KINH T THỊ TRƢỜNG Ở HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN ..............................................................................................40
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội và người Dao ở huyện Đại Từ,
tỉnh Thái Nguyên ......................................................................................... 40
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ....... 40

1


2.1.2. Một số đặc điểm của người Dao ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên .... 42
2.2. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình người Dao dưới
tác động của kinh tế thị trường ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay .........43
2.2.1. Thực trạng biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của kinh
tế thị trường ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay ....................... 43
2.2.2. Một số vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình người Dao dưới tác
động của KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ................................ 72
2.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực và
hạn chế những biến đổi tiêu cực của gia đình người Dao dưới tác động của
kinh tế thị trường ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay .................. 79
2.3.1. Giải quyết tốt những mâu thuẫn, xung đột giữa vợ và chồng, giữa các
thế hệ trong gia đình người Dao dưới tác động của kinh tế thị trường ở huyện
Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay..................................................................... 79
2.3.2. Ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tạo môi trường lành mạnh cho
việc giáo dục con cái trong gia đình người Dao ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên dưới tác động của KTTT ............................................................. 81
2.3.3. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà Nước đối với nền kinh tế thị
trường để nâng cao mức sống cho các gia đình người Dao ở huyện Đại
Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay ................................................................. 84
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................................86

K T LUẬN...................................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................90
PHỤ LỤC

2


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người Dao ................................................. 46
Bảng 2.2: Quyền quyết định hôn nhân của người Dao ........................................................ 48
Bảng 2.3: Quan niệm về cơ sở của hôn nhân của người Dao .............................................. 50
Bảng 2.4: Mối quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình người Dao .................................. 52
Bảng 2.5: Phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình người Dao ....................... 53
Bảng 2.6: Nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm vai trò giáo dục của gia đình người Dao ..... 55
Bảng 2.7: Thời gian cha mẹ dành để giáo dục con cái trong gia đình người Dao ............... 56
Bảng 2.8: Phương pháp giáo dục con trong gia đình người Dao ......................................... 57
Bảng 2.9: Hoạt động tạo ra thu nhập trong gia đình người Dao .......................................... 59
Bảng 2.10: Kỳ vọng về số con của gia đình người Dao ..................................................... 61
Bảng 2.11: Kỳ vọng về giới tính của con cái trong gia đình người Dao ............................. 62
Bảng 2.12: Nội dung giáo dục trong gia đình người Dao .................................................... 64
Bảng 2.13: Mức độ quan tâm đến đời sống tình cảm giữa vợ và chồng trong gia đình
người Dao .............................................................................................................. 67
Bảng 2.14: Cách ứng xử khi không hài hòa đời sống tình dục giữa vợ và chồng ............... 69
Bảng 2.15: Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình của người Dao .................................... 70
Bảng 2.16: Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình của người Dao ........................................................................................................ 71

3



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VI T TẮT

CNH

: Công nghiệp hóa

ĐTH

: Đô thị hóa

HĐH

: Hiện đại hóa

KTTT

: Kinh tế thị trường

NXB

: Nhà xuất bản

SL

: Số lượng

TL

: Tỷ lệ


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình không chỉ là nơi duy trì, bảo tồn nòi giống, mà còn là môi trường
giáo dục, môi trường văn hoá tốt nhất cho sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân. Từ gia đình, rất nhiều anh hùng, hào kiệt xuất hiện, lưu lại tiếng vang
cho muôn đời và tạo nên sự cường thịnh của mỗi quốc gia. Trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, gia đình Việt Nam luôn có vị trí đặc biệt đối với sự tồn vong và
phát triển bền vững của dân tộc. Có thể nói, cùng với sự trường tồn của dân tộc là
sự bền vững của gia đình. Bởi các triều đại có thể thay đổi, các chế độ có thể ra đời,
các hình thái kinh tế - xã hội có thể kế tiếp nhau nhưng không một thiết chế xã hội
nào có thể thay thế được vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội.
Gia đình là nền tảng của xã hội nhưng đồng thời nó cũng chịu sự tác động,
chi phối mạnh mẽ của quá trình biến đổi kinh tế - xã hội. Cùng với những thay đổi
về mọi mặt của đời sống xã hội và sự phát triển của KTTT, gia đình Việt Nam đã
có những biến đổi sâu sắc về cấu trúc và việc thực hiện các chức năng của gia
đình. Sự phát triển của nền KTTT đã tác động đến tư duy, tình cảm, văn hóa ứng
xử giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội. Sự phát triển
của KTTT đã thúc đẩy nhanh chóng sự tăng trưởng về kinh tế, nâng cao thu nhập
và việc hưởng thụ các giá trị văn hóa của các gia đình, là cơ sở cho việc củng cố
và duy trì tính bền vững của gia đình Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội đang thúc đẩy sự tiến bộ của gia
đình hiện nay thì sự tác động của KTTT cũng đang đặt ra gia đình Việt Nam
đứng trước nhiều thách thức, biến động. Tình trạng ly hôn, ly thân, sống

