Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Phong cách thơ Ý Nhi: Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ TUYÊN

PHONG CÁCH THƠ Ý NHI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ TUYÊN

PHONG CÁCH THƠ Ý NHI
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Lê Văn Lân

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
Phần Mở đầu………………………………………………………………….......1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………….…………..1


2. Lịch sử vấn đề………………………………………………...…….…..…….....1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ………………………………………… ……..9
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….…….……9
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn……………………….……………..9
6. Cấu trúc luận văn………………………………………………………….........10
Chương 1: Phong cách, phong cách thơ và quá trình hình thành phong
cách thơ Ý Nhi……………………………………………………………………11
1.1. Khái niệm phong cách và phong cách thơ ……………………….…………..11
1.1.1 Khái niệm phong cách ……………………………………………………..11
1.1.2. Phong cách thơ …………………………………………………………….15
1.2. Quá trình hình thành phong cách thơ Ý Nhi ………………………………...18
1.2.1 Đôi nét về tác giả……..……………………………………………….… ...18
1.2.2 Hành trình sáng tạo nghệ thuật thơ Ý Nhi…………………………………..20
Chương 2: Phong cách thơ Ý Nhi nhìn từ phương diện nội dung………….....32
2.1. Cảm hứng về đất nước……………………………………………………… 32
2.1.1. Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước…………………………………......33
2.1.2. Những miền quê còn trong ký ức ………………………………………….38
2.2. Cảm hứng đời tư……………………………………………………………..43
2.2.1. Tình cảm với người thân, bạn bè…………………………………………..43
2.2.2. Tình yêu – nỗi khao khát bình yên ………………………………………..51
2.3. Cảm hứng thế sự và hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời ………………….58
2.3.1. Những suy tư về thời cuộc và trăn trở về đạo đức………………………….58
2.3.2. Nỗi khao khát bình yên trong hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc đời………….64
Chương 3: Phong cách thơ Ý Nhi nhìn từ phương diện hình thức thể hiện.....70
3.1. Thể thơ ……………………………………………………………………….70


3.2. Ngôn ngữ thơ…………………………………………………………………74
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường giản dị ………………………………………………75
3.2.2. Ngôn ngữ trí tuệ đậm chất triết luận……………………………………......79

3.3. Các biểu tượng tiêu biểu …………………………………………………......83
3.3.1. Biểu tượng Biển và Cát …………………………………………………… 84
3.3.2. Biểu tượng Mùa Thu ………………………………………………………86
3.3.3. Biểu tượng Vườn…………………………………………………………...89
3.4. Giọng điệu thơ ……………………………………………………………….91
3.4.1. Giọng suy tư, trầm lắng ……………………………………………………92

3.4.2. Giọng điệu điềm tĩnh mà xót xa…………………………………………95
Kết luân………………………………………………………………………..99
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………..102


Phong cách thơ Ý Nhi

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ ca chống Mỹ phát triển mạnh mẽ và có nhiều thành tựu với sự góp
mặt của nhiều thế hệ nhà thơ. Có những nhà thơ thành danh từ trước cách mạng
tháng Tám 1945 và nay họ bổ sung cho mình hướng tìm tòi những nguồn cảm
xúc mới để định hình cho mình một phong cách thơ như Tố Hữu, Huy Cận,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên.... Lớp những nhà thơ trẻ thì mang trong mình lý
tưởng sống và lí tưởng thẩm mĩ được bồi dưỡng và hình thành từ mái trường xã
hội chủ nghĩa nên đã đem đến cho thơ giọng điệu lạ. Cuộc sống chiến trường đã
tôi luyện cho thơ của họ những phẩm chất mới. Tuy mỗi người một hướng đi
khác nhau nhưng đều bám sát vào hiện thực và phản ánh cuộc chiến thần thánh
cùng những bước đi của dân tộc. Một điều rất đặc biệt là ở giai đoạn này, số
lượng nhà thơ nữ cũng nhiều hơn. Trong số những gương mặt thơ nữ nổi trội,
ngay từ những sáng tác đầu tiên, Ý Nhi đã cho thấy một bản lĩnh thơ luôn
hướng tới những chân trời mới của thi ca đương đại. Là nhà thơ xuất hiện
những năm chiến tranh chống Mỹ nhưng Ý Nhi lại chủ yếu khẳng định bút lực

của mình trong thời hậu chiến và thời kỳ Đổi mới. Thơ của bà những năm 80
của thế kỷ trước đã có những chuyển động cách tân lặng lẽ trong thi pháp
nhưng cũng khá quyết liệt để làm nên một giọng điệu mới, trở thành cây bút
xuất sắc của nền thơ Việt Nam đương đại.
1.2. Ý Nhi làm thơ từ rất sớm. Cùng với Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh
Nhàn và Xuân Quỳnh, Ý Nhi là một trong bộ tứ nhà thơ nữ được nhiều độc giả
yêu mến. Trong khi các nhà thơ trẻ bấy giờ thử sức với khá nhiều địa hạt khác
của văn chương thì Ý Nhi có vẻ trung thành với thơ hơn cả. Tập thơ đầu tiên
Trái tim và nỗi nhớ được nhà thơ in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ (năm 1974) và
sau đó, tập thơ thứ hai ra đời in chung với Xuân Quỳnh - Cây trong phố chờ
trăng. Sau 25 năm, Ý Nhi đã có thêm 6 tập in riêng: Đến với dòng sông (năm

Nguyễn Thị Tuyên

1

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

1978), Người đàn bà ngồi đan (năm 1985 - Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam
năm 1986), Ngày thường (1987), Mưa tuyết (1987), Gương mặt (1991) và Vườn
(1998). Cuốn Thơ tuyển (năm 2000) được xuất bản thay cho lời tạm dừng với
thơ. Tuy nhiên, chừng ấy tập thơ đủ để Ý Nhi định hình một phong cách cho
riêng mình với lối làm thơ vừa giản dị lại vừa nghiêm túc như chính con người
bà. Đọc thơ Ý Nhi, chúng ta thực sự hiểu hơn về định nghĩa “Thơ trước hết là
một sự giải tỏa tâm trạng”. Có thể hình dung về thơ Ý Nhi như “một hành trình
truy vấn tinh thần mà trong đó cái tôi nhà thơ, lặng lẽ nhưng quyết liệt và bền
bỉ, không ngừng tự ý thức nhằm tìm kiếm cái “bản lai diện mục” trong tâm

