Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI SGDI NHCT VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.5 KB, 29 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC
HUY ĐỘNG VỐN TẠI SGDI NHCT VN
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, huy động vốn và sử dụng vốn là
hai nghiệp vụ chủ yếu quyết định sự tồn tại, phát triển của một ngân hàng. Huy
động vốn là điều kiện, là tiền đề để thực hiện nghiệp vụ sử dụng vốn. Nó là khâu
quyết định đến khả năng sinh lời của đồng vốn ngân hàng. Nếu nghiệp vụ sử dụng
vốn có hiệu quả thì có tác động tích cự đến công tác huy động vốn của ngân hàng.
Qua phân tích tình hình thực tế về công tác huy động vốn tại Sở giao dịch I Ngân
hàng Công thương VN đã đạt được nhiều thành công, góp phần đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất kinh doanh, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Mục tiêu
của SGD trong thời gian tới là tăng trưởng nguồn vốn huy động và mở rộng tín
dụng.
3.1.Định hướng phát triển của SGDI NHCT
*Tổ chức thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị của NHCT, mở rộng mạng lưới
huy động vốn gắn với tăng trưởng dư nợ lành mạnh. Coi trọng công tác cán bộ,
duy trì mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ,
khuyến khích các phòng tổ chức các chuyên đề thảo luận, học tập, trao đổi kinh
nghiệm đào tạo và tự đào tạo tại chỗ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành.
*Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương,
ngành, đoàn thể, tạo sức mạnh tổng hợp hỗ trợ đắc lực cho công tác kinh doanh, xử
lý tốt tài sản đảm bảo tiền vay.
*Nâng cao ý thức chấp hành cơ chế chính sách, tăng cường kiểm tra kiểm soát
nội bộ, giảm thiểu rủi ro.
*Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào do ngành, địa phương
phát động, cải thiện đời sống người lao động.
3.1.1. Các mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2005
- Nguồn vốn huy động tăng từ 5% - 7% so với năm 2004
- Dư nợ cho vay tăng 15-20% so với năm 2004
- Lợi nhuận hạch toán nội bộ tăng 3% so năm 2004
- Tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 1%
- Thu nợ đã đưa vào ngoại bảng là 2 tỷ đồng


3.1.2. Biện pháp thực hiện.
* Tích cực đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn nhằm giữ vững và phát triển
nguồn vốn huy động, vận dụng chính sách lãI suất và chính sách khách hàng hợp
lý, phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Duy trì đối tượng khách hàng tiền gửi
truyền thống. Chú trọng khai thác nguồn vốn của các tổ chức đoàn thể xã hội, từng
bước cải thiện và tạo lập một cơ cấu nguồn vốn cân đối, ổn định.
* Tiếp tục đổi mới cơ cấu tín dụng theo hướng tăng dần tỷ lệ cho vay có tài sản
đảm bảo. Đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tư nhân, hộ sản
xuất…, cho vay đảm bảo có hiệu quả, an toàn, kiên quyết không để phát sinh nợ
quá hạn mới.
* Tăng cường số lượng và chất lượng các sản phẩm dịch vụ, tăng tiện ích tối đa
cho các sản phẩm truyền thống. Xây dựng phương án triển khai hoạt động chuyển
tiền nhanh VND, Western union, mở thẻ ATM tại tất cả các điểm giao dịch, quỹ tiết
kiệm. Khảo sát lắp đặt máy ATM tại
những điểm thích hợp, đi đôi với việc tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về sản
phẩm thẻ tới mọi đối tượng khách hàng.
* Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, đặc biệt
là hoạt động tín dụng, tài chính và kế toán. Thực hiện nghiêm túc công tác chấn
chỉnh sau thanh tra, đảm bảo mọi hoạt động kinh doanh an toàn.
* Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ một cách căn
bản, đặc biệt là các kỹ năng về công nghệ mới.Công tác đánh giá cán bộ cần chú
trọng tính sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.Công tác tuyển dụng
lao động cần hội đủ phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ, đáp ứng yêu cầu hiện
đại hóa ngày càng cao.
* Tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn thể trong việc chỉ đạo thực
hiện mọi nhiệm vụ kinh doanh. Xây dựng các chỉ tiêu thi đua thiết thực gắn với
mọi hoạt động của các tổ chức đoàn thể như: Công đoàn, Đoàn thanh niên. Duy trì
các phong trào văn nghệ, thể thao, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong cơ quan, góp
phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả huy động vốn .