chung không kết hôn, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, hiện tượng trẻ em
sa vào các tệ nạn xã hội, v.v.. ngày càng gia tăng. Những hiện tượng tiêu cực
này đang làm lung lay sự ổn đinh bền vững của gia đình và đẩy nhiều gia đình
đến bên bờ của sự khủng hoảng, tan vỡ.

5


Trong bối cảnh chung đó, gia đình người Dao ở Việt Nam dưới tác động
của KTTT cũng đang có những biến đổi mạnh mẽ cả về đời sống vật chất và đời
sống tinh thần. Những biến đổi này đã ảnh hưởng đến quy mô, cấu trúc và chức
năng của gia đình người Dao ở Việt nam nói chung. Do những hạn chế về nguồn
lực cho nghiên cứu, bao gồm cả nguồn nhân lực, thời gian và nguồn lực tài chính
nên tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về sự biến đổi của gia đình người Dao
ở huyện Đại Từ, Tỉnh Thái Nguyên.
Đại Từ là huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên có điều kiện còn khó khăn nhưng
là địa bàn có nhiều người Dao đang sinh sống. Trong những năm qua, do sự tác
động của KTTT định hướng XHCN, cùng với quá trình ĐTH đang diễn ra đã làm
cho gia đình người Dao có nhiều biến đổi cả tích cực và tiêu cực về cấu trúc, chức
năng của gia đình. Do đó việc nghiên cứu thực trạng biến đổi gia đình người Dao
dưới tác động của KTTT hiện nay là hết sức cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi
đã lựa chọn vấn đề: Sự biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của
KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về gia đình dưới
nhiều góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài, có thể phân loại các
công trình này thành các nhóm cơ bản sau:
Thứ nhất, nhóm vấn đề chung về xây dựng và phát triển gia đình Việt
Nam có một số công trình tiêu biểu như: “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất
nước đổi mới” của GS. Lê Thi, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; “Xã hội

học gia đình”, Mai Huy Bích, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003; “Thực trạng
và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay: Phân tích các tài liệu
nghiên cứu và điều tra về gia đình Việt Nam được tiến hành 15 năm gần đây
(1990-2004)”, Lê Ngọc Văn: Chủ biên, NXB. Uỷ ban Dân số - Gia đình và trẻ
em, Hà Nội, 2004; “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ trong giai đoạn
hiện nay”, Dương Thị Minh, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Trẻ em và

6


quan hệ gia đình”, Port, Maurice; Vũ Thị Chín: Dịch, NXB. Thế giới, Hà Nội,
2004; “Cuộc sống và biến động của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay”, Lê
Thi, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Sự tương đồng và khác biệt trong
quan niệm về hôn nhân gia đình giữa các thế hệ người Viêt Nam hiện nay”, Lê
Thi, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009; “Gia đình học” của Đặng Cảnh
Khanh – Lê Thị Quý, NXB. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009; “Nghiên cứu
gia đình và giới thời kỳ đổi mới”, Nhiều tác giả, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2010;… Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát một cách có hệ thống về
sự biến đổi quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình trong công cuộc đổi mới và
hội nhập quốc tế. Mặc dù gia đình Việt Nam đã có những thay đổi lớn về cấu trúc,
quy mô, về việc thực hiện các chức năng của gia đình nhưng vấn đề hôn nhân và
gia đình đối với người Việt Nam vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhiều khó
khăn phức tạp đã nảy sinh trong hoàn cảnh mới, xu hướng ly hôn đang tăng lên,
lối sống thực dụng, thế lực đồng tiền len lỏi trong nội bộ các gia đình, sự suy thoái
về đạo đức, sự phân biệt đối xử với phụ nữ, với trẻ em, nạn bạo lực gia đình vẫn
đang tồn tại và diễn biến phức tạp trong các gia đình… Những điều đó đã gây
nhức nhối và cản trở sự tiến bộ của các thành viên, phá vỡ hạnh phúc gia đình và
ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ 2, nhóm vấn đề nghiên cứu về quan hệ gia đình và việc thực hiện
các chức năng của gia đình, có một số công trình như: “Mâu thuẫn vợ chồng

trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng”, Vũ Tuấn Huy, NXB. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2003; “Một số vấn đề về bạo lực gia đình hiện nay”, của Lê Thị
Quý, Tạp chí Khoa học và Phụ nữ, số 4 – 1991; “Bất bình đẳng nam nữ nhìn từ
góc độ lịch sử” của Lê Thị Quý, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 32 – 1998; “Phụ
nữ và bình đẳng giới trong đổi mới Việt Nam”, NXB. Phụ nữ, Hà Nội, 1998;
“Bạo lực gia đình - Bất bình đẳng trong quan hệ giới” của Lê Thị Quý, “Bạo lực
giới trong gia đình Việt Nam và vai trò của truyền thông đại chúng trong sự
nghiệp phát triển phụ nữ”, Hoàng Bá Thịnh, NXB. Thế giới, Hà Nội, 2005; “Bạo

7


lực gia đình - một sự sai lệch giá trị” của Lê Thị Quý, NXB. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2007; “Bình đẳng giới ở Việt Nam: Phân tích số liệu điều tra”, Trần Thị Vân
Anh; Nguyễn Hữu Minh (chủ biên), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008; “Bạo
lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam: Thực trạng, diễn tiến và nguyên nhân”,
Nguyễn Hữu Minh; Trần Thị Vân Anh (đồng chủ biên), NXB. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2009, v.v..
Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, ảnh
hưởng và hậu quả của sự bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, nạn
bạo lực gia đình đang diễn biến nghiêm trọng, tác động xấu đến gia đình và xã hội
ở nước ta hiện nay. Do đó, cần phải thực hiện tốt vấn đề bình đẳng giới trong gia
đình, mối quan hệ vợ chồng muốn bền vững và tốt đẹp, ngoài tình yêu, cũng cần
sự bình đẳng, tôn trọng tạo điều kiện phát huy năng lực của nhau. Những mô hình
gia đình trẻ sống độc lập hiện nay đều đã ý thức được sự bình đẳng trong gia đình.
Đó là sự tự phân công, mỗi người lựa chọn cho mình những công việc hợp lý, làm
tốt những công việc đó để cùng chăm lo cho mái ấm gia đình. Tuy nhiên, phần lớn
phụ nữ ngày nay vẫn chịu trách nhiệm chính trong các công việc gia đình. Vì vậy,
thực hiện bình đẳng giới là thực hiện quyền được phát triển, phát huy năng lực
ngoài xã hội của nữ giới và đó là điều hoàn toàn đúng đắn.

Thứ 3, nhóm vấn đề nghiên cứu về sự biến đổi của gia đình có một số
công trình như: Tiến sỹ Nguyễn Minh Hoà với: “Hôn nhân và gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh” Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh năm 1998. Tác giả
nghiên cứu hôn nhân và gia đình ở một thành phố cụ thể là thành phố Hồ Chí
Minh với các vấn đề kết hôn, quy mô, kết cấu gia đình ở địa phương đó. Giáo sư
Lê Thi có một số công trình viết về gia đình, văn hoá gia đình như: “Gia đình Việt
Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”, “Gia đình Việt Nam ngày nay”, Đề tài
KX07-09: “Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam. Tác giả Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu có
công trình nghiên cứu “Gia đình Việt Nam và phụ nữ trong gia đình thời kỳ công

8


nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(2002). Nguyễn Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa
và Nguyễn Thị Thanh (2004), Hôn nhân gia đình các dân tộc H’mông, Dao ở
hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng, Nxb Văn hóa dân tộc; Vũ Tuyết Lan (2007),
Hôn nhân và gia đình của người Dao Quần Chẹt truyền thống và biến đổi
(Nghiên cứu trường hợp xóm Mạ, xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình),
Báo cáo tập sự (Tài liệu lưu trữ tại Thư viện DTH); Vũ Tuyết Lan (2008),
Một số biến đổi trong hôn nhân của người Dao Quần Chẹt ở xóm Mạ, xã Tu
Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, Tạp chí Dân tộc học, Số 2, tr. 26-34; Vũ
Đình Lợi (1999), “Phong tục cưới xin của người Dao ở Quảng Ninh”, Tạp chí
khoa học về phụ nữ, số 3, tr. 32 – 38…
Bên cạnh các công trình nêu trên còn có mộ số luận văn, luận án như: Luận
văn thạc sĩ Triết học Sự tác động của KTTT định hướng XHCN đến đạo đức gia
đình truyền thống ở Việt Nam của Nguyễn Thị Thọ; Luận án tiến sĩ Triết học Vai
trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay của Nghiêm Sĩ
Liêm, 2000; Gia đình trong quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh của
Nguyễn Tiến Vững, 2005, Phan Thị Bình (2012), Tác động của KTTT đến