hồn”. Và trong nền thơ hiện đại vốn nặng chất “duy tình”, “duy cảm” nhất là
trong thơ nữ thì sự hòa trộn giữa đầu óc phân tích tỉnh táo trong một tâm hồn
phụ nữ nhạy cảm giàu lòng trắc ẩn đã tạo cho thơ Ý Nhi chất thơ “duy lý” độc
đáo. Chất triết lý ấy nó toát lên từ cái nhìn nội tâm trầm tĩnh, sâu sắc nhưng đầy
khắc khoải của một con người đang trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc
đời mình.
1.3. Thơ Ý Nhi không phải là kiểu thơ có thể đọc một lần nhưng lại có giá trị
thanh lọc sâu sắc. Mỗi bài thơ như tiếng gõ cửa tâm hồn và đem đến cho chúng
ta những phút lắng lòng để nhìn lại chính mình, để trăn trở với những mâu
thuẫn nội tâm và để nhận thức sâu sắc hơn về bản thân, để biết khao khát tìm
đến được với sự bình yên trong tâm hồn mình. Đó chính là những điều tác giả
đã thể hiện trong thơ với quan điểm “thơ là lời nguyện cho nỗi yên hàn”.
1.4. Không phải nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ có những nhà văn lớn có
tài năng thực sự mới tạo được phong cách cho riêng mình. Nói đến phong cách
thơ thì đó là những biểu hiện của tài năng thi ca đích thực bởi thơ cần đến năng
khiếu thẩm mỹ, tài nghệ và cần đến cá tính riêng. Với hướng đi riêng là sớm và
dứt khoát vứt bỏ lối “làm thơ” ngòn ngọt, dễ dãi của một thời, Ý Nhi đã tìm tòi
bút pháp mới và thể hiện thành công lối thơ tự do, giàu tính triết lý, hình tượng,

Nguyễn Thị Tuyên

2

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

trở thành một trong số không nhiều những nhà thơ nữ có vị trí khá ổn định trên
thi đàn và có tầm ảnh hưởng lớn đến lớp những nhà thơ trẻ hiện nay.

Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài Phong cách thơ Ý Nhi với mong
muốn đóng góp thêm ý kiến của mình trong cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn
về thơ Ý Nhi.
2. Lịch sử vấn đề
Là một trong những cây bút nữ nổi bật trưởng thành trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, sau một thời gian khá dài “hờ hững” với thơ ca, Ý Nhi xuất
hiện và gây sự chú ý trên thi đàn với sức sáng tạo đều đặn. Các bài viết nghiên
cứu chủ yếu tập trung từ năm 1985, sau khi tập Người đàn bà ngồi đan được
xuất bản. Tuy nhiên, đa số các bài đánh giá đều còn ở dạng riêng lẻ, chủ yếu
mang tính chất cảm nhận, bình luận tập trung vào một số bài và tập thơ với ý
kiến khá nhất quán khẳng định giọng điệu và bút pháp thơ mới lạ của Ý Nhi:
giản dị mà đậm chất suy nghĩ, chất trí tuệ, giọng điệu thơ trầm lắng, suy tư.
Bài viết của Mã Giang Lân với tựa đề giống với với tập Người đàn bà ngồi
đan viết ngay sau khi tập thơ xuất bản (1985) là những đánh giá đầu tiên về thơ
Ý Nhi. Từ những phân tích và cảm nhận về nội dung cũng như hình thức thể
hiện, tác giả đã đưa ra những nhận định về hướng tìm tòi và phẩm chất mới của
thơ Ý Nhi: “nội tâm được triển khai đến tận cùng, những vấn đề của quá khứ và
“đời thường” được đưa ra xem xét, được nhìn nhận ở những góc độ khác nhau
làm nổi lên sự đa dạng của cảm xúc. Thế nhưng tất cả vẫn xuất phát từ một tấm
lòng lo toan, trách nhiệm”. Tập thơ bộc lộ được bản lĩnh nghệ thuật của Ý Nhi
với những mạnh bạo trong tư duy sáng tạo trong những câu thơ có chiều sâu
khái quát. Ý Nhi đã thuyết phục độc giả bằng tình cảm chân thành khi đem “cái
phong phú của cuộc sống, cái gay gắt của đời thường, cái say sưa tinh tế của
tâm hồn được chắt lọc, dồn nén tạo nên cảm xúc” .

Nguyễn Thị Tuyên

3

Lớp Cao học Văn K53



Phong cách thơ Ý Nhi

Trên báo báo Nhân dân số ra ngày 8/3/1986 viết nhân ngày Quốc tế phụ
nữ, Lê Quang Trang cũng nhận định khái quát: so với các tập thơ trước thì ở
Người đàn bà ngồi đan, Ý Nhi có nhiều táo bạo trong cách thể hiện cảm xúc
với nhiều bài gây ấn tượng, cách khai thác tứ thơ, sử dụng chất liệu uyển
chuyển, phạm vi phản ánh được mở rộng với sự thay đổi linh hoạt của thể thơ
và nhịp thơ. Nguyễn Thị Minh Thái trong Trò chuyện về thơ với Người đàn bà
ngồi đan trên báo Thể thao Văn hóa năm 1998 cũng khẳng định “có lẽ tập thơ
Người đàn bà ngồi đan là tập thơ đỉnh cao nhất trong sự nghiệp thi ca” đánh
dấu giọng điệu thơ riêng và phong cách thơ riêng” với bút pháp “ngoài lạnh mà
trong thì nóng”. Tác giả bài viết cũng đi tới những giải thích về hiện tượng này
là bởi “đằng sau cái lành lạnh khép kín ấy là trái tim ấm nóng, cái tính chín
muộn của người đàn bà làm thơ”.
Chu Văn Sơn có lẽ là người viết về Ý Nhi nhiều hơn cả. Trên báo Văn
nghệ số 36 ngày 5.9.1987 với bài Thơ của tâm hồn xao xác giữa ngày yên, tác
giả thể hiện cái nhìn chi tiết, tinh tế và sâu sắc khi đọc Người đàn bà ngồi đan.
Ông đặt tên cho loại tâm trạng đặc thù của cái tôi mà Ý Nhi sáng tạo ra cho thơ
mình là “nỗi lòng không xác thực”. Trong thơ Ý Nhi, nỗi lòng không xác thực
không chỉ là “đối tượng để phản ánh” mà còn là “phương tiện tương đối thông
dụng để phản ánh đời sống tinh thần của con người trong đời sống hiện tại, mà
trước hết, nó là phương tiện để biểu hiện chính cái tôi nhà thơ với tất cả những
nỗi niềm không xác thực của nó”. Theo đánh giá của tác giả thì “ngoài độ đậm,
độ mạnh của tâm trạng, Người đàn bà ngồi đan còn có độ sâu khá hấp dẫn”. Cái
mà Chu Văn Sơn muốn nói tới ở đây chính là “chất suy tư - chất nghĩ”. Những
suy tưởng, ngẫm nghĩ, suy tư đã được “tâm trạng hóa” và “biểu tượng hóa”
trong từng hình ảnh để cùng hòa nhập một cách hữu cơ với dòng tâm trạng của
nhà thơ. Còn với bài Sự giải tỏa bằng thơ Chu Văn Sơn viết riêng cho tập Ngày

