Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.39 KB, 10 trang )


Ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử
Việt Nam hiện nay

Phạm Thị Mai

Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
Luận văn ThS ngành: Truyền thông đại chúng; Mã số: 60 32 01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Hoàng Anh
Năm bảo vệ: 2010


Abstract: Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến ngôn ngữ thể loại tin.
Đánh giá thực trạng sử dụng ngôn ngữ thể loại tin trên các báo mạng điện
tử Việt Nam hiện nay, cụ thể là trên các báo Vietnamnet và Vnexpress, xét
trên hai bình diện là nội dung và hình thức (kết cấu tin), chỉ ra những điểm
còn hạn chế. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử
dụng ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử.
Keywords: Ngôn ngữ thể loại tin; Báo mạng điện tử; Tin tức; Báo chí
Content
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1992, phiên bản điện tử của tờ Chicago “ra mắt” ở Mỹ, đánh dấu sự ra đời
của loại hình báo chí hoàn toàn mới trên thế giới: loại hình báo mạng điện tử, hay còn gọi
là báo trực tuyến, báo internet.
Đây cũng là loại hình báo chí du nhập vào nước ta trong khoảng thời gian ngắn
nhất. Nếu như báo in ở nước ta xuất hiện sau các nước trên thế giới hàng trăm năm, với
phát thanh, truyền hình là hàng chục năm thì với báo điện tử, khoảng thời gian này chỉ
mất 5 năm. Tháng 12/1997, tạp chí Quê hương công bố trang báo mạng điện tử của mình,
đánh dấu mốc cho sự hình thành và phát triển loại hình báo chí này tại Việt Nam. Làng
báo Việt Nam có thêm một thành viên mới.
So với các loại hình báo chí trước đó, báo mạng điện tử có rất nhiều lợi thế vượt


trội. Nó phá vỡ tính định kỳ của báo chí, tính chất thời sự của thông tin được đẩy nhanh
lên từng phút, từng giây. Để đăng tải thông tin, người ta không cần một hệ thống nhà in
hay máy phát sóng mà chỉ cần một máy tính nối mạng và ấn enter.
Báo mạng với dung lượng gần như vô tận cũng phá vỡ sự gò bó về mặt diện tích
của báo in hay thời lượng phát sóng của truyền hình, phát thanh. Số lượng tin bài đăng tải
không hạn chế. Điều này làm cho thông tin vừa đảm bảo tính thời sự, vừa phong phú
hơn…
Chính vì có nội dung thông tin phong phú, số lượng tin bài nhiều nên vấn đề sử
dụng tốt các thành tố ngôn ngữ để chuyển tải thông tin một cách có hiệu quả rất quan
trọng đối với báo mạng điện tử. Ngôn ngữ báo mạng điện tử hiểu theo nghĩa rộng gồm
chữ viết, âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh tĩnh… còn theo nghĩa hẹp, đó là ngôn ngữ
tồn tại dưới dạng chữ viết. Luận văn này của chúng tôi chỉ khảo sát ngôn ngữ hiểu theo
nghĩa hẹp này.
Như chúng ta đều biết, dùng từ, câu mơ hồ, không rõ nghĩa, sẽ làm cho độc giả
mất thời gian đọc mà không tiếp nhận được thông tin, còn dùng sai từ sẽ dẫn đến việc
người đọc hiểu sai thông tin. Bài báo lúc đó không chỉ không có hiệu quả mà nhiều khi
còn phản tác dụng. Cả hai điều trên đều làm xói mòn niềm tin của công chúng với tờ báo.
Mặt khác, báo chí là hoạt động truyền thông đại chúng, nghĩa là tác động tới số đông, là
một trong những kênh thông tin chủ yếu để hình thành dư luận xã hội, là kênh thông tin
có vai trò định hướng tư tưởng, vì thế, thông tin sai sẽ khiến tới việc định hướng sai, tạo
dư luận xã hội lệch lạc, gây hiệu quả xã hội không tốt.
Trong khi đó, báo mạng điện tử với đặc thù lưu hành trên mạng internet toàn cầu
nên tốc độ chuyển tải thông tin gần như đồng thời, ngay khi tòa soạn phát tin thì ở tận
bên kia Trái Đất, người ta đã có thể tiếp nhận thông tin. Sau khi người phụ trách đưa tin
bài lên trang quyết định phát tin và ấn phím enter thì lập tức, hàng triệu người trên toàn
cầu có thể tiếp nhận thông tin cùng một lúc. Vì thế, đăng tải thông tin sai sẽ làm cho hàng
triệu triệu người ở khắp nơi thu nhận sai, dẫn tới nhận thức sai và có thể có hành động
sai. Xét ở một góc độ khác, việc dùng ngôn ngữ chữ viết không chuẩn cũng làm giảm sút
sự trong sáng của ngôn ngữ tiếng Việt.
Là một thể loại xung kích đặc biệt quan trọng của báo điện tử (vì mang tính thời

