Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện tử Việt Nam (Khảo sát: vnexpress.net, dantri.com, ngoisao.net từ năm 2010 đến tháng 6/2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*************

TRẦN THỊ THANH VÂN

LỖI VĂN HÓA TRONG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

(KHẢO SÁT: VNEXPRESS.NET; DANTRI.COM; NGOISAO.NET
TỪ NĂM 2010 ĐẾN THÁNG 6/2011)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*************

TRẦN THỊ THANH VÂN

LỖI VĂN HÓA TRONG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
(KHẢO SÁT: VNEXPRESS.NET; DANTRI.COM; NGOISAO.NET
TỪ NĂM 2010 ĐẾN THÁNG 6/2011)

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐỖTHỊ QUYÊN

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn

Trần Thị Thanh Vân


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin cảm ơn tập thể giáo viên khoa Báo chí và Truyền
thông, trường Đại học KHXH&NV đã hết lòng giúp đỡ tôi về mặt kiến thức
cũng như tinh thần trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận
văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS. Đỗ Quyên, người đã tận
tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu để tôi thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, các thầy cô
đã cho tôi những ý kiến đóng góp xác đáng, khoa học và cần thiết cho quá
trình hoàn thiện luận văn của tôi.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình, bạn bè
và đồng nghiệp trong suốt quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ này!
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn

Trần Thị Thanh Vân


1
MỤC LỤC

MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
Chƣơng 1: KHÁI NIỆM BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ LỖI VĂN HÓA .... 9
1.1. Nhận thức chung về báo mạng điện tử ............................................... 9
1.1.1. Các loại hình báo chí ........................................................................ 9
1.1.2. Khái niệm báo mạng điện tử .......................................................... 10
1.1.3. Đặc điểm của báo mạng điện tử ..................................................... 14
1.1.4. Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử Việt Nam trong thời kì
hội nhập .................................................................................................... 18
1.2. Nhận thức chung về văn hóa và lỗi văn hóa .................................... 21
1.2.1. Khái niệm về văn hóa ..................................................................... 21
1.2.2. Lỗi văn hóa ..................................................................................... 23
1.3. Lỗi văn hóa trong đặc thù ngôn ngữ báo mạng điện tử .................. 24
1.3.1. Đặc thù ngôn ngữ của báo mạng điện tử........................................ 24
1.3.2. Lỗi văn hóa trong những đặc thù ngôn ngữ của báo mạng điện tử ... 29
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG LỖI VĂN HÓA TRONG SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ TRÊN VNEXPRESS.NET; DANTRI.COM; NGOISAO.NET ...... 35
2.1.Vài nét về hai tờ báo mạng điện tử: Vnexpress.net; Dantri.com và

website Ngoisao.net .................................................................................... 35
2.1.1. Báo mạng điện tử Vnexpress.net ................................................... 35
2.1.2. Báo mạng điện tử Dantri.com ........................................................ 36
2.1.3. Website Ngoisao.net....................................................................... 38
2.2. Khảo sát các lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ thƣờng gặp trên
VnExpress.net; Dantri.com; Ngoisao.net từ năm 2010 đến tháng 6 năm
2011.............................................................................................................. 39


2
2.2.1. Lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ dưới dạng chữ viết .............. 39
2.2.2. Lỗi trong sử dụng ngôn ngữ dưới dạng ảnh .................................. 62
Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 75
Chƣơng 3: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VĂN HÓA
TRONG NGÔN NGỮ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ.......................................... 78
3.1. Kinh nghiệm xử lý các lỗi văn hóa trên báo mạng điện tử ............. 78
3.2. Kiến nghị các giải pháp tránh mắc lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn
ngữ báo mạng điện tử ................................................................................ 81
3.2.1. Kiến nghị với các tòa soạn báo ...................................................... 81
3.2.2. Kiến nghị với người làm báo ......................................................... 87
3.2.3. Kiến nghị với độc giả ..................................................................... 99
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................... 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 106


3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Năm 1992, phiên bản điện tử của tờ Chicago “ra mắt” ở Mỹ đánh dấu

sự ra đời của loại hình báo chí hoàn toàn mới trên thế giới: loại hình báo
mạng điện tử hay còn gọi là báo trực tuyến, báo internet.
Đây cũng là loại hình báo chí du nhập vào nước ta trong khoảng thời
gian ngắn nhất. Nếu như báo in ở nước ta xuất hiện sau các nước trên thế giới
hàng trăm năm, với phát thanh, truyền hình là hàng chục năm thì với báo điện
tử, khoảng thời gian này chỉ mất 5 năm. Tháng 12/1997, tạp chí Quê hương
công bố trang báo mạng điện tử của mình, đánh dấu mốc cho sự hình thành và
phát triển loại hình báo chí này tại Việt Nam. Làng báo Việt Nam có thêm
một thành viên mới: Báo mạng điện tử.
So với nhiều loại hình báo chí trước đó, báo mạng điện tử có rất nhiều
lợi thế vượt trội. Nó phá vỡ tính định kì của báo chí, tính chất thời sự của
thông tin được đẩy nhanh lên từng phút, từng giây. Để đăng tải thông tin,
người ta không cần một hệ thống nhà in hay máy phát sóng mà chỉ cần có
máy tính được nối mạng internet.
Báo mạng với dung lượng gần như vô tận phá vỡ sự gò bó về mặt diện
tích của báo in hay thời lượng phát sóng của truyền hình, phát thanh. Số
lượng tin bài đăng tải không hạn chế. Điều này làm cho thông tin vừa đảm
bảo tính thời sự, vừa phong phú hơn… Cùng với sự phát triển chóng mặt của
các công nghệ kết nối, giúp đẩy nhanh tốc độ truy tải, số lượng các tờ báo
điện tử cũng nở rộ khắp nơi trên thế giới, truyền tải thông tin dưới mọi hình
thức mà các loại báo truyền thống cung cấp. Có thể coi báo điện tử hiện nay
là sự hội tụ của cả báo giấy (text), báo tiếng (audio) và báo hình (video).