thường (năm 1987), tác giả khẳng định tập thơ đã thêm một lần nữa làm sáng

Nguyễn Thị Tuyên

4

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

danh cho định nghĩa “Thơ trước hết là một sự giải tỏa tâm trạng”. Ngày thường
“như một phòng tranh nhỏ” và Ý Nhi “với tay bút sắc sảo, tự tin ngay trong
từng nét phác” đã “gắng hình dung ra gương mặt tinh thần của các cá nhân
trong cộng đồng chúng ta”. Nhà thơ đã dùng “kỹ thuật ký họa nhanh, gắng chớp
lấy những khoảnh khắc xuất thần trong hình thể nhân vật” để phổ tâm sự, tâm
trạng mình vào những bức chân dung đó. Ngày thường còn có vẻ đẹp hấp dẫn
bởi “tâm rất nồng mà lời khá đạm”. Tuy nhiên, theo ông thì những phân tích
triết luận dù đem đến cho Ngày thường nhiều cái sắc, cái nhọn nhưng chưa đạt
được cái sâu, cái kín ở mức tương xứng”. Năm 1992, sau khi Ý Nhi xuất bản
thêm hai tập Mưa tuyết và Gương mặt, với bài Đến với từng bông tuyết, Chu
Văn Sơn cảm nhận thơ Ý Nhi “thoang thoảng một khí vị thiền”. Ý Nhi đã “đến
với những bông tuyết nhẹ nhàng, tinh trong, buốt giá” và “đến với sự trầm tĩnh,
chất thơ của sự trầm tĩnh”. So sánh hai tập thơ, tác giả chỉ ra đặc trưng riêng
của từng tập: Mưa tuyết “nghiêng về Thiên tính phụ nữ”, Gương mặt “lại
nghiêng về Thiên tính nghệ sĩ” nhưng tựu chung đều là chuyện chân ngã. Với
một hình thức giản dị, Ý Nhi có lẽ đã thành công khi đi trên đường phân giới
mỏng manh và khá mơ hồ giữa “Thơ và phi thơ”. Tuy nhiên, Mưa tuyết tươi
hơn so với Gương mặt nhưng cả hai tập này dường như cần có một sự điều
chỉnh hợp lý hơn bởi cảm giác trơ trụi bắt đầu xâm chiếm người đọc với phong

cách “duy lý ra mặt” của nhà thơ. Đến khi tập Vườn ra mắt độc giả, một số báo
và tạp chí đã nhanh chóng đưa những cảm nhận về tập thơ này với những đánh
giá sâu sắc.
Bài viết nghiên cứu đầy đủ và tổng hợp hơn cả về thơ Ý Nhi của Chu Văn
Sơn phải kể đến Lời nguyện cho nỗi yên hàn với những cảm nhận sâu sắc và
tinh tế của tác giả về cả nội dung và hình thức nghệ thuật thơ. Giống như tựa đề
bài viết, tác giả nhận ra sự dày vò đeo đẳng Ý Nhi suốt chặng đường thơ của bà
là một nỗi “khát bình yên”. Nỗi khát ấy nằm sâu trong tâm thức đã thành kẻ

Nguyễn Thị Tuyên

5

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

kiến tạo toàn bộ cõi thơ Ý Nhi với hai đối cực không gian: Miền bình yên và
Miền khắc nghiệt; còn đối cực thời gian là Quá khứ bình yên- Hiện tại phi bình
yên và Tương lai là cõi bình yên tuyệt đối nhưng ở mãi cuối tầm nhìn. Và một
nhận định chúng tôi cho rằng rất sát thực khi tác giả so sánh với Xuân Quỳnh
trong hành trình thơ và hành trình đi tìm ý nghĩa cuộc đời: “Xuân Quỳnh giàu
bản năng hơn, Ý Nhi nặng căn sách vở hơn. Xuân Quỳnh đi tìm kiếm sự yên
lành trong đời, Ý Nhi đi tìm kiếm sự yên tĩnh trong mình”. Đây là đánh giá có
tính chất gợi ý quan trọng giúp chúng tôi tiếp cận dễ dàng hơn khi đi vào tìm
hiểu để làm nổi bật phong cách thơ Ý Nhi. Ở góc nhìn nghệ thuật, tác giả chú ý
đến sự phát triển của giọng điệu, lời thơ, hình tượng thơ. Thơ Ý Nhi “càng lúc
càng đượm chất giọng riêng”. Tác giả gọi đó là chất giọng: điềm tĩnh mà chua
xót. Thơ Ý Nhi cũng tăng dần “những lời thơ tiết chế nặng chất suy tư”. Sự lấn

lượt của những ngôn ngữ phân tích sắc sảo và những biểu tượng đã làm cho
khuynh hướng thơ của bà “có độ nén và nhiều dư vang hơn”.
Tập Vườn ra mắt cũng được độc giả khá chú ý với nhiều bài viết như Nỗi
khắc khoải từ miền ký ức của Lưu Khánh Thơ ( đăng trên báo Văn nghệ tháng 8
năm 2008) với ý kiến cho rằng tập thơ là “tuyên ngôn đánh dấu cho giai đoạn
khác của thơ Ý Nhi”. Với “khuân khổ câu thơ bị phá vỡ”, “ngôn ngữ văn xuôi
chắt lọc, giàu suy tưởng và hết sức kiệm lời”, nhịp điệu trong thơ là “nhịp điệu
của tâm trạng”, thơ Ý Nhi có điều gì đó “chua chát hơn, khắc nghiệt hơn nhưng
cũng đời hơn và thực hơn rất nhiều”; Ngô Thị Kim Cúc thì cho rằng ở tập
Vườn, “tạng thơ” của Ý Nhi đậm nét hơn. Thơ Ý Nhi “ít chữ, càng ít từ bóng
bẩy” nhưng lại có “sức ngân vang”. Còn cảm nhận của tác giả Việt Hà qua tập
Vườn lại là “sự dịu dàng, đằm thắm đầy nữ tính” với tình yêu quê hương, những
nỗi hoài niệm và đặc biệt là tình yêu với những cảm xúc nồng nàn, những vui
buồn đầy mâu thuẫn. Nguyễn Nhã Tiên trong bài Vườn lạ chợt thấy quen lại
cảm nhận về tâm hồn nghệ sĩ ở Ý Nhi với những bài thơ đạt đến nghệ thuật của