chức năng gia đình ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học; Đỗ Văn
Kiên (2013), Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương,
huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sỹ Nhân học năm 2013, Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn; Cao Thị Thường (2014), Hôn nhân hỗn hợp
của người Dao Thanh Y ở xã Thương Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử năm 2014, Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, v.v..
Với những công trình này, các tác giả đã đề cập đến một số biến đổi trong
quy mô, kết cấu, chức năng của gia đình và sự tác động của các yếu tố như KTTT,
CNH, HĐH, hội nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến gia đình. Trên cơ
sở đó, các tác giả đã dự báo xu hướng biến đổi của gia đình Việt Nam trong tương
lai gần. Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu đề cập sự biến đổi của gia đình

9


Việt Nam nói chung. Đến nay vẫn còn rất thiếu những công trình nghiên cứu một
cách cơ bản và hệ thống về sự biến đổi của gia đình các dân tộc thiểu số nói riêng
dưới tác động của KTTT trong đó có sự biến đổi của gia đình người Dao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm r một số vấn đề lý luận về sự biến đổi của
gia đình người Dao dưới tác động của KTTT. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng
biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nhằm phát huy những
biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực. của gia đình người Dao dưới
tác động của KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề ý lý luận về “gia đình ”, cấu trúc, chức năng của gia
đình; gia đình người Dao ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của

KTTT ở Huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Trên cơ sở đó phân tích
những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình người Dao Huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực và
hạn chế những biến đổi tiêu cực của gia đình người Dao dưới tác động của KTTT
ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự biến đổi của gia
đình người Dao dưới sự tác động của KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sự biến đổi của gia đình Việt Nam là
một vấn đề lớn, trong khuôn khổ của luận văn tác giả chỉ nghiên cứu sự biến đổi
về cấu trúc và chức năng của gia đình người Dao dưới tác động của KTTT ở
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên những năm gần đây.

10


Về mặt cấu trúc gia đình, luận văn chủ yếu tập trung vào ba mối quan hệ cơ
bản của gia đình là: Quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ
với con cái. Về phương diện chức năng của gia đình, luận văn sẽ tập trung vào
bốn chức năng cơ bản của gia đình: Chức năng tái sản xuất ra con người, chức
năng kinh tế, chức năng giáo dục, chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý,
tình cảm.
5. ơ sở lý luận và phƣơng pháp nghi n cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về gia đình và xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
- Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời có phối hợp sử dụng các

phương pháp nghiên cứu liên ngành của xã hội học, dân tộc học, thống kê học,
điều tra, so sánh, v.v. để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
- Thu thập thông tin thứ cấp : Sử dụng tài liệu, số liệu thứ cấp như báo cáo
tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, tình hình hôn nhân, ly hôn, bạo lực gia đình,
giáo dục con cái, v.v. của huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để nghiên cứu được sự biến đổi của gia
đình người Dao dưới tác động của KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện
nay, đề tài đã chọn 2 nhóm gia đình người Dao Quần Chẹt đã kết hôn với tổng số
120 phiếu để điều tra đánh giá về sự biến đổi gia đình. Nhóm thứ nhất, đề tài điều
tra 60 phiếu là những gia đình người Dao có độ tuổi dưới 33 đã kết hôn, nhóm thứ
hai, đề tài điều tra 60 phiếu là những gia đình người Dao trên 45 tuổi. Việc lựa
chọn độ tuổi có sự chênh lệch 12 tuổi (1 giáp) để đảm bảo sự khác nhau về các
tiêu chí lựa chọn, để làm nổi bật sự biến đổi gia đình dưới tác động của KTTT.
Mẫu được lựa chọn ngẫu nhiên dựa trên danh sách hộ gia đình của phòng Dân
số của xã Quân Chu, Phú Xuyên huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

11


6. Đóng góp mới của luận văn
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn được thể hiện ở một số
nội dung cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về sự biến đổi của gia đình người Dao dưới
tác động của KTTT hiện nay.
- Đánh giá thực trạng biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của
KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay, trên cơ sở đó phân tích
những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình Dao huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực
và hạn chế những biến đổi tiêu cực của gia đình người Dao dưới tác động của

KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm sáng tỏ thêm những
vấn đề lý luận và thực tiễn về sự biến đổi của gia đình thống người Dao ở huyện
Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến gia đình và sự
biến đổi của gia đình ở các cơ sở giáo dục và đào tạo hiện nay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Gia đình và sự biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động
của KTTT – Một số vấn đề lý luận.
Chương 2: Thực trạng biến đổi của gia đình người Dao dưới tác động của
KTTT ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

12


hƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ BI N Đ I CỦ GI Đ NH NGƢỜI
DAO DƢỚI TÁ ĐỘNG CỦA KINH T THỊ TRƢỜNG
1.1. Gia đình và gia đình ngƣời Dao ở Việt Nam
1.1.1. Khái quát về gia đình, cấu trúc và chức năng của gia đình
Gia đình luôn được coi là điểm tựa, là cội nguồn của mỗi người, là cái
nôi của sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người
và xã hội. Gia đình như một nhóm xã hội được cấu trúc theo những chuẩn
mực nhất định, là một tập hợp bao gồm những mối quan hệ giữa các cá nhân
(vợ chồng, bố mẹ, con cái và anh chị em). Xuất phát từ vị trí quan trọng đó
mà vấn đề gia đình đã được nhiều nhà tư tưởng, nhà hoạt động thực tiễn quan
tâm nghiên cứu.

Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta thấy,
các ông đã nhận thức được tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát triển
của xã hội. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”(1845) khi luận chứng về
những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người, Các Mác và Ph.
Ăngghen đã nói rằng “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con
người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [32, tr. 41]. Với quan điểm
này, khái niệm gia đình được nhìn nhận với một số nội dung sau: Thứ nhất,
gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người;
con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng thời
cũng tạo ra gia đình. Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi
nảy nở ra con người. Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu:
quan hệ hôn nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ - con cái).
Tiếp tục công trình nghiên cứu về gia đình, trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884) Ph. Ăng ghen đã chỉ

13


ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế xã hội. Theo quan điểm
duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một
mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo và nhà ở và những
công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản
thân con người, là sự truyền nòi giống.
Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch
sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất
quyết định: “Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình”[31, tr. 44]. Theo Ph. Ăngghen, Thứ nhất, quá
trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố quyết định tiến

trình phát triển của lịch sử. Thứ hai, cùng với trình độ phát triển của lao động,
trình độ phát triển của gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội. Thứ
ba, đến lượt mình trình độ phát triển của gia đình cũng tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của sản xuất, của lao động và của xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, hoặc do thế giới quan của các nhà nghiên
cứu, hoặc một phần vì thực tiễn vận động và biến đổi nhanh chóng và sâu sắc,
thậm chí vượt xa so với dự đoán của các nhà sáng lập CNXH khoa học, nhiều
nhà nghiên cứu về gia đình đã không đánh giá đúng quan điểm khoa học của
Các Mác và Ph. Ănghen. Bởi vậy, để có thể nhận thức đúng đắn hơn, hiện đại
hơn về vấn đề này, cần tính đến các cách tiếp cận khác nhau. Hiện nay, xã hội
phương Tây đang lưu hành các lý thuyết: “Thuyết đạo đức tương đối”; “Hôn
nhân không con”, v.v.. Tiêu biểu cho các lý thuyết đó là quan điểm của Alvin
Toffer trong cuốn “làn sóng thứ ba”.
Trong tác phẩm này, Alvin Toffer đã khái quát rằng, đại gia đình gia
trưởng là hình thức gia đình của nền văn minh nông nghiệp, gia đình một vợ
một chồng với một đến hai con là hình thức gia đình văn minh công nghiệp,

14


còn nền văn minh hậu công nghiệp sẽ có nhiều hình thức gia đình Alvin
Toffer và những người theo thuyết ấy cho rằng, mọi giá trị đã có là chủ quan,
cá nhân có quyền lựa chọn bình đẳng, trong nền văn minh thứ ba sẽ không có
một hình thức gia đình nào giữ yếu tố chủ đạo, mà sẽ là những hình thức gia
đình: Gia đình đa phụ mẫu, gia đình đoàn thể, gia đình nam, hoặc nữ thanh
niên (gia đình đồng tính luyến ái) [1, tr.104 - 110]. Dự báo này cần phải tỉnh
táo để xem xét.
Thực tế cuộc sống cũng cho thấy, gia đình một vợ, một chồng đang có
sự rạn nứt, song những cái gọi là hình thức gia đình mới nêu trên, không
những không phản ánh được sự tiến bộ xã hội đang hiện hữu, mà trái lại, nó