4
Nội dung thông tin phong phú, số lượng tin bài nhiều nên vấn đề sử
dụng tốt các thành tố ngôn ngữ để chuyển tải thông tin một cách có hiệu quả
rất quan trọng đối với báo mạng điện tử. Ngôn ngữ báo mạng điện tử hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm chữ viết, âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh tĩnh…
Chính sự phong phú trong việc sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử đã

khiến cho loại hình truyền thông này trở nên hấp dẫn và được ưa chuộng.
Song, chính sự phong phú trong ngôn ngữ, kết hợp với một đặc tính nổi bật
của báo mạng điện tử là thông tin được đăng tải nhanh chóng đã khiến loại
hình báo chí này mắc không ít lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ.
Việc nhận diện lỗi văn hóa trong ngôn ngữ báo mạng, từ đó rút kinh
nghiệm, tìm giải pháp khắc phục và đưa ra mô hình chuẩn mực cho việc sử
dụng ngôn ngữ báo mạng là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu để góp
phần trả lại sự trong sáng cho ngôn ngữ của một loại hình báo chí đang rất
được giới trẻ ưa chuộng: báo mạng điện tử.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Là một loại hình báo chí mới trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng, những công trình nghiên cứu về báo mạng điện tử chưa nhiều. Công
trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo mạng điện tử càng ít hơn.
Với cuốn “Writing for the web” (Viết bài cho web) in năm 1999, tác
giả Kilian Crawford gần như là người đầu tiên (theo các tài liệu liên quan mà
chúng tôi thu thập được) đề cập khá chi tiết việc sử dụng ngôn ngữ trong các
bài viết được đăng tải trên mạng. Tác giả chỉ dẫn việc dùng từ, đặt câu đến
trình bày đoạn văn như dùng dạng câu chủ động thay cho bị động, đặt câu hỏi
đơn giản, đoạn văn không quá 70 chữ, dài nhất là 4 dòng, các đoạn cách
nhau một dòng…Tuy nhiên, nội dung của cuốn sách chỉ đề cập tới cách sử
dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện tử tồn tại dưới dạng viết.


5
Tiếp đó, năm 2002, một tác giả khác là Mike Ward cho ra mắt cuốn
“Journalism Online” (Báo chí trực tuyến). Cuốn sách chỉ ra những điểm nổi
bật mà các nhà báo cần quan tâm khi sử dụng các loại hình ngôn ngữ trên báo
mạng điện tử bao gồm chữ viết, ảnh tĩnh, ảnh động, âm thanh…
Có thể nói, các tác giả đã nghiên cứu khá chi tiết về cách viết cho báo
mạng điện tử. Tuy nhiên, đây là những nghiên cứu mang tính tổng thể về việc

viết như thế nào, sử dụng âm thanh, hình ảnh ra sao để phù hợp với việc
thông tin trên báo mạng điện tử như một cuốn cẩm nang nghề nghiệp chứ
không chỉ ra kỹ năng tránh các lỗi trong sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng
điện tử ở góc nhìn văn hóa.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo điện tử tương
đối ít. Hiện có một số cuốn sách chuyên sâu về ngôn ngữ báo chí là “Ngôn
ngữ báo chí” của tác giả Nguyễn Trí Niên (năm 2006), “ Một số vấn đề về sử
dụng ngôn ngữ trên báo chí” (năm 2003) và “ Những kĩ năng về sử dụng ngôn
ngữ trong truyền thông đại chúng” (năm 2008) của PGS. TS Hoàng Anh,
giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, “ Ngôn ngữ báo chi” của PGS.
TS Vũ Quang Hào, giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(ĐH KHXH&NV), Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐH QGHN) in vào năm 2004
(tái bản năm 2007, 2010). Tuy nhiên, các cuốn sách này đều không bàn về
ngôn ngữ báo mạng điện tử và chỉ nói tới ngôn ngữ báo chí nói chung.
Bên cạnh đó, có thể kể đến một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp của
học viên, sinh viên chuyên ngành báo chí. Tác giả Nguyễn Thu An trong
“Ngôn ngữ báo chí Internet” (Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành báo chí, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN) có nghiên cứu về ngôn ngữ báo mạng điện tử nhưng
theo hướng chỉ ra các đặc điểm chung về ngôn ngữ của loại hình báo chí này và
cũng không đề cập tới lỗi trong sử dụng ngôn ngữ ở góc nhìn văn hóa.


6
Nhiều luận văn, khóa luận khác có bàn về báo điện tử nhưng chỉ xoay
quanh các vấn đề: Quảng cáo (Nguyễn Thị Thanh Hoa, “Hiện trạng và xu
hướng quảng cáo trên báo trực tuyến”, khóa luận tốt nghiệp K45, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN), về tính tương tác của báo trực tuyến (Vũ Thị Huệ,
“Sự tương tác giữa báo chí trực tuyến và công chúng”, khóa luận tốt nghiệp
K45, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN), về vấn đề sử dụng tít (Khương Thị Ngọc
Thương, “Thực trạng sử dụng tít trên báo điện tử Việt Nam hiện nay”, khóa