sự cao), thể loại tin cũng chịu sự chi phối của các yếu tố trên. Tin chiếm tới 80% lượng
tin bài trên các báo điện tử [2, 66]. Vì thế, việc nâng cao chất lượng chuyển tải thông tin
của thể loại này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nâng cao chất lượng báo mạng điện
tử. Bên cạnh đó, cũng giống như các thể loại báo chí khác của báo mạng điện tử, ngôn
ngữ chữ viết là thành tố chính của ngôn ngữ thể loại tin. Vì thế, để nâng cao chất lượng
thể loại tin thì nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ chữ viết là yếu tố quyết định đầu tiên.
Như đã phân tích ở trên, việc sử dụng sai ngôn ngữ chữ viết trên báo mạng điện tử
nói chung và ngôn ngữ chữ viết của thể loại tin trên loại hình báo chí này nói riêng sẽ gây
ra những tác động xấu khó lường. Tuy nhiên, hiện nay, việc sử dụng chưa hiệu quả ngôn
ngữ chữ viết vẫn xảy ra khá nhiều trên các tin của báo mạng điện tử Việt Nam.
Trên các trang báo mạng điện tử, công chúng có thể gặp không ít các lỗi như sai
chính tả, dùng từ sai, ngữ pháp không chuẩn, câu mơ hồ… Những hiện tượng này đã làm
lệch lạc thông điệp mà tòa soạn muốn chuyển tải, đồng thời làm sai lệch ngôn ngữ tiếng
Việt.
Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện
tử là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, chưa có công trình nào
nghiên cứu sâu về đề tài này. Có thể thấy một số nghiên cứu của các tác giả như PGS.TS.
Hoàng Anh về ngôn ngữ sapô, các đặc điểm của ngôn ngữ báo mạng điện tử, một số bài
dịch của tác giả Lê Quốc Minh trên trang Vietnamjournalism.com.vn hoặc một số bài viết
trong cuốn Những thủ thuật làm báo điện tử của Nhà xuấn bản Thông tấn in năm 2006…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này không mang tính hệ thống và không đi sâu vào
một thể loại cụ thể.
Công trình của chúng tôi là công trình đầu tiên nghiên cứu về đề tài ngôn ngữ thể
loại tin trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một loại hình báo chí mới nên trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng,
những công trình nghiên cứu về báo mạng điện tử chưa nhiều. Công trình nghiên cứu về
ngôn ngữ báo mạng điện tử càng ít hơn.
Với cuốn “Writing for the web” (Viết bài cho web) in năm 1999, tác giả Kilian
Crawford gần như là người đầu tiên (theo các tài liệu liên quan mà chúng tôi thu thập