Sau khi tìm hiểu thực tế công tác huy động vốn tại SGD I, căn cứ vào
phương hướng, nhiệm vụ của SGD, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm giải
quyết những khó khăn, tồn tại cũng như nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn,
góp phần tăng nguồn vốn, giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
3.2.1. Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp.
Biện pháp đầu tiên mà ngân hàng có thể làm là phải luôn luôn đánh giá một
cách chi tiết, phân tích tỉ mỉ tình hình tỷ trọng, kết cấu nguồn vốn ..., tình hình thực
tiễn của Việt Nam (môi trường kinh tế, pháp lý, môi trường xã hội, tâm lý, môi
trường đối ngoại) để tìm ra những khó khăn vướng mắc xuất phát từ phía ngân
hàng hay những người gửi tiền. Đồng thời, ngân hàng phải chủ động xây dựng cân
đối nhu cầu vốn. Trên cơ sở đó, ngân hàng lập chiến lược dài hạn về huy động vốn
để từ đó có những biện pháp huy động vốn phù hợp, đáp ứng nhu cầu vốn cho bản
thân ngân hàng nói riêng, cho nền kinh tế nói chung và không để bị đọng vốn trong
quá trình sử dụng vốn.
Các định hướng, kế hoạch về công tác huy động vốn phải được xuất phát từ
những yêu cầu sau:
Công tác nguồn vốn của ngân hàng phải quán triệt quan điểm phát huy nội
lực.
* Coi khai thác triệt để các nguồn vốn dưới mọi hình thức, theo nhiều kênh
khác nhau vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là yêu cầu mang tính giải pháp tình thế
hiện nay.
* Gắn chiến lược tạo nguồn với chiến lược sử dụng nguồn trong một thể
đồng bộ, nhịp nhàng.
* Luôn có biện pháp nâng tỷ trọng vốn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh
nghiệp, đồng thời tăng khối lượng tiền gửi từ các tầng lớp dân cư để tạo lập một
mặt bằng vốn luân chuyển vững chắc.
3.2.2.Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn
a. Đa dạng hóa tiền gửi tiết kiệm
Tốc độ tăng trưởng của tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh qua các năm và luôn

chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động. Sở dĩ như vậy vì người
Việt Nam có thói quen tiết kiệm để dự phòng lúc ốm đau, bệnh tật hay mua sắm.
Mục đích của họ là để kiếm lời, tích lũy. Nắm bắt được điều này, SGD I đã đưa ra
nhiều kỳ hạn gửi với các mức lãi suất khác nhau nhằm thu hút nguồn vốn này. Tuy
nhiên, SGD cần có những giải pháp thích hợp hơn để thu hút được nguồn vốn dồi
dào này.
Thứ nhất, Đa dạng hoá các hình thức gửi tiền tiết kiệm trong dân cư bao
gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi sử dụng thẻ, trái phiếu, kỳ phiếu. Áp dụng hình
thức gửi nhiều lần lấy gọn một lần, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm
tích luỹ, hay tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm nhà ở... Với những hình thức này, Ngân
hàng có thể tăng cường được nguồn vốn huy động, đặc biệt là vốn trung dài hạn.
Thứ hai, Quầy gửi tiền tiết kiệm của dân chúng phải phân bổ ở nhiều nơi,
đảm bảo thuận tiện cho khách hàng.
Thứ ba, SGDI cần cải tiến thời gian làm việc để thuận tiện cho người gửi,
rút tiền. Nên chăng các quầy giao dịch bố trí người làm việc sớm hơn và nghỉ
muộn hơn (thậm chí giao dịch cả tối và ngày nghỉ). Đây là một vấn đề rất quan
trọng vì có những người chỉ có ngoài giờ làm việc hoặc ngày nghỉ mới có thời gian
để đến Ngân hàng gửi tiền cũng như rút tiền.
Thứ tư, Cải cách lề lối làm việc, thủ tục trong việc huy động vốn qua các tài
khoản tiền gửi tiết kiệm. Tránh sử dụng nhiều chứng từ, thủ tục rườm rà, tốn công
sức, tiền của của Ngân hàng mà khách hàng lại không hài lòng.
Sự linh hoạt về kỳ hạn cũng l mà ột sự hấp dẫn tiền gửi. Bên cạnh các kỳ
hạn đang áp dụng, ngân h ng mà ở rộng thêm các thời hạn gửi tiền như 9 tháng, 2
năm, 3 năm, 5 năm... v thà ậm chí 10 năm. Việc áp dụng hình thức gửi tiền tiết
kiệm có kỳ hạn với thời hạn khác nhau sẽ tăng nguồn vốn trung v d i hà à ạn, tạo
điều kiện đa dạng hoá các hình thức sử dụng vốn tại ngân h ng. Tuy nhiên, à để có
thể thu hút vốn d i hà ạn, ngân h ng nên phát h nh "phià à ếu tiết kiệm có kỳ hạn
chuyển nhượng" ngay tại các quỹ tiết kiệm của ngân h ng. Và ới loại tiết kiệm có
kỳ hạn n y có thà ể dung ho à được lợi ích hai bên: ngân h ng v ngà à ười gửi tiền.
Người gửi tiền tiết kiệm chủ động khi cần rút vốn ra chi tiêu đột xuất, đồng thời