luận tốt nghiệp K49, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN)…
Một số luận văn, khóa luận có nghiên cứu chuyên sâu về từng thể loại
như tin (Phạm Thị Mai, “Ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt
Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí học năm 2010, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN), phóng sự (Lê Minh Thanh, “Phóng sự báo chí trực
tuyến”, khóa luận tốt nghiệp K47, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN) hay giao lưu
trực tuyến (Tô Mai Trang, “Giao lưu trực tuyến”, khóa luận tốt nghiệp K47,
ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN).
Một số luận văn, khóa luận nghiên cứu về vấn đề văn hóa báo chí như
Lê Thị Hoàng Yến, “Ứng xử văn hóa của phóng viên thể thao Việt Nam trong
tác nghiệp ở nước ngoài”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí, ĐH
KHXH&NV, ĐH QGHN, hay Trần Trung Hòa, “Văn hóa truyền thống và
báo mạng điện tử”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí, ĐH KHXH&NV,
ĐH QGHN.
Chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề lỗi trong sử dụng
ngôn ngữ trên báo mạng điện tử ở góc nhìn văn hóa.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, khảo sát các tư liệu tác phẩm để chỉ ra các lỗi
văn hóa trong ngôn ngữ báo mạng điện tử.


7
Phân tích các tác phẩm dựa trên đặc trưng ngôn ngữ của báo mạng điện
tử, từ đó rút ra đánh giá, kết luận cho chuẩn mực văn hóa của ngôn ngữ báo
mạng điện tử.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Tác giả của luận văn nghiên cứu vấn đề Lỗi văn hóa trong sử dụng
ngôn ngữ trên báo mạng điện tử Việt Nam trên 3 trang báo mạng điện tử có
lượng truy cập cao của độc giả, đó là: Vnexpress.net, Ngoisao.net và
Dantri.com.

- Lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện tử được khảo
sát chủ yếu trên hai yếu tố cấu thành nên tác phẩm trên báo mạng điện tử là
ngôn ngữ chữ viết và ngôn ngữ ảnh.
- Thời gian nghiên cứu được giới hạn cụ thể từ năm 2010 đến hết tháng
6 năm 2011 trên các trang báo mạng điện tử nêu trên.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng
điện tử, tìm ra lỗi văn hóa trong việc sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử,
luận văn đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, tránh lỗi, từ
đó phát huy hơn nữa các ưu thế nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông của báo
mạng điện tử.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan tới báo mạng điện tử, các đặc thù
ngôn ngữ của loại hình báo chí này cũng như mối quan hệ của báo mạng điện
tử với văn hóa.
- Từ góc nhìn văn hóa đánh giá thực trạng lỗi trong sử dụng ngôn ngữ trên
báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, cụ thể là hai trang báo Vnexpress.net,


8
Dantri.com và website Ngoisao.net xét trên các đặc thù ngôn ngữ được sử dụng
nhiều nhất của báo mạng điện tử cả ở bình diện nội dung và hình thức.
- Đúc rút kinh nghiệm, kiến nghị một số giải pháp để xây dựng chuẩn
mực văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử.
Tác giả luận văn hi vọng, với công trình nghiên cứu này sẽ phần nào
giúp ích cho những người làm báo và công chúng của báo mạng điện tử trong
việc cung cấp thông tin cũng như tiếp nhận thông tin.
6. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn được chia làm 3 chương cơ bản:

- Chương 1: Khái niệm báo mạng điện tử và lỗi văn hóa
- Chương 2: Thực trạng lỗi văn hóa trong sử dụng ngôn ngữ báo
mạng điện tử
- Chương 3: Kinh nghiệm và giải pháp khắc phục lỗi văn hóa trong
sử dụng ngôn ngữ báo mạng điện tử.


9
Chƣơng 1
KHÁI NIỆM BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ LỖI VĂN HÓA
1.1. Nhận thức chung về báo mạng điện tử
1.1.1. Các loại hình báo chí
Theo “Đại từ điển tiếng Việt” do GS. TS Nguyễn Như Ý chủ biên, nhà
xuất bản (Nxb) Đại học Quốc gia Thành phố Hô Chí Minh in năm 2008, trang
111 thì báo chí là “các ấn phẩm định kỳ, in trên giấy khổ lớn, có nhiều tin,
bài, ảnh để thông tin tuyên truyền”.
Có thể thấy khái niệm trên mới chỉ nói tới báo in, tạp chí, là loại hình
báo chí xuất hiện đầu tiên, mang tính truyền thống, chưa bao hàm hết được
các loại hình truyền thông đại chúng.
“Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà
Nẵng, 2009) đưa ra khái niệm đầy đủ hơn khi cho rằng báo là “hình thức
thông tin tuyên truyền có tính chất đại chúng, được thể hiện qua các ấn phẩm
định kỳ hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng khác như truyền thanh,
truyền hình, internet” [1, 235]
Theo Điều 3, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm
1989 được Quốc hội khóa X thông qua năm 1999, các loại hình báo chí gồm
“báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình
phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe – nhìn
thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo mạng
điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng

các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài”
Như vậy, ngoài báo in, tạp chí, báo chí còn bao gồm phát thanh, truyền
hình, báo ảnh, tạp chí và báo mạng điện tử.