được) đề cập khá chi tiết việc sử dụng ngôn ngữ trong các bài viết được đăng tải trên
mạng. Tác giả chỉ dẫn từ việc dùng từ, đặt câu đến trình bày đoạn văn như dùng dạng câu
chủ động thay cho bị động, đặt câu đơn giản, đoạn văn không nên quá 70 chữ, dài nhất
là gồm 4 dòng, các đoạn cách nhau một dòng…[2, 61].
Tiếp đó, năm 2002, một tác giả khác là Mike Ward cho ra mắt cuốn “Journalism
Online” (Báo chí trực tuyến). Cuốn sách chỉ ra những điểm nổi bật mà các nhà báo cần
quan tâm khi sử dụng ngôn ngữ trong loại hình báo chí này như cần ngắn gọn, súc tích,
dung lượng chỉ bằng 50% so với báo in, đi thẳng vào vấn đề, mỗi câu chỉ mang một ý
hoặc một thông tin nhất định, dùng từ dễ hiểu và gần gũi…[2, 62].
Có thể nói, các tác giả đã nghiên cứu khá chi tiết về cách viết cho báo mạng điện
tử. Tuy nhiên, đây là những nghiên cứu mang tính tổng thể về việc viết như thế nào, sử
dụng ngôn từ như thế nào để phù hợp với việc thông tin trên báo mạng điện tử nói chung
chứ không đi sâu vào một thể loại báo chí cụ thể.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo điện tử rất ít. Hiện có
một số cuốn sách chuyên sâu về ngôn ngữ báo chí là “Ngôn ngữ báo chí” của tác giả
Nguyễn Tri Niên (năm 2006), “Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí” (năm
2003) và “Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng” (năm
2008) của PGS.TS. Hoàng Anh, giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, “Ngôn
ngữ báo chí” của PGS.TS. Vũ Quang Hào, giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn (ĐH KHXH&NV), Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐH QGHN) in năm 2004 (tái
bản năm 2007, 2010). Tuy nhiên, các cuốn sách này đều không bàn về ngôn ngữ báo
mạng điện tử mà chỉ nói tới ngôn ngữ báo chí nói chung.
Cuốn “Các thủ thuật làm báo điện tử” trong bộ sách “Sổ tay phóng viên” được nhà
xuất bản Thông tấn in năm 2007 có thể coi là cuốn đầu tiên bàn sâu về vấn đề ngôn ngữ
báo mạng điện tử. Tuy nhiên, giống như hai tác giả Kilian Crawford và Mike Ward đã
nói ở trên, cuốn sách này chỉ tập trung đi vào hướng dẫn cách đặt tít như thế nào, viết
sapô làm sao, dung lượng câu bao nhiêu… chứ không đi theo thể loại.
Trên website Vietnamjournalism.com, tác giả Lê Quốc Minh có một số bài viết về
vấn đề sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện tử như “Giật tít trên báo điện tử”, “Nguyên
tắc viêt bài cho báo điện tử”, “Đặt tít ngắn”, “Thủ thuật biết bài cho website”. Loạt bài

này cũng giống như cuốn “Các thủ thuật làm báo điện tử”, thiên về kỹ năng nghề nghiệp
chung cho báo mạng điện tử trên cơ sở kinh nghiệm và không đi vào nghiên cứu trên một
thể loại cụ thể với những khảo sát mang tính cứ liệu khoa học.
Bên cạnh đó, có thể kể tới một số luận văn, khoá luận tốt nghiệp của học viên, sinh
viên chuyên ngành báo chí. Tác giả Nguyễn Thu An trong “Ngôn ngữ báo chí Internet”
(Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành báo chí, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN) có nghiên cứu
về ngôn ngữ báo mạng điện tử nhưng theo hướng chỉ ra các đặc điểm chung về ngôn ngữ
của loại hình báo chí này.
Nhiều luận văn, khoá luận khác có bàn về báo điện tử nhưng chỉ xoay quanh các
vấn đề về quảng cáo (Nguyễn Thị Thanh Hoa, “Hiện trạng và xu hướng quảng cáo trên
báo trực tuyến”, khoá luận tốt nghiệp K45, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN), về tính tương
tác của báo trực tuyến (Vũ Thị Huệ, “Sự tương tác giữa báo chí trực tuyến với công
chúng”, khoá luận tốt nghiệp K45, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN), về vấn đề sử dụng tít
(Khương Thị Ngọc Thương, “Thực trạng sử dụng tít báo trên báo điện tử Việt Nam hiện
nay”, khoá luận tốt nghiệp K49, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN)…
Một số khoá luận có nghiên cứu chuyên sâu về từng thể loại như phóng sự (Lê
Minh Thanh, “Phóng sự báo chí trực tuyến”, khoá luận tốt nghiệp K47, ĐH KHXH&NV,
ĐH QGHN) hay giao lưu trực tuyến (Tô Mai Trang, “Giao lưu trực tuyến”, khoá luận tốt
nghiệp K47, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN).
Chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào thể loại tin trên báo mạng điện tử.
Vấn đề ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử lại càng là vấn đề mới, còn bỏ ngỏ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt
Nam hiện nay, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế, phát huy
hơn nữa các ưu thế nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông của thể loại tin trên báo mạng
điện tử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến ngôn ngữ thể loại tin.