thể hiện sự suy đồi và bế tắc của xã hội tư sản phương Tây trong vấn đề gia
đình. Từ bao đời nay, gia đình vẫn được nhiều người coi là tế bào tự nhiên và
cơ bản của cộng đồng xã hội; là cội nguồn và chốn nương thân của mọi
người; một thiết chế có luật lệ và tôn ti trật tự được mọi thành viên của nó
tuân thủ một cách hoàn toàn tự nguyện.
Gia đình là cái nôi sinh thành của mọi người; gia đình cũng được coi là
“tế bào” của xã hội, cho nên muốn cho xã hội lành mạnh và phát triển bền
vững phải dựa trên những tế bào phát triển lành mạnh. Trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn, có thể hiểu: “Gia đình là một phạm trù dùng để chỉ một tập
hợp người, hình thành trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân,quan hệ huyết
thống, quan hệ tình cảm, quan hệ trách nhiệm. Các thành viên gia đình gắn
bó với nhau bởi trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi về kinh tế, văn hóa, tình cảm
theo những chuẩn mực giá trị nhất định, được dư luận xã hội ủng hộ, được
nhà nước thừa nhận và bảo vệ”.
Từ khái niệm gia đình nêu trên, dưới góc độ tiếp cận của luận văn, vấn
đề gia đình sẽ được xem xét ở cả hai bình diện cấu trúc và chức năng.
* Về mặt cấu trúc, gia đình bao gồm các mối quan hệ cơ bản sau:
- Quan hệ hôn nhân

15


Hôn nhân là sự cam kết chung sống giữa những người trưởng thành
khác giới được phê chuẩn của pháp luật. Những người kết hôn có những
quyền và nghĩa vụ đối với nhau như quyền nghĩa vụ đối với con cái do học
sinh ra. Bất kể những khác biệt về văn hóa, hôn nhân là một thể chế xã hội, nó
đòi hỏi những điều kiện và thủ tục cần thiết như tuổi kết hôn, những nghi thức
về pháp lý, phong tục, tôn giáo,..
Giống như mọi thể chế xã hội khác, hôn nhân chịu sự tác động của các
nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lịch sử xã hội phát triển loài người đã

từng tồn tại nhiều hình thức hôn nhân khác nhau: Hôn nhân theo chế độ mẫu
hệ, phụ hệ, hôn nhân một vợ một chồng, v.v.. Trong xã hội hiện đại, hôn nhân
một vợ một chồng là hôn nhân phổ biến. Tuy nhiên dưới tác động của CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, thể chế hôn nhân này có xu hướng lỏng lẻo và kém
bền vững hơn do hiện tượng ly hôn, ly thân, quan hệ tình dục trước hôn nhân,
sống đơn thân và sinh con ngoài giá thú gia tăng.
- Quan hệ vợ chồng
Quan hệ vợ chồng là quan hệ cơ bản của gia đình. Trước đây, mối quan
hệ vợ chồng thể hiện sự bất bình đẳng rõ rệt. Người vợ luôn phải có nghĩa vụ
chăm sóc chồng con, thu vén công việc trong gia đình, vợ phải có nghĩa vụ
sinh con cho chồng để nối d i tông đường. Người chồng có quyền sai khiến,
yêu cầu vợ thực hiện, chồng chủ yếu lo làm kinh tế để nuôi gia đình và có
quyền quyết định mọi công việc quan trọng trong gia đình, còn công việc nội
trợ do người vợ đảm nhiệm. Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ
cột của gia đình và cũng là người sở hữu tài sản của gia đình. Hiện nay, cùng
với sự phát triển của nền KTTT, CNH, HĐH mô hình người làm chủ khá đa
dạng: ngoài mô hình người đàn ông làm chủ gia đình còn có người phụ nữ
làm chủ gia đình và mô hình cả hai vợ chồng làm chủ gia đình. Trong đó mô
hình cả hai vợ chồng làm chủ gia đình được nhiều người ủng hộ, thể hiện tính

16


dân chủ, bình đẳng giữa vợ và chồng ngày càng được đề cao.
- Quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Quan hệ giữa bố mẹ và con cái là quan hệ tình cảm mật thiết, thiêng
liêng. Ngay từ nhỏ, mối quan hệ này là khuôn khổ cần thiết cho sự phát triển
của đứa trẻ, làm cơ sở cho sự trưởng thành sinh học và nhân cách, trí tuệ của
trẻ sau này. Sự phụ thuộc về vật chất và mật thiết tình cảm tạo ra sự kết dính
mạnh mẽ giữa con cái và cha mẹ. Vì thế đối với trẻ, gia đình là đại diện cho