10
Trong các loại hình báo chí trên thì báo mạng điện tử trẻ nhất, ra đời
muộn nhất nhưng có tốc độ phát triển mạnh mẽ nhất.1
1.1.2. Khái niệm báo mạng điện tử
Báo mạng hay báo chí internet tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra
đời và phát triển của hệ thống internet trên toàn cầu. Web (World Wide Web)
được sinh ra với mục đích tạo giao diện chung dễ sử dụng trong quá trình truy
cập thông tin trên internet. Vào cuối những năm cuối của thập kỷ 80 nó được
Tim Berners Lee, một nhà vật lý ở viện nghiên cứu hạt nhân châu Âu Cern đề
xuất và tiến hành nghiên cứu cùng với cộng sự của ông là Robert Caililau.
Năm 1991, người dùng được nhận bản thử nghiệm đầu tiên và từ đó một cuộc
cách mạng trên internet đã bùng nổ. Tháng 10/1993, Khoa báo chí Đại học
Florida (Mỹ) tung ra cái mà họ tự tin là tờ báo internet đầu tiên. Năm 1994,
phiên bản online của tạp chí Hotwired chạy những banner quảng cáo đầu tiên
và hàng loạt báo khác tại Mỹ ồ ạt mở website. “Cơn sốt vàng” của thời thông
tin trực tuyến bắt đầu. Một khảo sát lần đầu tiên về độc giả internet của hãng
dịch vụ thống kê truy cập Nielsen/NetRatings công bố mới đây cho thấy 1/5
số người lướt web thích đọc báo mạng hơn các phiên bản phi trực tuyến. Có
lẽ đó cũng chính là một động lực khiến các tờ báo giấy - vừa là để cạnh tranh
vừa là không thể cưỡng lại xu thế điện tử hóa - cũng đã phải lập tức triển khai
phiên bản điện tử, trong đó phần lớn phát hành lại các bài báo từ bản giấy và
có cập nhật thêm thông tin riêng.
Do báo mạng điện tử mới ra đời nên các nhà nghiên cứu hiện vẫn chưa có
cách gọi thống nhất đối với các loại hình báo chí này. Vì thế, dù thiếu tên quy
chuẩn nhưng báo mạng điện tử đồng thời cũng là loại hình báo chí nhiều tên nhất.

1

Theo tập thể tác giả trong cuốn “Báo phát thanh” do Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Đài tiếng nói Việt
Nam biên soạn (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2002), báo giấy xuất hiện từ cuối thế kỷ XVI. Những năm hai mươi của thế kỷ
XX, báo phát thanh ra đời. Hai mươi năm sau đó, báo chí có thêm sự góp mặt của truyền hình. Vào đầu thập niên 90 của
thế kỷ XX, báo mạng điện tử chính thức trình làng. Trong khí báo in, phát thanh và truyền hình phải mất vài chục năm để
phủ sóng toàn thế giới, báo mạng điện tử chỉ mất khoảng 10 năm.


11
Trên thế giới, loại hình báo chí này có những tên gọi như online newspaper
(báo chí trên mạng, báo trực tuyến), electronic – journal (báo điện tử)…
Ở Việt Nam cũng có nhiều cách gọi như báo điện tử, báo mạng, báo
internet, báo trực tuyến…Trong đó, báo điện tử là thuật ngữ được sử dụng
phổ biến nhất như báo Lao động điện tử, Nhân dân điện tử, báo điện tử
Vietnamnet, báo điện tử Vnexpress…Ngoài ra còn có thuật ngữ báo online
như Tuổi trẻ online, Tiền phong online…
Hiện nay vẫn chưa tìm được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu
báo chí và cơ quan quản lý Nhà nước về thuật ngữ này.
Các văn bản pháp quy của Việt Nam thường dùng thuật ngữ báo điện
tử. Luật báo chí được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X năm
1999 gọi loại hình báo chí này là báo điện tử. Văn bản luật cũng nêu rõ “báo
điện tử là loại hình báo chí được thực hiện trên mạng thông tin máy tính”
Văn bản pháp lý của Bộ Thông tin truyền thông cấp cho các tờ báo trực
tuyến đầu tiên của Việt Nam cũng được gọi là “Giấy phép hoạt động báo điện
tử”.
Đây cũng là thuật ngữ được dùng trong Nghị định 55/2001/NĐ-CP về
quản lý và cung cấp dịch vụ Internet, điều 12: “Dịch vụ thông tin trên Internet
là một loại hình dịch vụ ứng dụng internet, bao gồm dịch vụ phát hành báo
chí (báo in, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản ấn phẩm trên internet

và dịch vụ cung cấp các loại hình điện tử khác trên internet”
Tuy nhiên, nhiều tác giả của các công trình nghiên cứu lại có quan
điểm khác.
Theo tác giả Nguyễn Sỹ Hoàng trong bài viết Báo chí phát hành trên
mạng, suy nghĩ về một cái tên, Tạp chí người làm báo, số 3/2001 thì “thuật
ngữ điện tử có nghĩa rất chung chung, không giúp hiểu rõ đặc điểm của loại


12
hình báo phát hành trên như thuật ngữ báo trực tuyến. Theo định nghĩa của
các từ điển tin học, khái niệm trực tuyến hiểu theo nghĩa phổ biến nhất dùng
để chỉ trạng thái của một máy tính khi đã kết nối với mạng máy tính và sẵn
sàng hoạt động. Thuật ngữ này rất phù hợp với việc đọc báo phát hành trên
mạng. Để đọc được báo, người đọc phải có một máy tính có khả năng kết nối
vào mạng và ở tình trạng trực tuyến. Ở Việt Nam, khái niệm điện tử một thời
gian được sử dụng để chỉ phát thanh và truyền hình. Nếu sử dụng lại có thể
gây ra sự nhầm lẫn” [36, 40].
Đồng quan điểm này, tác giả Phan Văn Tú trong luận văn thạc sĩ Báo
chí học, năm 2006, ĐH KHXH&NV – ĐH QGHN, với đề tài “Báo chí trực
tuyến ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” cho rằng, khái niệm
báo trực tuyến là hợp lý. Tác giả viện giải, thuật ngữ “điện tử” không làm rõ
đặc điểm của báo chí phát hành trên mạng như thuật ngữ trực tuyến, nghĩa là
không làm rõ tính chất yêu cầu phải kết nối mạng của loại hình báo chí này.
Theo Phan Văn Tú, cách gọi báo trực tuyến là hợp lý “bởi nó cho phép nắm
bắt và hiểu một cách rõ ràng, nhanh chóng về bản chất, đặc trưng cô đọng
nhất của loại hình báo chí mới được hình thành và phát triển gắn chặt với
mạng internet” [26, 18].
Tuy nhiên, theo tác giả Nguyễn Thị Thoa, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, trong đề tài khoa học cấp cơ sở Trọng điểm về Tổ chức và quản lý báo
mạng điện tử ở Việt Nam (năm 2007), lại cho rằng, cả thuật ngữ báo điện tử