ngân h ng tà ạo được nguồn vốn ổn định.
Ngoài ra, cần có giải pháp tự động chuyển hoá tiền gửi không kỳ hạn sang
có kỳ hạn cho dân. Ví dụ: những người đã gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn ở ngân
hàng từ 2 tháng trở lên có thể chuyển cho họ được hưởng quyền lợi về tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn.
b. Đa dạng hóa tài khoản tiền gửi cá nhân
Hình thức này giúp ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư với
lãi suất thấp. Đồng thời, phát triển tài khoản cá nhân góp phần hiện đại hoá quá
trình thanh toán qua ngân hàng, giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi
phí lưu thông.
Việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân là nhu cầu cấp thiết xét về góc độ đáp
ứng nhu cầu phát triển các dịch vụ ngân hàng cho mọi tầng lớp dân cư và xu hướng
thanh toán không dùng tiền mặt của một nền kinh tế phát triển. Để tăng số lượng
tài khoản này lên, đồng nghĩa với việc tăng doanh số thanh toán qua tài khoản, góp
phần thúc đẩy quá trình thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội thì SGDI cần
chú ý hơn nữa đến hình thức. Bởi vì nước ta vẫn còn nghèo, thu nhập bình quân
thấp, tâm lý của người dân Việt Nam vẫn quen sử dụng tiền mặt. Vì vậy khái niệm
mở tài khoản cá nhân và thanh toán qua ngân hàng với nhiều người vẫn còn rất
mới mẻ. Hơn nữa, lãi suất huy động đối với loại tài khoản này là rất thấp (lãi suất
không kỳ hạn) ngược hẳn với tâm lý của người gửi tiền vào ngân hàng luôn mong
hưởng lãi suất cao.Về phía Ngân hàng cần có những biện pháp tác động như sau:
* Áp dụng mức lãi suất phù hợp hơn, hấp dẫn khách hàng mở tài khoản, kết
hợp với các dịch vụ thanh toán, chi trả hộ khách hàng. Hướng dẫn cho khách hàng
thấy được những tiện ích khi sử dụng tài khoản này để họ hiểu được những ưu
điểm của tài khoản và thường xuyên sử dụng nó. Khi người dân đã quen việc thanh
toán, chi trả và các dịch vụ thuận tiện mà Ngân hàng đưa ra cộng với sự đa dạng
hoá các dịch vụ, các hình thức hoạt động của Ngân hàng, người dân sẽ ít quan tâm
đến lãi suất. Cần phải tạo cho khách hàng hiểu được mục đích chủ yếu của khách
hàng khi mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân là chất lượng dịch vụ mà không
phải là hưởng lãi.