Nguyễn Thị Tuyên

6

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

sự tiềm ẩn, chọn lựa thủ pháp để ngôn từ tạo ra hình ảnh và sự đa nghĩa. Tác giả
cũng nhận xét “sự kiệm lời trong thơ chị là một đặc trưng nổi bật cá tính, tạo ra
sự hụt hẫng để gợi sức liên tưởng, thấm sâu tất cả vị cay đắng hoặc ngọt ngào”.
Với tuyển tập Thơ, Hà Ánh Minh có bài Mạch đập thơ Ý Nhi, dòng ưu tư
chảy xiết đăng trên tạp chí Nha Trang năm 2001 đã bày tỏ cảm nhận của mình

về thơ Ý Nhi với những đánh giá về ngôn ngữ thơ. Xuất phát từ ngôn ngữ của
trí tuệ khiến thơ Ý Nhi “không thể ngâm, chỉ có thể đọc”. Không thể trở thành
lời của bài hát mà sức trào dâng vẫn dạt dào. Đó là “một nhân cách thơ, một
dòng sông thơ trầm lắng ưu tư, chảy xiết”. Trong một bài viết có tên Lửa từ trái
tim trần run rẩy, Hà Ánh Minh lại khái quát về thơ Ý Nhi “một giọng thơ buồn
nhưng không bi lụy, một trái tim trần run rẩy trước những nỗi đau và hạnh phúc
nhưng đầy kiêu hãnh về phẩm giá con người, những bài thơ không dễ trình bày
trước đám đông nhưng sẽ để lại nỗi nhớ sâu đậm trong lòng người đọc”. Trên
báo Tiền Phong số ra ngày 28/7/2002, tác giả Nguyễn Hoàng Sơn với bài Ý Nhi
qua tuyển tập cũng đã điểm lại quá trình sáng tác của Ý Nhi qua từng tập thơ và
đi đến khẳng định sự thành công của nhà thơ trên thi đàn bởi lý do Ý Nhi đã
“sớm và dứt khoát vứt bỏ lối “làm thơ” ngòn ngọt, dễ dãi của một thời, tìm đến
một bút pháp mới chắc thực, hiện đại”. Đánh giá về phương diện nghệ thuật,
Trần Nhã Thụy trong bài Thơ Ý Nhi dự cảm và nguyện ước có những cảm nhận
độc đáo: “Thơ Ý Nhi không làm duyên, tạo dáng, không “lu bu” như giọng điệu
của nhiều nữ sĩ khác. Thơ Ý Nhi như nằm ở dạng chất liệu của những trầm tích,
là tiếng nói ẩn nghĩa dịu vang...” nhưng cũng rất “mảnh mai duyên dáng” [57].
Ngoài ra còn có một số ý kiến của một số tác giả như Anh Ngọc, nhà thơ
cùng thời với Ý Nhi đã cảm nhận được “lối thơ khách quan” qua bài Người đàn
bà ngồi đan; Nguyễn Bảo Chân trong bài viết Nơi nỗi buồn nương náu đăng
trên báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh (2005) đã bày tỏ những cảm xúc chân
thành của mình với bài thơ Thơ vui dưới hàng cây cơm nguội trước vẻ đẹp giản

Nguyễn Thị Tuyên

7

Lớp Cao học Văn K53



Phong cách thơ Ý Nhi

dị và cảm xúc ấm áp: “Một bài thơ ngắn, giản dị, mà từng câu, từng ý của nó cứ
tỏa bóng mát lành, xoa dịu và che chở”.
Nhận định riêng ở chủ đề thơ tình của Ý Nhi, Nguyễn Thị Minh Thái còn
có đánh giá về thơ tình của Ý Nhi với ý kiến cho rằng đó là “lối thơ tình kín
đáo, dịu dàng và đắm đuối như hoa quỳnh hiếm hoi, nở muộn, chỉ nở một lần,
thơm một lần và dâng hiến một lần vào thời khắc ngắn ngủi của giữa đêm”
[54]. Còn Vũ Nho trong bài Một nhà thơ đầy cá tính và bản lĩnh (2008) thì cho
rằng “thơ tình Ý Nhi đằm thắm một vẻ đẹp trí tuệ”.
Gần đây nhất là bài nghiên cứu của Lê Hồ Quang đăng trên tạp chí Thơ số
3 năm 2010 với bài Thơ Ý Nhi- hành trình trong lặng lẽ đã giúp người đọc khái
quát tổng thể một số những đặc điểm nổi bật xuyên suốt trong các tập thơ của Ý
Nhi. Với những phân tích sâu ở cả mặt nội dung lẫn hình thức thể hiện, Lê Hồ
Quang đã đi đến những đặc điểm khá cụ thể về thơ Ý Nhi với cái tôi nội cảm
của nhà thơ gắn liền thế giới nghệ thuật thơ.
Ngoài các bài nghiên cứu, phê bình của các chuyên gia trên báo và tạp chí,
thì luận văn của Nông Thị Hồng Diệu (Đại học Khoa học xã hội và Nhân vănĐại học Quốc gia Hà Nội) với đề tài Thế hệ các nhà thơ nữ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ (năm 2006), cũng đã đi vào khảo sát những đặc điểm về
nội dung và nghệ thuật biểu hiện trong thơ của bốn nhà thơ nữ tiêu biểu Ý Nhi,
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ và Phan Thị Thanh Nhàn.
Tựu chung, các bài viết dù đi sâu hay ở tầm khái quát, là nghiên cứu hay
cảm nhận, đánh giá thì đều đi tới khẳng định một cây bút có nhiều đóng góp
mới mẻ cho nền thơ ca đương đại với bút pháp riêng, giọng điệu riêng.

Nguyễn Thị Tuyên

8

Lớp Cao học Văn K53



Phong cách thơ Ý Nhi

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm phong cách, các yếu
tố thể hiện phong cách của một tác giả, luận văn đi sâu vào nghiên cứu thơ Ý
Nhi ở cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
Phạm vi nghiên cứu: chúng tôi tập trung khảo sát trong tuyển tập Thơ, Nhà
xuất bản Văn học năm 2000. Đây là tuyển tập nhà thơ Ý Nhi đã chọn lọc những
bài thơ tiêu biểu của 7 tập thơ đã xuất bản trước đó với tổng số 135 bài.
Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thêm thơ của một số nhà thơ nữ cùng thời
như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn...để có thêm những
đối chiếu và nhận định cụ thể, thuyết phục hơn về thơ Ý Nhi.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn cố gắng phác hoạ lại diện mạo thơ Ý Nhi để làm nổi bật phong
cách riêng của nhà thơ. Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo hướng đi
vào tìm hiểu và phân tích các tác phẩm cụ thể mà đi theo tiến trình từng tập thơ
để có cái nhìn tổng quát hơn và hành trình sáng tác của nhà thơ trước khi đi đến
những nhận định cơ bản nổi bật về đặc điểm thơ Ý Nhi. Ngoài các thao tác
nghiên cứu như phân tích - tổng hợp, so sánh, đối chiếu lịch sử, thống kê…,
luận văn này tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng hai phương pháp chủ yếu:
- Thi pháp học;
- Phong cách học.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình khảo sát về thơ Ý Nhi cả phương diện nội dung và
hình thức. Kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một
góc nhìn khái quát, đầy đủ hơn về thơ Ý Nhi, từ đó thấy được những tìm tòi,
đổi mới, vận động, phát triển và phong cách riêng trong sự nghiệp sác tác của
nhà thơ.