và báo trực tuyến đều chưa chuẩn xác.
Cụ thể, theo tác giả Nguyễn Thị Thoa, báo trực tuyến không thế nói hết
được đặc điểm của tờ báo mạng điện tử là sử dụng tối đa nền tảng kỹ thuật
của dịch vụ internet và sự sáng tạo của con người trong quy trình sản xuất
thông tin. Mặt khác, thuật ngữ báo trực tuyến chưa được Việt hóa. Còn thuật
ngữ báo điện tử dễ gây nhầm lẫn, đồng nhất loại hình báo chí thứ tư này với


13
hai loại hình báo điện tử trước đó là phát thanh và truyền hình. Hơn nữa cách
gọi như vậy không chuẩn xác về mặt khoa học. [28, 3-4].
Với các phân tích trên, tác giả Nguyễn Thị Thoa cho rằng, người Việt
Nam hay dùng từ internet = mạng (ví dụ như lên mạng, vào mạng, kết nối
mạng…). Thay vì gọi “báo internet” thì gọi “báo mạng” có vẻ Việt Nam và dễ
hiểu hơn.
Đây cũng là tên gọi được Học viên Báo chí & Tuyên truyền thống nhất
lựa chọn với các lý do:
Thứ nhất, tên gọi này khẳng định: Loại hình báo chí thứ tư này là con
đẻ của sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, hoạt động được nhờ
các phương tiện kỹ thuật số tiên tiến, các máy tính nối mạng và các server,
các phần mềm ứng dụng.
Thứ hai, tên gọi này cho phép hiểu một cách chính xác về bản chất, đặc
trưng cơ bản của loại hình báo chí thứ tư: tính đa phương tiện, tính tương tác
cao, tính tức thời, tính phi định kỳ, khả năng truyền tải thông tin không hạn
chế, lưu trữ thông tin dưới dạng siêu văn bản, khả năng siêu liên kết – các trang
báo được tổ chức thành từng lớp, có cơ chế nở ra với số trang không hạn chế.
Thứ ba, tên gọi này chỉ rõ: người làm báo và người đọc báo phải có
trình độ kỹ thuật nhất định, có thể giao lưu với nhau trực tiếp bằng nhiều hình
thức như email, chat, diễn đàn…
Thứ tư, tên gọi này là sự kết hợp các tên gọi có nội dung riêng biệt như

báo, mạng, điện tử. Chính vì vậy, tên gọi này thỏa mãn các yếu tố Việt hóa,
đặc trưng khu biệt của loại hình báo chí thứ tư, khắc phục được sự thiếu về
nghĩa, sự máy móc của từ ngoại lai” [28, 6].
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng để tạo sự thống nhất trong
quá trình nghiên cứu cũng như trình bày, trong luận văn này sử dụng thuật
ngữ báo mạng điện tử.


14
1.1.3. Đặc điểm của báo mạng điện tử
Có thể mô tả diện mạo của một tờ báo mạng điện tử hoàn chỉnh như
một cấu trúc mở rộng về không gian cho nhiều đối tượng bạn đọc, dày về thời
gian với sự tích lũy nhiều tầng thông tin. Một cơ cấu giao diện hai chiều giữa
toà soạn và bạn đọc, một tổ hợp dịch vụ thông tin đa dạng đọc, nghe, nhìn
phong phú. Bởi vậy mà loại hình báo chí này chứa rất nhiều ưu điểm.
Thứ nhất, tính đa phương tiện. Nhờ tính đa phương tiện, báo mạng điện
tử có khả năng tích hợp được ưu thế của các loại hình báo chí khác như tính
văn bản và khả năng lưu trữ dưới dạng văn bản của báo in, hình ảnh động và
âm thanh của truyền hình, âm thanh của phát thanh. Nó cũng khắc phục được
tính đơn điệu và tĩnh của báo in cũng như hạn chế trong trật tự tuyến tính thời
gian phát sóng của phát thanh và truyền hình. Trên báo mạng điện tử, công
chúng có thể đọc, nghe và xem. Các yếu tố chữ viết, đồ họa, video clip được
sử dụng linh hoạt tạo ra nhiều cổng thông tin để công chúng tiếp cận dễ dàng.
Chính sự tích hợp này làm cho báo mạng điện tử thực sự phong phú, đa dạng,
sinh động và hấp dẫn trong cách truyền tải thông tin.
Thứ hai, tính tương tác. Đây vốn là một hạn chế của các loại hình báo
chí khác nhưng lại là một lợi thế của báo mạng điện tử. Ở đây, độc giả có thể
phản hồi ngay tức thì các ý kiến của mình về bài viết của phóng viên dưới
từng bài báo hoặc gửi tới tòa soạn các thông tin, vấn đề mình quan tâm thông
qua hệ thống mạng. Có thể nói, không có loại hình báo chí nào hiện nay có

thể cạnh tranh với báo mạng điện tử về khả năng tương tác. Nhiều khi, một
bài báo nhưng có tới hàng trăm ý kiến phản hồi gửi về tòa soạn, trong đó có
hàng chục ý kiến được đăng tải và nhiều khi, ý kiến phản hồi của độc giả còn
dài hơn dung lượng tác phẩm, mở ra thêm khía cạnh khác cho bài báo, thậm
chí được tòa soạn biên tập, cấu thành các bài báo độc lập.