thế giới thu nhỏ. Sự cảm nhận về thế giới, về xã hội và chính bản thân trẻ thơ
chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thái độ, hành vi, niềm tin, lối sống của bố mẹ.
Thông qua các thông tin có lời và không lời, cha mẹ đã truyền đạt cho con cái
những giá trị, niềm tin, thái độ và cả những tri thức về thế giới xung quanh.
Cha mẹ là nơi mà con cái được sinh ra, bắt đầu một cuộc đời, bắt đầu
sự nhận biết và trong suốt cuộc đời cho đến khi kết thúc; là cội nguồn của tình
cảm, điểm tựa của sự bình yên. Văn hóa con người bắt đầu từ văn hóa gia
đình. Quá trình xã hội hóa của một người từ những năm tháng đầu tiên của
cuộc đời bắt đầu từ gia đình có ảnh hưởng quyết định tới những thái độ và
hành vi khi đã lớn. Một trong những khía cạnh thể hiện bản chất của mối quan
hệ này là chức năng giáo dục của cha mẹ đối với con cái.
Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, một mặt, vẫn giữ được
những giá trị truyền thống, mặt khác cũng có nhiều nét khác biệt. Đó là con
cái luôn luôn yêu quý và kính trọng cha mẹ nhưng con cái cũng có sự độc lập
nhất định, luôn luôn có ý kiến riêng của mình và bố mẹ vừa thương yêu, quan
tâm giúp đỡ con cái vừa tôn trọng sự độc lập của các con.
- Quan hệ giữa ông bà và con cháu
Mặc dù gia đình hạt nhân chiếm ưu thế, nhưng gia đình mở rộng vẫn
chiếm một tỉ lệ đáng kể. Do những hoàn cảnh hết sức khác nhau, người cao
tuổi thường sống chung với con cháu. Và với nhiều người cao tuổi được sống

17


cùng con cháu đó là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn. Việc sống chung cùng con
cháu sẽ làm tăng sự gắn kết giữa các thế hệ trong gia đình, đặc biệt, người cao
tuổi nhận được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần từ phía con cháu. Ngược
lại, nếu họ còn sức khỏe thì họ còn giúp đỡ con cái nhiều công việc hữu ích
góp phần nâng cao thu nhập chung của gia đình, giúp cho con cháu giải quyết
một phần khó khăn. Mối quan hệ trực tiếp và thường xuyên giữa các thế hệ đã

làm cho người cao tuổi tăng thêm sự tự tin và củng cố tình cảm của gia đình.
Theo một số khảo sát, người già có vai trò quan trọng trong đời sống
gia đình. Họ thực sự góp phần tích cực vào việc hỗ trợ con cái trong công việc
gia đình và chăm sóc, dạy bảo các cháu nhỏ, xây dựng nhân cách cho thế hệ
tương lai. Khi bước vào nền KTTT, quan hệ giữa ông bà và con cháu đã có
một sự biến đổi khá toàn diện, nhìn chung mang tính tích cực. Ngày nay, do
nền kinh tế phát triển, đời sống của các gia đình được nâng cao nên có điều
kiện chăm sóc thế hệ già một cách chu đáo cả về vật chất lẫn tinh thần. Đặc
biệt, người cao tuổi còn được con cái chăm sóc về sức khỏe. Bên cạnh đó,
quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu có những xung đột và xích mích. Đó
là biểu hiện xung đột thế hệ, bởi vì, ông bà và con cháu đều có những kinh
nghiệm riêng về thế hệ của mình. Sự khác biệt về kinh nghiệm, về nhu cầu và
sở thích trong cuộc sống dẫn đến xung đột giữa các thế hệ. Trong một số gia
đình, con cháu có biểu hiện ít nghe ông bà khuyên bảo, cư xử chưa thật khéo
léo gây bức xúc đến ông bà, thậm chí cả cha mẹ. Do mải mê kiếm tiền nên
con cháu thiếu sự quan tâm, chăm sóc, thiếu tâm tình cởi mở với ông bà. Một
số gia đình do công việc bận rộn nên đã gửi ông bà vào các trại dưỡng lão làm
cho người già cảm thấy buồn tủi, cô đơn.
* Về chức năng cơ bản của gia đình: Gia đình là một tập hợp người,
được hình thành trên cơ sở hai mối quan hệ cơ bản: hôn nhân và huyết
thống. Gia đình có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà

18


không có một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Cụ thể, gia đình có
các chức năng cơ bản sau:
Chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và
riêng có của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản

xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản
xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội. Hoạt động sinh con đẻ cái
của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính con người, của
xã hội. Đối với gia đình Việt Nam, chức năng này được đặc biệt đề cao bởi
tính quy định của nền văn minh nông nghiệp. Trong quá trình sản xuất nông
nghiệp đòi hỏi phải có nhiều lao động, nhất là lao động của người đàn ông.
Gia đình càng đông con, nhất là đông con trai, thì lực lượng lao động càng lớn
và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất, đến các mối quan hệ trong họ, trong
làng. Bên cạnh đó, khi xét về mặt văn hóa truyền thống, người con trai luôn
được đề cao. Bởi gia đình Việt Nam có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà.
Việc thờ cúng được thực hiện chủ yếu bởi người con trai cả và nhằm vào tổ
tiên trực tiếp mang tộc danh người bố (bên nội). Với quan niệm như vậy,
lôgíc tất yếu của gia đình truyền thống Việt Nam là gia đình nào sinh đẻ ít,
không có con trai là bất hạnh, bất hiếu với ông bà, tổ tiên; gia đình nào đông
con (con đàn, cháu đống) và nhiều con trai là gia đình có phúc đức, có hiếu.
Chức năng kinh tế
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản
của gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản
xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi
lại của mỗi thành viên và của gia đình. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta,
gia đình không chỉ là đơn vị tự chủ trong sản xuất, mà còn là đơn vị dịch vụ,
tiêu thụ, trong đó, các thành viên gia đình có thể đảm đương nhiều vị trí sản

19


xuất và kinh doanh khác nhau, với những phương thức hoạt động và quan hệ
rộng mở, đa dạng và phong phú. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước rất quan tâm
đến kinh tế hộ gia đình và khuyến khích mô hình kinh tế trang trại, coi đó là
đơn vị kinh tế có vị trí quan trọng và tồn tại lâu dài. Với chính sách phát triển

kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại của Nhà nước, nhiều gia đình đã hăng
hái lao động sản xuất, kinh doanh và vươn lên làm giàu chính đáng, theo quan
điểm “dân giàu thì nước mạnh”. Chính nhờ vậy không chỉ đời sống gia đình
được cải thiện mà mỗi thành viên trong gia đình cũng có điều kiện để phát
triển về trí tuệ, thể lực, nhân cách.
Chức năng giáo dục của gia đình
Đây là chức năng rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của
con người. C. Mác đã từng khẳng định rằng, con người là một động vật - xã
hội. Sau khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã
hội, không được hưởng chế độ giáo dục của gia đình, của xã hội, đứa trẻ sẽ
không trở thành một con người. Khoa học đã chứng minh có sức thuyết phục
điều này. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, quá trình chuyển biến đứa trẻ từ
một thực thể sinh học thành một con người, được diễn ra trong môi trường xã
hội, trước hết là nhờ quá trình giáo dục, trong đó đặc biệt là giáo dục gia đình.
Có thể nói, những mầm mống ban đầu của nhân cách, những sở thích, những
suy nghĩ về cuộc sống của mỗi con người đều được hình thành ngay từ trong
gia đình. Giáo dục gia đình tốt sẽ góp phần tạo ra những công dân tốt, làm
cho xã hội tốt đẹp.
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri
thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm
mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng,
song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không
ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Trong

20


gia đình hiện nay, chức năng giáo dục được chia sẻ cùng với nhà trường và xã
hội, tuy nhiên để tạo ra một lớp người phát triển toàn diện, để nâng cao chất
lượng của nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công

cuộc đổi mới đất nước thì chức năng giáo dục gia đình ngày càng được coi
trọng. Việc xây dựng nhân cách con người phải căn cứ vào yêu cầu của xã
hội, vào hệ thống giá trị thay đổi tùy theo mỗi giai đoạn lịch sử. Gia đình tác
động đến sự hình thành tình cảm, tâm lý, hành vi ứng xử văn hóa đến tư
cách, phẩm chất của con người. Thế giới quan, nhân sinh quan của cá nhân
chủ yếu được định hình sau này trong quá trình tiếp xúc với môi trường và
cộng đồng xã hội, song nó cũng chịu sự tác động quan trọng của gia đình,
của các thành viên với nhau.
Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha
mẹ, ông bà đối với con cháu. Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ
hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do
đó, dù giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ
nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền giáo dục xã hội
nói chung.
Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời
sống gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả
mãn các nhu cầu tâm - sinh lý được coi là một chức năng có tính văn hoá - xã
hội của gia đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các
chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế
hệ, những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công
tác... nhiều khi có thể được giải quyết trong một môi trường gia đình hoà
thuận. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm - sinh lý

21


×