Nguyễn Thị Tuyên

9

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải mới khác với
nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó mà vận dụng những thành tựu đã có
để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể về đặc điểm tạo nên phong cách
của thơ Ý Nhi.
6. Cấu trúc của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Phong cách, phong cách thơ và quá trình hình thành phong
cách thơ Ý Nhi
Chƣơng 2: Phong cách thơ Ý Nhi nhìn từ phƣơng diện nội dung
Chƣơng 3: Phong cách thơ Ý Nhi nhìn từ phƣơng diện hình thức thể hiện

Nguyễn Thị Tuyên

10

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi


B. NỘI DUNG
Chƣơng 1: PHONG CÁCH, PHONG CÁCH THƠ VÀ QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH PHONG CÁCH THƠ Ý NHI
Để có thể đi vào nghiên cứu và có được những đánh giá cụ thể, chi tiết về
quá trình hình thành phong cách và phong cách thơ Ý Nhi, chúng tôi cho rằng,
trước hết cần phải đi vào bản chất của khái niệm phong cách và phong cách thơ.
Theo đó, những đối tượng được khảo sát sẽ được xác định như là đặc điểm tạo
nên phong cách của thơ Ý Nhi.
1.1. Khái niệm phong cách và phong cách thơ
1.1.1.Phong cách
Thuật ngữ “phong cách” (tiếng Anh là style) đã được sử dụng rộng rãi
trong nghiên cứu khoa học và cũng rất quen thuộc trong đời sống hằng ngày.
Với lĩnh vực văn chương, nghệ thuật thì thuật ngữ này đã trở nên phổ biến và là
một khái niệm trung tâm, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Vậy
“phong cách” có nghĩa là gì? Có lẽ, chúng ta sẽ khó có thể tìm ra được một đáp
án thỏa đáng cho câu hỏi này bởi “phong cách” là một khái niệm mở với nhiều
cách hiểu khác nhau.
Ngược dòng lịch sử, khái niệm mang tính chất ngôn ngữ về phong cách
được hình thành sớm nhất từ thời cổ đại Hy Lạp, sau được lan truyền tới La
Mã, nơi mà Stylus được coi như một thuật ngữ ngôn ngữ học, trải qua quá trình
phát triển của văn học và ngôn ngữ, khái niệm phong cách mới được sử dụng
như cách hiểu của chúng ta hiện nay. Còn theo như thống kê của
MB. Khrapchenco trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học thì ông cho rằng có đến gần hai mươi cách hiểu khác nhau về phong
cách. Những định nghĩa về phong cách rất phong phú, đa dạng và chúng “xòe
ra như cái quạt”.

Nguyễn Thị Tuyên

11


Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

Trong sáng tác và nghiên cứu văn học, khái niệm phong cách đã được biết
đến ngay từ thời cổ đại. Các nhà hiền triết phương Tây như Platon thì cho rằng
“Tính cách thế nào thì phong cách thế ấy” hay “Lời nói là diện mạo của tâm
hồn” (Sinle). Nhà lý luận văn học nổi tiếng phương Đông- Lưu Hiệp trong
Văn tâm điêu long thì cho rằng phong cách chính là bản thân con người, văn tức
là người với quan niệm “văn như kỳ nhân”. Với những khám sâu hơn trong hai
chương Thể tính – bàn về phong cách tác giả và Định thể bàn về phong cách thể
loại, Lưu Hiệp cho rằng: nội dung quyết định thể tài và mỗi thể tài cũng có
phong cách riêng… Bởi vậy, người lấy kinh điển làm mẫu mực thì tự nhiên đi
vào cái đẹp cổ điển, trang nhã, người theo kiểu cách thể “tao” thì tự nhiên
hướng tới vẻ đẹp diễm lệ, siêu phàm [22, tr.90, 91].
Bước sang thế kỷ 18 và 19 thì cuộc bàn luận về phong cách ngày càng trở
nên sôi nổi hơn với sự góp mặt của các đại biểu như nhà văn Stendhal, Balzac,
các nhà lý luận văn học như Saint – Beuve, các triết gia như Herbert, Spencer,
các nhà ngôn ngữ học như Steithal…
Nếu như ở thời kỳ cận đại, Vinkenma trong cuốn Lịch sử nghệ thuật cổ
đại từng đưa ra quan niệm phong cách được coi là đặc trưng nghệ thuật của
nghệ thuật, một phương hướng riêng biệt trong nghệ thuật hình thành ở thời đại
nào đó và là một hệ thống xác định các dấu hiệu nghệ thuật thì ở thời kỳ hiện
đại, dưới quan điểm thẩm mỹ của các nhà nghiên cứu văn học, phong cách
được xem như phạm trù thẩm mỹ, một hiện tượng văn học nghệ thuật bao gồm
tất cả sự đa dạng và phức tạp trong mối quan hệ của nó với nhiều yếu tố khác.
Phổ biến nhất là hai cách hiểu: phong cách là tính cá thể hoặc tính độc đáo và
phong cách là một hệ thống các phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật

được xem xét trong tính quy luật và các nguyên tắc hài hòa. Mỗi quan niệm có
cơ sở riêng của nó nhưng chưa đi đến sự thuyết phục. Điển hình như Butfon
định nghĩa: “phong cách là chính bản thân con người”. Mỗi nhà văn thường có

Nguyễn Thị Tuyên

12

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

một “tạng” riêng và có thể nói bản sắc cá nhân, sự riêng biệt độc đáo của nhà
văn là yếu tố quan trọng nhất của phạm trù phong cách. Còn các nhà Mỹ học
phương Tây theo chủ nghĩa hình thức thì một mặt họ đưa ra khái niệm quá rộng
về phong cách khi đồng nhất nó với phương pháp nghệ thuật, nhưng mặt khác
lại thu hẹp nó trong thủ pháp sáng tác của nghệ sĩ. Có ý kiến lại thu hẹp phạm
trù của khái niệm khi cho rằng phong cách của nhà văn thể hiện chủ yếu qua
ngôn ngữ như cách hiểu của nhà nghiên cứu văn học Turbin: “Phong cách- đó
là ngôn từ được xem xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng, đó là tác
động qua lại, thường xuyên giữa những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh
trong ngôn từ vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật” [11, tr.131].
Các nhà nghiên cứu và lý luận phê bình văn học Việt Nam với không ít
công trình viết về phong cách cũng đã đưa ra một số quan niệm về thuật ngữ
này tiêu biểu như: Một số vấn đề thi pháp học hiện đại (Trần Đình Sử), Dẫn
luận phong cách học (Nguyễn Thái Hòa), Nhà văn tư tưởng và phong cách,
Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách (Nguyễn Đăng Mạnh)
hay cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (Phan Ngọc), Tác
Phẩm và chân dung (Phan Cự Đệ), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu

(Tôn Phương Lan), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân (Hà Văn Đức)…
Phan Ngọc với quan niệm hơi nghiêng về trừu tượng và khái quát cho rằng
“Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình
thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử, có thể cho phép ta nhận
diện một thời đại, một thể loại, hay một tác giả”[20, tr.22]. “Kiểu lựa chọn tiêu
biểu” ở đây được hiểu như mật mã cho chúng ta “nhận diện” sự khác biệt cũng
như nét độc đáo của mỗi tác giả. Gần giống với quan niệm của Phan Ngọc, Đỗ
Lai Thúy cũng cho rằng “Phong cách là cá tính của chủ thể sáng tạo, và sự tự
do chọn lọc các phương tiện ngôn ngữ để thể hiện nó trong tác phẩm”. Cá tính,
cái chút riêng biệt nhỏ nhoi ấy, là tất cả….Phong cách cũng là chỗ đặc dị, nơi

Nguyễn Thị Tuyên

13

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

chứa đựng mật số của tác phẩm văn chương”. Còn nói như Nguyễn Đăng Mạnh
trong Nhà văn tư tưởng và phong cách thì phong cách được gắn với cá tính của
nhà văn: “Văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là
lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá tính và phong cách”. Ông
khẳng định thêm “phong cách phụ thuộc vào những thói quen tâm lý và những
sở trường riêng”. Từ đó đi đến khẳng định phong cách một số tác giả như
Quang Dũng tài hoa, tài tử, phong tình, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ của đất
nước tươi đẹp và hùng tráng, đau thương, Hoàng Cầm là linh hồn của quê
hương Kinh Bắc cổ kính, đầy huyền thoại, cổ tích và chứa chan chất nhạc,
Nguyên Ngọc thì được biết đến như cây bút sử thi lãng mạn, một chủ nghĩa anh

hùng đầy chất thơ.
Về cơ bản thì dù các cách tiếp cận có khác nhau thì nội hàm của thuật ngữ
phong cách trong lý luận văn học dường như đã có sự thống nhất theo cách hiểu
đó là nét riêng, là sự khác biệt và bản sắc của một cá nhân hay một tác phẩm,
một thể loại,…hay một thời đại. Và khi tổng kết lại các thành tựu cơ bản đã đạt
được, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã thống nhất và đưa ra những kiến giải có
ý nghĩa khoa học tích cực: “Phong cách là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống
nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện nghệ
thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm
riêng lẻ, trong trào lưu văn học…; các dấu hiệu của phong cách dường như nổi
lên trên bề mặt tác phẩm, như là một thể thống nhất hữu hình và hiển thị và có
thể tri giác được tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật [9, tr. 207].
Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học không những có ý kiến đồng
với quan điểm trên mà còn đi đến kết luận: “Trong nghĩa rộng, phong cách là
nguyên tắc xuyên suốt cấu trúc tác phẩm, khiến cho tác phẩm có tính chỉnh thể,
có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt” [3, tr.254]. Như vậy, phong cách
không phải là những đặc điểm lẻ tẻ, biểu hiện một cách rời rạc mà nó có tính

Nguyễn Thị Tuyên

14

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

thống nhất, bền vững bao gồm cả yếu tố nội dung và nghệ thuật. Phong cách thể
hiện trước hết và rõ nét ở hình thức nghệ thuật nhưng nếu không nắm được tính
độc đáo trong tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn thì khó có được cái nhìn

toàn diện và sâu sắc về một phong cách như Nguyễn Đăng Mạnh từng nói:
“Không tìm ra cơ sở tư tưởng của phong cách thì không phát hiện ra được quy
luật nghệ thuật và tính thống nhất bên trong của phong cách” [17, tr.76]. Hơn
nữa, một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh luôn có sự thống nhất giữa hình thức
và nội dung. Mối quan hệ biện chứng này dẫn đến một phong cách dù có thiên
về hình thức thì vẫn có gốc rễ từ nội dung; ngược lại, một phong cách thiên về
nội dung thì cũng không tách khỏi hình thức.
Phong cách không phải là hiện tượng ngẫu nhiên hay tự phát. Đó là cả một
quá trình vận động, biến chuyển thậm chí là có sự thay đổi bởi sáng tạo thì luôn
đổi mới. Tuy nhiên về cơ bản, phong cách vận động trên cơ sở của sự thống
nhất, ổn định và xuyên suốt với những tiêu chí nhận diện hàm chứa các yếu tố
có tính lặp đi lặp lại như hình tượng, hình thức cấu tạo tác phẩm, các chủ đề,
motif, ngôn ngữ, giọng điệu…v.v. Chúng ta cần xem phong cách là phẩm chất
sáng tạo cao nhất của người nghệ sĩ trong quá trình đồng hóa hiện thực bằng
thẩm mỹ.
Khi nói đến cái nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn là chúng ta đang
đi tìm hiểu và khẳng định sự khác biệt, cái gọi là phong cách tác giả. Nhà văn
muốn có phong cách riêng thì trước hết phải có tư tưởng nghệ thuật riêng, có
cách cảm nhận độc đáo về hiện thực khách quan gắn liền và thống nhất với hệ
thống bút pháp nghệ thuật. Và “phong cách một khi đã định hình thì thường có
tính bền vững” [17, tr.9]. Tuy nhiên thì không phải nhà văn nào cũng tạo được
phong cách riêng.
1.1.2. Phong cách thơ
Như phần trên chúng tôi đã trình bày, cùng với khái niệm phong cách thì
Lưu Hiệp còn dành hẳn một chương để nói về phong cách thể loại với tên gọi

Nguyễn Thị Tuyên

15


Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

Thể tính. Thể loại, bản thân nó cũng trải qua một quá trình ra đời, phát triển, đổi
mới và hoàn chỉnh, đạt đến một giai đoạn nhất định với những đặc điểm mang
tính biểu trưng riêng thì lúc đó nó cũng mới tạo ra được phong cách. Thơ hay
tiểu thuyết, kịch, các thể ký văn học được gọi là những thể loại khác nhau mà
sự khác biệt trong cách gọi tên này được hình thành từ chính những đặc điểm
của từng thể loại. Thể loại là một yếu tố của hình thức. Việc đặt ra hình thức thì
dễ mà xây dựng nó thì không hề đơn giản, nó đòi hỏi người nghệ sĩ cần phải có
thái độ nghiêm túc và sáng tạo trong lao động nghệ thuật. Người sáng tác khi
cầm bút thông thường sẽ không có sự băn khoăn về thể loại, bởi tự bản thân họ
biết mình phù hợp với thể loại nào nhất. Nhưng nhiều khi, chính nội dung
truyền tải đã lựa chọn thể loại hay còn gọi là hình thức thể hiện cho nó, bởi
phong cách thể loại phù hợp được với điều mà tác giả định nói. Đó là lý do có
những nhà văn rất thành công ở thể loại truyện ngắn như Nguyễn Công Hoan,
có những cây bút lại sở trường về phóng sự như Vũ Trọng Phụng hay khi nhắc
đến Nguyễn Tuân, người ta nhớ đến những tùy bút đặc sắc.
Là thể loại văn học nằm trong phương thức trữ tình và có thể nói là xuất
hiện sớm nhất so với các thể loại khác nhưng bản chất của thơ lại rất đa dạng và
phức tạp. “Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống, vừa
bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp qua liên tưởng và những tưởng
tượng phong phú, vừa theo những mạch cảm nghĩ, vừa bằng sự rung động của
ngôn từ giàu nhạc điệu” [6, tr.165]. Chính vì vậy mà có lẽ dù đã trải qua hàng
ngàn năm lịch sử, thơ ca vẫn luôn là thể loại có sức hấp dẫn trong đời sống với
những đặc trưng riêng của nó.
Nói đến phong cách thơ nghĩa là chúng ta đang bàn tới những biểu hiện
của tài năng thi ca đích thực bởi thơ cần đến năng khiếu thẩm mỹ, tài nghệ và