15
Lợi thế này cũng được các tòa soạn báo mạng điện tử khai thác triệt để
để thực hiện các cuộc giao lưu trực tuyến, tư vấn trực tuyến hoặc tổ chức các
chuyên trang dành cho bạn đọc cùng tham gia báo (như báo Tuổi trẻ,
Vnexpress). Chính khả năng tương tác cao của báo mạng điện tử đã là một
cầu nối kéo công chúng lại gần hơn.
Thứ ba, tính thời sự của thông tin. Đây là một lợi thế vượt trội khác của
báo mạng điện tử mà các loại hình báo chí khác khó có thể cạnh tranh. Nếu
báo in bị giới hạn bởi thời gian in, phát hành báo, báo mới hôm nay chỉ có thể
đăng tải các thông tin của hôm qua thì báo mạng điện tử có thể cập nhật thông
tin tới từng giây. Ngay khi sự kiện xảy ra phóng viên đã đưa thông tin ban đầu
lên mạng, có thể chỉ là tít và một câu thông báo sự kiện, sau đó liên tục cập
nhật các thông tin mới.
Đội ngũ làm báo vẫn thường có câu nhận định về vai trò cũng như thế
mạnh của các loại hình báo chí trước một sự kiện là “phát thanh đưa tin,
truyền hình phản ánh, báo in bình luận”. Tuy nhiên “đối với các sự kiện lớn
được công chúng quan tâm, báo điện tử có thể tường thuật trực tiếp sự kiện
bằng hình ảnh, bằng âm thanh (web TV) kết hợp với chữ viết để độc giả có
thể theo dõi thông tin liên tục và đa chiều ngay khi sự kiện đang diễn ra”
[40,11]. Phát thanh, truyền hình mặc dù cũng có thể đưa thông tin nóng,
nhanh nhưng lại bị lệ thuộc nhiều vào hệ thống máy móc trong khi phóng
viên báo mạng điện tử có thể tác nghiệp khá linh hoạt, chỉ cần một máy tính
kết nối mạng hoặc gọi điện về cho người ở tòa soạn cập nhật, phát tin bài.

Ngày nay, với sự hỗ trợ của phương tiện máy móc, phát thanh và
truyền hình có thể làm trực tiếp tại hiện trường, nhưng do hạn chết về thời
lượng phát sóng nên tốc độ cập nhật thông tin không thể liên tục được như
báo mạng, nơi mà phóng viên có thể “tiếp tục cập nhật”, bổ sung thông tin


16
trong từng phút. Chính khả năng cập nhật thông tin liên tục của báo mạng
điện tử giúp cho loại hình báo chí này chiếm ưu thế tuyệt đối về tính thời sự
của thông tin, đồng thời phá vỡ tính định kì vốn là một đặc trưng của báo chí.
Đây cũng là lý do để tác giả Phan Anh gọi phóng viên báo mạng điện tử là
“vừa chạy, vừa xếp hàng” [38, 21]. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với
việc áp lực về tốc độ thông tin của phóng viên báo mạng điện tử là rất lớn vì
sự cạnh tranh thông tin giữa các báo có khi chỉ được tính bằng giây.
Bên cạnh các ưu thế trên, báo mạng điện tử còn là loại hình báo chí có
khả năng chuyển tải thông tin khổng lồ nhất là khi không hạn chế bởi diện
tích trang như báo giấy hay thời lượng phát sóng như phát thanh, truyền hình.
Chính sự không giới hạn về số trang giúp cho báo mạng điện tử có thể đăng
tải rất nhiều thông tin phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực chuyên biệt đáp
ứng yêu cầu tin tức ngày càng lớn của công chúng.
Khả năng siêu liên kết, tìm kiếm và lưu trữ thông tin cũng là một lợi thế
riêng của các báo mạng điện tử. Chỉ cần một lần bấm chuột và các cụm từ đã
được lập đường dẫn sẵn trong bài báo, độc giả có thể tìm thấy các thông tin
khác có liên quan hoặc loạt các bài báo về cùng một vấn đề, một sự kiện.
Thông thường, với các sự kiện gây được tiếng vang trong xã hội, được dư
luận quan tâm, các báo mạng điện tử sẽ tập hợp thành một chùm bài để công
chúng theo dõi. Người đọc cũng có thể chủ động tìm các thông tin mà mình
cần thông qua hệ thống tra cứu được đặt ngay trên măng séc của các báo. Báo
mạng điện tử là một kho thông tin khổng lồ mà người đọc có thể tra cứu, tìm
kiếm dễ dàng. Nếu để tìm các bài viết xung quanh một sự kiện trên báo giấy,

người ta có thể mất cả tháng để lật lại từng số báo, và công việc càng cực
nhọc hơn nếu các thông tin liên quan đến sự kiện đó kéo dài từ năm này qua
năm khác thì với báo mạng, chỉ cần một nháy chuột hoặc gõ cụm từ cần tìm
kiếm và ấn phím enter.