- Đánh giá thực trạng sử dụng ngôn ngữ thể loại tin trên các báo mạng điện tử Việt
Nam hiện nay, cụ thể là trên các báo Vietnamnet và Vnexpress, xét trên hai bình diện là
nội dung và hình thức (kết cấu tin), chỉ ra những điểm còn hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ thể
loại tin trên báo mạng điện tử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, khảo sát trên các
báo mạng điện tử Vietnamnet và Vnexpress.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tin đã đăng tải trên báo mạng điện tử Vietnamnet và Vnexpress từ tháng 3 đến
tháng 5 năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phuơng pháp luận: Đề tài được tiến hành dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Phương pháp chung: Khảo sát thực tiễn, xử lý tài liệu, phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê…
6. Ý nghĩa của đề tài
Về lý luận: Trên cơ sở khảo sát thực tiễn, đề tài góp phần làm rõ hơn những vấn đề
lý luận về ngôn ngữ báo chí được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm như ngôn ngữ báo
mạng điện tử, ngôn ngữ tin trên báo mạng điện tử…
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các toà
soạn báo, các phóng viên và biên tập viên báo mạng điện tử tham khảo. Trên cơ sở đó,
giúp họ có ý thức sâu sắc hơn về việc sử dụng ngôn ngữ đối với thể loại tin, có những
điều chỉnh phù hợp theo hướng tích cực trong việc sử dụng ngôn ngữ thể loại tin trên báo
mạng điện tử, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả truyền thông.
Ngoài ra, đề tài cũng có giá trị tham khảo đáng kể đối với các nhà nghiên cứu về
ngôn ngữ báo chí nói chung và ngôn ngữ báo mạng điện tử nói riêng, đối với các giảng
viên, học viên và sinh viên chuyên ngành báo chí của các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp, các trung tâm đào tạo về báo chí - truyền thông.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử - Những vấn đề lý luận.
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm nâng cao hiện quả việc sử dụng
ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay.

References
1. Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí, Nxb Lao động, Hà
Nội.
2. Hoàng Anh (2008), Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại
chúng, Nxb ĐH QGHN , Hà Nội.
3. Phan Anh (2007), Báo điện tử: vừa chạy vừa xếp hàng, Tạp chí Người làm báo, tháng
11/2007.
4. Hoàng Anh (2007), Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên Đài tiếng nói Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp bộ.
5. Đức Dũng (1992), Ký báo chí, Nxb Thông tin, Hà Nội.
6. Đức Dũng (2004), Viết báo như thế nào?, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội
7. Đức Dũng (2004), 100 câu hỏi về cách viết báo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Trường Giang (2005), Tài liệu môn học Nhập môn báo mạng điện tử.
9. Nguyễn Thị Trường Giang, Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử Việt Nam,
ngày 4/8/2010.
10. Cẩm Hà (2007), Săn tin chỉ cần đừng ngại, Tạp chí Người làm báo, số tháng 3/2007.
11. Nguyễn Thu Giang, Công chúng Hà Nội với việc đọc báo in và báo điện tử, Luận văn
thạc sĩ, Khoa Báo chí và Truyền thông, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN.
12. Trần Dzĩ Hạ (2005), Thuật làm báo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
13. Vũ Quang Hào (2004), Ngôn ngữ báo chí, Nxb ĐH QGHN, Hà Nội.
14. Nguyễn Sỹ Hoàng (2001), Báo chí phát hành trên mạng, suy nghĩ về một cái tên, Tạp
chí Người làm báo, số 3/2001.

15. Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Đài tiếng nói Việt Nam (2002), Báo phát thanh,
Nxb Văn hóa – Thông tin.
16. Đỗ Quang Hưng (2005), Lịch sử báo chí Việt Nam 1965-1945, Nxb ĐH QGHN, Hà
Nội.
17. Nguyễn Hưng, Báo mạng là “sở hữu tập thể”, Tạp chí Tia sáng tháng 11/2007.
18. Hà Thu Hương (2002), Đặc điểm công chúng độc giả báo internet Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
19. Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN) (2005), Thể
loại báo chí, Nxb Đại học quốc gia TP.HCM, TP.HCM.
20. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí năm 1989
21. Vũ Thị Ngọc Mai (2001), Đầu đề tác phẩm báo chí thể thao trên trang nhất, Luận
văn thạc sĩ, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
22. Hoàng Lê Minh và nhóm cộng sự, 2005, Nghề phóng viên, Nxb Lao động, Hà Nội.
23. Lê Quốc Minh, Giật tít cho báo điện tử,
, ngày 29/10/2004.
24. Lê Quốc Minh, Đặt tít ngắn, , ngày 14/1/2005.
25. Lê Quốc Minh, BBC đặt tít dài để nổi hơn trên Google,
, ngày 27/11/2009
26. Trần Thị Thu Nga (2001), Đầu đề tác phẩm báo chí, Luận văn thạc sĩ, Khoa Báo chí,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
27. Trần Thị Thu Nga (2007), Đầu đề tác phẩm báo chí trên báo in Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
28. Lê Nghiêm (2007), Báo điện tử - thời cơ và thách thức, Tạp chí Người làm báo, số
tháng 11/2007.
29. Lê Nghiêm (2007), Cạnh tranh thông tin giữa các báo điện tử, Tạp chí Người làm
báo, số tháng 3/2007.
30. Nguyễn Tri Niên (2006), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
31. Hoàng Phê (chủ biên – 2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
32. Trần Quang (2004, tái bản năm 2005), Các thể loại báo chí chính luận, Nxb ĐH
QGHN, Hà Nội.

33. Trần Quang (2005), Kỹ thuật viết tin, Nxb Nxb ĐH QGHN, Hà Nội.
34. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (tái bản năm 2007), Cơ sở lý luận
báo chí truyền thông, Nxb ĐH QGHN, Hà Nội.
35. Quản lý báo mạng là việc khó, Tạp chí Người làm báo, tháng 11/2007, trang 10.
36. Tạ Ngọc Tấn - Nguyễn Tiến Hài (1995), Tác phẩm báo chí, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
37. Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb ĐH QGHN, Hà Nội.
38. Hữu Thọ (2000), Công việc của người viết báo, Nxb ĐH QGHN, Hà Nội.
39. Nguyễn Thị Thoa (2007), Tổ chức và quản lý báo mạng điện tử ở Việt Nam, năm
2007
40. Các thủ thuật làm báo điện tử (2006), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
41. Kỹ năng phỏng vấn (2006), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
42. Dọc đường tác nghiệp (2006), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
43. Kỹ năng viết bài (2006), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
44. Hoàng Mạc Thủy (2007), Báo chí điện tử và những giải pháp phát triển, Tạp chí
Người làm báo, số tháng 11/2007.
45. Lê Chí Trung (2007), Báo mạng, làm gì với báo mạng, Tạp chí Người làm báo, số
tháng 11/2007.
46. Phan Văn Tú (2006), Báo chí trực tuyến ở Việt Nam: một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sĩ báo chí học, ĐH KHXH&NV, ĐH QGHN
47. Mấy nét về sự ra đời và phát triển của báo điện tử ở Việt Nam, Tạp chí Tư tưởng-
Văn hóa, số 11/2005.
48. Báo chí, những điểm nhìn từ thực tiễn (2000), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
49. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
50. Lô-íc Éc-vu-ê, Viết cho độc giả, Lê Hồng Quang dịch (1999), Hội nhà báo Việt Nam
xuất bản, Hà Nội.
51. Leonard Ray Teel, Ron Taylor, người dịch Trần Quang Gư, Kiều Anh (2003), Bước
vào nghề báo, Nxb Trẻ.
52. Line Ross, Nghệ thuật thông tin, Ngọc Kha – Hạnh Ngân dịch (2004), Nxb Thông
tấn, Hà Nội.

53. Jacques Locquin, bản Việt văn (2003), Từ thông tin đến quảng cáo, Nxb Thông tấn,
Hà Nội.
54. Jean, Luc Martin, Lagardette, người dịch Lê Tiến (2004), Hướng dẫn cách viết báo,
Nxb Thông tấn 2004
55. Philippe Gaillard, người dịch Nguyễn Văn Đóa (2004), Nghề làm báo, Nxb Thông
tấn, Hà Nội.
56. Fabienne Gérault, Lê Quốc Minh dịch, Sapô – chiếc mũ không che khuất bài báo,
vietnamjuornalism.com, ngày 15/3/2006.
57. The Missouri Group, bản tiếng Việt (2007), Nhà báo hiện đại, Nxb trẻ, TP.HCM,
TP.HCM.

×