cần đến cá tính, phong cách. Cái đặc biệt của phong cách thơ “còn là sự thể
hiện của cái tôi trữ tình trong thơ”. Và với đặc trưng riêng biệt “thơ là sự thể

Nguyễn Thị Tuyên

16

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

hiện thế giới nội tâm bên trong của nhà thơ” nên nó không thể có sự giống nhau
đến “sáo mòn” được.
Thơ ca Việt Nam đã có một tiến trình phát triển lâu dài với nhiều thành
tựu. Và ở thời đại nào cũng có những phong cách tác giả được ghi dấu lại trên
thi đàn. Phong cách thơ ở Việt Nam thực sự nở rộ vào thời kỳ 1932 – 1945
trong phong trào thơ Mới. Đó cũng là lúc mà cái “Tôi” cá nhân phát triển đến
cực điểm. Các nhà thơ đều khẳng định được phong cách riêng của mình. Nhà
phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân trong cuốn Thi nhân việt Nam đã gọi tên được
các phong cách ấy: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ
có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất
hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng
Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não
như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên, và thiết tha,
rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu” [23, tr.29].
Sau này, chúng ta còn thấy sự xuất hiện của nhiều cây bút nữa mà mỗi
giọng điệu đóng góp một âm hưởng riêng trong dàn hợp xướng chung của thời
đại như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Quang
Dũng, Thu Bồn, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Lưu Quang

Vũ, Anh Ngọc, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm … và không thể
không kể đến sự đóng góp không nhỏ của thế hệ các nhà thơ nữ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mỹ như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị
Thanh Nhàn, Ý Nhi… Mỗi phong cách thơ tuy đều thể hiện một cái nhìn mới
mẻ theo quan điểm thẩm mỹ của riêng mình nhưng đều phản ánh phong cách
của thời đại. Khi bàn về mối quan hệ giữa phong cách tác giả và phong cách
thời đại, Đỗ Lai Thúy đã từng có một tổng kết rất hay và độc đáo rằng: nếu cái
nhìn nghệ thuật chung của cả dòng thơ như một chuẩn, một phong cách chung
cho cả một thời đại trong thi ca, thì mỗi cái nhìn nghệ thuật riêng của mỗi thi

Nguyễn Thị Tuyên

17

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

nhân là một lệch chuẩn. Và chính sự lệch chuẩn này tạo nên phong cách riêng
của mỗi nhà thơ.
Tuy nhiên, để có thể nghiên cứu phong cách ở bất kỳ cấp độ nào, là phong
cách một tác giả, một thể loại, một trào lưu hay một trường phái, một thời đại,
thậm chí cả một nền văn học thì đều cần đưa ra các tiêu chí riêng để khảo sát,
đánh giá. Đối với việc nghiên cứu phong cách một nhà thơ thì đây là thao tác
cần thiết giúp chúng tôi tiếp cận vấn đề dễ dàng hơn và có những bước nghiên
cứu mang tính định hướng cụ thể để đi tới những nhận xét, đánh giá sát thực
nhất. Xuất phát từ hai phương diện nội dung và hình thức, khi đi nghiên cứu về
phong cách thơ của một tác giả, theo chúng tôi cần chú ý đến hệ thống chủ đề,
đề tài gắn liền với cảm hứng sáng tác của nhà thơ, bên cạnh đó là hệ thống

những motif những hình ảnh, biểu tượng đặc trưng gắn liền với cái tôi trữ tình
của nhà thơ. Và chắc chắn là không thể thiếu việc khảo sát ngôn ngữ, giọng
điệu đặt trong những thể thơ tiêu biểu.
1.2. Quá trình hình thành phong cách thơ Ý Nhi
1.2.1. Đôi nét về tác giả
Tôi không ưa đồ trang sức
kể cả nhẫn, vòng và các chức danh
tôi không coi tất cả mọi thứ đều quan trọng
cũng không xem thường mọi thứ”
….
Tôi rất ít bạn
đôi khi tôi mất họ vì một lẽ nào đó
ngoài 30 tuổi tôi không tìm thêm bạn mới
và không thường giao du với các đồng nghiệp...
(Tiểu dẫn – Ý Nhi)

Nguyễn Thị Tuyên

18

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

Đó là đôi lời Ý Nhi đã tự bạch về mình, giản dị, thẳng thắn và bộc trực!
Rất ít nhà thơ “dám” thẳng thắn khắc họa về mình như thế dù có thể họ cũng có
những suy nghĩ như Ý Nhi nhưng có thể lại được che đậy bởi những câu nói
khéo hơn. Nhưng Ý Nhi là vậy, thẳng thắn đến mức cực đoan! Và chính điều đó
đã đem cái “Tôi” của nhà thơ đến gần hơn với mọi người. Ý Nhi không thích