17
Tuy có nhiều lợi thế nhưng báo mạng điện tử cũng có không ít hạn chế.
Mặc dù báo mạng điện tử có số trang không hạn chế nhưng việc tiếp
xúc tin bài của độc giả chỉ bó hẹp trong giao diện màn hình máy tính, vì thế,
việc đọc thông tin trên máy tính cũng dễ gây mỏi, nhức mắt.
Tốc độ thông tin nhanh chóng là một lợi thế nổi trội của báo mạng điện
tử nhưng nó cũng đặt ra thách thức về độ tin cậy của thông tin. Do khối lượng
thông tin đăng tải lớn, yêu cầu về tính thời sự của thông tin cao nên thời gian
để kiểm định thông tin khá hạn chế. Vì thế, nhiều khi chất lượng thông tin
trên báo mạng điện tử chưa được cao như mong đợi. Thậm chí, nhiêu phóng
viên, nhà báo lợi dụng chính hạn chế này để cẩu thả trong tác nghiệp. Các lỗi
diễn đạt hoặc chính tả trên báo mạng điện tử nhiều hơn so với báo in. Theo
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thu Giang, công chúng nhận định: mặc dù độ
cập nhật tin tức của hơn nhiều so với báo in nhưng mức độ tin cậy của tin tức
trên báo mạng điện tử lại “kém nhiều” [23, 95].
Sau phát thanh truyền hình, truyền thông điện tử cuốn mọi quốc gia vào
thời đại thông tin mở. Với sự tồn tại trôi nổi trên mạng vô số những website
đủ màu sắc, với sự mở rộng mạng lưới internet đến từng trường học, đến các
vùng nông thôn xa xôi, vào tận các gia đình riêng, sự giao lưu thông tin hầu
như đã và sẽ càng chọc thủng biên giới ngăn cách giữa các quốc gia, giữa các
nền văn hoá và giữa các xu hướng chính trị. Chúng ta phải thừa nhận một
điều rằng: Quyền lực của một tờ báo chính là bạn đọc. Bạn đọc càng đông, tác
động xã hội càng lớn. Từ khuynh hướng xã hội của nó thì tác động ấy có thể
tốt nhưng cũng có thể xấu. Bản thân độc giả nhiều khi cũng là nạn nhân. Bởi

đứng trước một khối lượng khổng lồ thông tin trên các tờ báo mạng mang
nhiều màu sắc, khuynh hướng khác nhau khiến họ bị rơi vào một mê hồn trận
thông tin, không biết thật giả.


18
Ngoài ra, báo mạng cũng phải đối diện với một vấn đề rất lớn đó là có
thể bị “biên tập” lại ngay khi đã được ban biên tập chỉnh sửa rồi. Với tình
trạng “hỗn quân hỗn quan” hiện nay của internet, điều này khó có thể tránh
khỏi. Các hacker có thể tấn công bất cứ một site nào khi họ tìm được lỗi của
hệ thống.
Một mặt trái nữa là không phải ai cũng có điều kiện trở thành công
chúng của báo mạng điện tử. Để đọc báo mạng điện tử, cần có máy tính kết
nối mạng internet, người đọc cũng phải biết sử dụng máy tính cũng như cách
truy cập internet. Đây cũng là lý do báo mạng điện tử chủ yếu phủ sóng ở các
khu đô thị và trong giới trẻ. Khu vực nông thôn, miền núi vẫn là thị trường
gần như độc quyền của báo giấy, phát thanh và truyền hình.
Như vậy, bên cạnh vai trò tích cực và to lớn của loại hình truyền thông
điện tử, chúng ta cũng nên nhận diện sâu sắc mặt trái, mặt phức tạp của nó,
những thách thức mà nó mang lại, đặc biệt là việc gây ra các lỗi văn hóa trong
việc sử dụng ngôn ngữ truyền thông đặc trưng của mình.
1.1.4. Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử Việt Nam trong thời
kì hội nhập
Cùng với xu hướng phát triển của báo mạng điện tử trên thế giới là trở
thành một phương tiện truyền thông hữu dụng, tiện ích và được ưa chuộng
nhất, báo mạng điện tử Việt Nam cũng đang có những bước phát triển đáng
kể trong quá trình cung cấp thông tin cho độc giả.
Đưa tin nhanh là một lợi thế và cũng là một tiêu chí hàng đầu của các
báo mạng điện tử. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các tờ báo mạng
điện tử, để có thể thu hút độc giả các tòa soạn phải đẩy nhanh tốc độ cập nhật

thông tin. Những sự kiện thời sự nóng (breaking news) là trận địa nóng bỏng
nhất. Họ thường huy động sức mạnh tổng lực cho những sự kiện này. Để chạy


19
đua đưa tin sớm nhất, trước hết, báo mạng điện tử có thể chỉ chạy một cái tít
và một câu mở đầu tin để thông báo sự kiện mới xảy ra. Sau đó họ mới bổ
sung dần thông tin, ảnh, các dữ liệu khác.
Đối với những sự kiện lớn được công chúng quan tâm đặc biệt, họ còn
có thể tường thuật trực tiếp sự kiện bằng hình ảnh (web TV) và bằng chữ để
độc giả có thể theo dõi liên tục sự kiện đang diễn ra.
Nhưng vấn đề quan trọng đầu tiên là làm thế nào để có được thông tin
sớm nhất. Ngoài số lượng phóng viên có hạn của mình theo dõi từng lĩnh vực,
các báo chỉ có thể dựa vào mạng lưới đông đảo cộng tác viên và cộng đồng
bạn đọc thân thiết gắn bó với tờ báo. Tờ báo nào xây dựng được đội quân này
đông đảo hùng mạnh thì càng có nhiều cơ hội tiếp nhận được thông tin nhanh.
Một xu hướng mới của báo mạng điện tử Việt Nam là công chúng tham
gia ngày càng nhiều vào nội dung tờ báo. Trong rất nhiều trường hợp, bạn
đọc không chỉ thông báo sự kiện cho báo mà họ còn ghi hình chụp ảnh và
tường thuật sự kiện. Có rất nhiều clip do bạn đọc cung cấp đã mang thông tin
kịp thời cho nhà báo, tòa soạn và công chúng. Điều này làm phát huy hơn nữa
khả năng nhanh nhạy và tính tương tác của báo mạng điện tử.
Một xu hướng nữa của báo mạng điện tử là tích hợp nhiều loại hình
báo chí. Giờ đây khi vào một trang báo, công chúng không chỉ được đọc bài
viết của phóng viên mà còn có thể theo dõi được cả bài viết đó dưới nhiều loại
hình khác như là phát thanh, clip. Để có thể hút công chúng và tận dụng tối đa
ưu thế của công nghệ, các tờ báo mạng điện tử ngày nay đã kết hợp nhiều loại
hình truyền thông vào tờ báo trực tuyến của mình. Từ cập nhật bài viết của
báo in, xây dựng các chương trình phát thanh, xem các clip… Điều đó đã tạo
ra sự đa dạng cho tờ báo điện tử.



20
Cùng một sự kiện được đưa tin, bên cạnh bài viết về vấn đề đó còn có
vài bức ảnh để minh họa cho bài viết. Nếu như sự kiện đó có ảnh hưởng lớn
thì tòa soạn có thể phát triển ra thành các bài tin ảnh, một bài phát thanh và
thậm chí sẽ thực hiện cả một clip để kết hợp tạo ra hiệu quả thông tin tốt nhất.
Với sự phát triển của cơ sở hạ tầng kĩ thuật và tốc độ đường truyền internet
nhanh chóng, không có khó khăn gì để thực hiện những điều đó.
Cùng với sự cập nhật xu hướng phát triển của thế giới, tốc độ phủ sóng
ngày càng nhanh của internet trên thị trường Việt Nam, báo mạng điện tử ngày
càng chiếm lĩnh lực lượng công chúng đông đảo hơn, nhất là với giới trẻ2.
Nhận thức được điều này, hàng loạt các tờ báo giấy cũng nhanh chóng
cho ra phiên bản báo mạng điện tử như Tuổi trẻ với tuoitre.com.vn, Tiền
phong với tienphongonline.com.vn…, Nhân dân với nhandan.com.vn, Lao
động với laodong.com.vn, Sài Gòn giải phóng có sggp.org.vn…
Sau khoảng 20 năm hình thành và phát triển, hiện số lượng báo mạng
điện tử ở Việt Nam đã rất phong phú và được chia làm hai dạng. Thứ nhất là
các tờ báo mạng điện tử hình thành và phát triển độc lập, không kèm báo giấy
như Vietnamnet.com, Vnexpress.net, Ngosao.net, Dantri.com…Đây cũng là
những tờ báo điện tử có lượng công chúng lớn.
Loại thứ hai là báo mạng điện tử ra đời gắn liền với các tờ báo “mẹ” là
báo giấy như Tuổi trẻ, Tiền phong, Thanh niên, Lao động, Đất Việt…Các báo
này hầu như là những phiên bản báo giấy, đăng lại các bài trên báo giấy. Mặc
dù thời gian gần đây, các tòa soạn này cũng đã có nhiều cố gắng để phát triển
báo mạng điện tử độc lập nhưng về cơ bản, nó vẫn chịu sự chi phối lớn của
các tờ báo giấy.
2

Nghiên cứu của thạc sĩ Nguyễn Thu Giang trong đề tài luận văn cao học ngành báo chí của Khoa Báo chí và truyền

thông, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN, năm 2007, với đề tài Công chúng Hà Nội với việc đọc báo in và báo điện tử, cho
biết: “Nếu như tuyệt đại đa số người từ 15 – 24 tuổi đã từng vào mạng internet, chiếm 99% thì tỉ lệ này ở độ tuổi trên 65
chỉ chiếm 18%” ( Tr.57)


21
1.2. Nhận thức chung về văn hóa và lỗi văn hóa
1.2.1. Khái niệm về văn hóa
Thế giới hiện nay là thế giới toàn cầu hóa và hội nhập, một thế giới mở
cửa, văn hóa được mọi người, mọi quốc gia chú ý. Tiếp cận xã hội ở bất cứ
lĩnh vực nào, góc độ nào đều ít nhiều động chạm đến văn hóa.
Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng
theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), hành vi ứng xử (thể hiện
ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ hành động của con người với bản thân, với người
xung quanh trong công việc và môi trường hoạt động hàng ngày. Theo nghĩa
chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)…
Nói theo nghĩa rộng, văn hóa là tất cả những giá trị tinh thần và vật chất
mà con người đã tạo ra trong quá trình lịch sử của mình, là biểu hiện trình độ của
xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là trình độ nhận thức tự nhiên,
xã hội. Nó bao gồm trong đó có tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nghệ thuật…
Như vậy, văn hóa là tổng thể các giá trị tình cảm và tri thức, vật chất và
tinh thần, là hệ thống giá trị gắn liền với con người, với lịch sử. Nó là những giá
trị vật chất có thể nắm bắt được như đền đài, miếu mạo…và cả những giá trị phi
vật chất như nếp sống, lối ứng xử, giao tiếp, hành vi, đạo đức…Văn hóa vừa là
nền tảng xây dựng xã hội, vừa là động lực giải quyết các vấn đề xã hội.
Cho tới thời điểm hiện tại đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Vào
cuối thế kỉ XIX, Edward Bernett Tylor, nhà xã hội học về văn hóa người Anh là
người đầu tiên cung cấp cho văn hóa một định nghĩa được mọi người chấp nhận
rộng rãi: “Văn hóa là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và một số năng lực, thói quen khác được con

người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội” [35, 13].


×