xuất hiện trước công chúng, cũng ít nói về mình ngay cả khi đã có vị trí nhất
định trên thi đàn. Thuộc motif người lặng lẽ, Ý Nhi đi lên qua từng bài thơ,
trưởng thành qua từng tập thơ và cũng nổi tiếng một cách …lặng lẽ. Thơ Ý Nhi
cũng như con người bà, điềm đạm và giản dị. Và cứ từ từ như thế, thơ Ý Nhi
lặng lẽ chinh phục người yêu thơ cả ba miền đất nước.
Nhà thơ Ý Nhi tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh năm 1944 tại thị xã Hội
An, tỉnh Quảng Nam. Bà là con gái của nhà nghiên cứu tuồng Hoàng Châu Ký
và là nội tướng của giáo sư Nguyễn Lộc – nguyên giảng viên khoa Văn, trường
đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp
Khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1968, rồi về công tác tại
viện Văn học (thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam). Sau đó, bà chuyển
sang phụ trách công tác biên tập thơ ở nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng và
Nhà xuất bản Hội nhà văn thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. Có lẽ, hoàn
cảnh xuất thân và công việc có ảnh hưởng không nhỏ đến những sáng tác thơ ca
của Ý Nhi như chính nhà thơ đã từng tâm sự trong một bài phỏng vấn của Đài
RFA rằng bà làm thơ rất nhiều năm, đọc rất nhiều thơ của các nhà thơ Việt
Nam, đôi khi biên tập những tập thơ dịch ra từ các nhà thơ nước ngoài. Nghĩa
là, bà có điều kiện đọc và tự mình cũng làm thơ, đó là điều quan trọng nhất.
Sự nghiệp văn học chính của Ý Nhi là thơ với gần 30 năm cầm bút, mãi
đến năm 2000, với tuyển tập cuối cùng có tựa đề rất cô đọng Thơ, nhà thơ mới
nói lời tạm biệt với thơ để thử bút ở một lĩnh vực mới. Chính vì vậy, khi nói về
quan niệm nghệ thuật của Ý Nhi thực chất là nói về quan niệm về thơ. Trước

Nguyễn Thị Tuyên

19

Lớp Cao học Văn K53



Phong cách thơ Ý Nhi

tiên với Ý Nhi, thơ là một cứu cánh. Bà nhận ra rằng thơ là một ký thác, một
bộc bạch, trước hết với chính mình, và hơn thế như một chọn lựa, một thái độ
với người trong cuộc. Ý Nhi từng chia sẻ: “Từ trước đến nay, tôi chỉ viết khi
nào nội tâm có nhu cầu chứ không bắt mình phải làm thơ vì bất cứ lý do nào, kể
cả hai tiếng nhà thơ” [47]. Và làm thơ với Ý Nhi là để giải tỏa tâm trạng. Tất cả
những phức tạp trong tâm hồn, những trăn trở về đạo đức, lẽ sống, về con người
và cuộc đời…đã được bà giải tỏa trong thơ: “Thơ gần như là phương cách duy
nhất để trang trải nỗi xao xác, giải thoát nỗi bồn chồn. Mỗi lần ướm bút gieo
chữ xuống trang thơ là một lần gửi vào đó nguyện ước, những mong cầu được
yên hàn” [50]. Với cuộc sống hiện đại đầy cẳng thẳng và những lo toan, thơ còn
là điểm tựa tinh thần, “là thuốc giải độc cho thị trường và kỹ thuật”(chữ dùng
của O.Paz). Ý Nhi luôn có ý thức tìm tòi, mở rộng khả năng biểu hiện của thơ
với quan niệm đề cao cảm xúc trong đó phẩm chất cao nhất là sự thành thực. Và
ở phương diện hình thức thì thơ phải đạt tới sự tự nhiên, dung dị. Một điều rất
đáng trân trọng là Ý Nhi luôn sống thực với lòng mình, với đời và với thơ.
Ngay cả khi phải chấp nhận đau khổ, sự cô đơn trong hành trình hướng tới sự cao
cả, tới “trùng khơi”, tới “biển” thậm chí có phải “tự mình tôi hát/tự mình đau
khổ/tự mình hạnh phúc” thì Ý Nhi vẫn đầy bản lĩnh và kiên định trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật của mình.
1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật thơ Ý Nhi
Sinh ra trong kháng chiến chống Pháp và trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ nhưng Ý Nhi lại thực sự khẳng định bút lực của mình trong
thời kỳ hậu chiến và thời kỳ Đổi mới.
Ý Nhi làm thơ từ rất sớm và không ai nghĩ rằng Ý Nhi lại bắt đầu đời thơ
của mình một cách rất ngẫu nhiên và như “sự run rủi của số phận”. Bởi sau sự
im hơi lặng tiếng của lần thứ nhất làm thơ theo đơn “đặt hàng” khi Ý Nhi còn là
cô học sinh cấp 2 của trường Học sinh miền Nam ở Hải Phòng, lần thứ hai khi


Nguyễn Thị Tuyên

20

Lớp Cao học Văn K53


Phong cách thơ Ý Nhi

Ý Nhi là cô nữ sinh đang học cấp 3 với bài “Tặng anh Titov” được đăng báo thì
tài năng thơ ấy lại im bặt. Thậm chí cho đến khi vào đại học, được gặp gỡ với
những nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học nổi tiếng mà bà đã từng biết đến
trên mặt báo như Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Huy Tưởng…, rồi trở thành bà Nguyễn Lộc (khi đó là giảng viên của
trường Đại học Tổng hợp), đối với Ý Nhi, thơ ca vẫn chỉ là “một kẻ xa lạ”. Và
trong khi các bạn cùng trang lứa như Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm
Thị Mỹ Dạ, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật… đã trở nên quen tên với người yêu
thơ bấy giờ thì Ý Nhi vẫn là kẻ thờ ơ ngoài cuộc. Nên dù sớm làm thơ và có thơ
đăng báo nhưng chỉ đến khi tham dự Trại viết dành cho các nhà văn trẻ lần 2
năm 1969 và được Xuân Diệu, Chế Lan Viên hết lòng động viên, Ý Nhi mới
tham dự và đạt giải khuyến khích. Mặc dù vậy, sự kiện đó cũng chưa thực sự là
khởi đầu cho sự nghiệp thơ ca của Ý Nhi.
Có thể nói, Ý Nhi cùng thế hệ các nhà văn trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ có được may mắn sống trong một thời đại thi ca phát triển rực rỡ
nhất từ trước đến nay. Với tính chất là cuộc chiến tranh vệ quốc toàn dân, thơ
chống Mỹ thu hút đông đảo các lực lượng sáng tác tham gia. Và với nhiều
phẩm chất mới cùng bản lĩnh nghệ thuật dày dặn, thơ ca chống Mỹ đã có với
bước tiến mạnh mẽ trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Chính nhà thơ cũng
từng tâm sự: thời đó “Quả là thời thơ”. Và trong những năm tháng chiến tranh
sôi động ấy, cùng với những sáng tác của những tên tuổi đã nổi trên thi đàn như

Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Lâm Thị Mỹ Da, Phan Thị Thanh
Nhàn… với những bài thơ được nhiều người biết đến và ghi nhớ như Trở lại
trái tim mình (Bằng Việt), Tiếng gà trưa và Hoa dọc chiến hào (Xuân Quỳnh),
Vườn trong phố của Lưu Quang Vũ,… thì những bài thơ đầu tiên của tuổi
trưởng thành đã được Ý Nhi chắp bút. Năm 1974, tập thơ đầu tiên in chung với
Lâm Thị Mỹ Dạ với tên gọi Trái tim - Nỗi nhớ được xuất bản và đem thơ chị

Nguyễn Thị Tuyên

21

Lớp Cao học Văn K53


×