* Ngân hàng có thể áp dụng việc theo dõi 2 tài khoản song song của khách
hàng tức là khi tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng có số dư cao, Ngân
hàng sẽ chuyển bớt sang tài khoản tiền gửi có kỳ hạn để giúp khách hàng không bị
thiệt. Ngược lại, khi khách hàng có nhu cầu thanh toán cao, Ngân hàng sẽ tự động
chuyển tiền gửi có kỳ hạn thành tiền gửi thanh toán để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Ngân hàng làm được như vậy sẽ tạo ra sự nhanh chóng, tiện lợi hơn cho
khách hàng. Đồng thời cũng giúp Ngân hàng giảm giai đoạn rút tiền nhiều lần, tốn
thời gian và chi phí.
* Ngân hàng cũng có thể liên kết với Kho bạc để làm dịch vụ mở tài khoản
chi trả lương cho các khách hàng là cán bộ công nhân viên làm việc ở các trường
đại học, các doanh nghiệp Nhà nước có thu nhập ổn định. Đây là một lĩnh vực còn
rất mới mẻ, cho nên thị trường và khả năng khai thác là rất lớn. Hơn nữa, trong thị
trường này, trình độ dân trí cao nên khả năng thích ứng của khách hàng với các
dịch vụ ngân hàng là rất nhanh. Ngân hàng có thể qua đó giúp người dân tiếp xúc
với các dịch vụ thanh toán hiện đại như thẻ thanh toán, máy rút tiền tự động ATM...
nhanh chóng hoà nhập vào mạng lưới thanh toán quốc tế, tạo nguồn vốn lớn, ổn
định cho Ngân hàng.
* Liên hệ với các trường Đại học, Cao đẳng... để cùng nhà trường có thể mở
tài khoản cho mọi sinh viên trong trường. Làm được điều này có lợi cho cả Ngân
hàng, nhà trường và cả sinh viên. Đối với Ngân hàng, đây là một nguồn huy động
dồi dào vì hiện nay số lượng sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng... là rất
lớn. Về phía nhà trường và sinh viên, sẽ dễ dàng hơn trong việc thu học phí và các
chi phí, lệ phí khác. Sinh viên không còn cảnh chen chúc nhau nộp học phí, có khi
phải nghỉ cả tiết học mới chen chân được vào bàn thu.
c. Phát triển và mở rộng hình thức huy động vốn qua tài khoản của các
doanh nghiệp
Hiện nay, số lượng doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Hà Nội là rất lớn,
quan hệ thương mại phức tạp. Nhiều doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp tư nhân)
không mở tài khoản thanh toán ở Ngân hàng hoặc thanh toán với nhau bằng tiền
mặt không qua ngân hàng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán

của hệ thống NHTM nói chung và SGD I nói riêng, qua đó hạn chế hiệu quả huy
động vốn - cho vay của Sở. Vì vậy, trong thời gian tới, SGD cần có những giải
pháp đúng đắn để thu hút nguồn vốn này như:
* Cử cán bộ xuống tận doanh nghiệp, giới thiệu cho doanh nghiệp các loại
tài khoản và những tiện ích của chúng. Đồng thời có chính sách ưu đãi khuyến
khích doanh nghiệp mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng.
* Bám sát quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình luân chuyển vật tư hàng
hoá và kỳ hạn nợ của các TCKT để động viên khách hàng nhanh chóng tiêu thụ sản
phẩm, nộp tiền cho Ngân hàng đúng hạn thanh toán. Với những khách hàng có
doanh thu lớn, SGD có biện pháp thu tại chỗ theo lịch thỏa thuận với đơn vị, tạo
mối quan hệ tốt đẹp trong mối quan hệ kinh doanh với bạn hàng.
* Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có mục đích với hình thức đa dạng hơn như
trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ. Kỳ hạn đa dạng hơn, lãi suất áp dụng linh
hoạt hơn trên cơ sở hoạt động của ngân hàng có lãi.
* Ngo i vià ệc đa dạng hoá các hình thức huy động còn có thể qua tư vấn
môi giới, cầm đồ, tín dụng thu mua...
d. Mở rộng các loại tiền gửi khác
Ngân h ng cà ần quan tâm đến việc mở rộng thêm các loại tiền gửi khác để
đáp ứng nhu cầu ng y mà ột đa dạng của dân chúng. SGD I có thể áp dụng những
hình thức huy động tiết kiệm d i hà ạn có mục đích, cụ thể:
*Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ: Dành cho những người có thu nhập
hiện tại để dành một phần tiêu dùng cho tương lai khi về già bằng cách hàng tháng
gửi tiền vào tài khoản này.
*Hình thức tiết kiệm nhà ở: Hình thức này tạo cho người gửi tiền được
quyền vay ở ngân hàng một khoản lớn với lãi suất hợp lý để đầu tư cho chỗ ở của
chính mình.
Song song với đa dạng hoá các hình thức tiền gửi tiết kiệm, Ngân hàng cần
mở rộng việc phát hành kỳ phiếu có mục đích với hình thức đa dạng hơn như trả
lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ, loại 2 năm, 3 năm..., lãi suất linh hoạt tuỳ thuộc
môi trường cạnh tranh và cung cầu trên thị trường; phát hành trái phiếu ngân hàng

thương mại để huy động vốn trung và dài hạn vừa tạo nguồn vốn trung và dài hạn,
vừa cung cấp hàng hoá cho thị trường vốn.
Tuỳ từng điều kiện, thời điểm cụ thể mà ngân hàng áp dụng những hình
thức huy động vốn phù hợp nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và tiền mặt ngoài
xã hội.
Đa năng trong kinh doanh cũng làm cho khách hàng có cảm giác thoả mãn
và ngày càng có nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Những hoạt động này ảnh
hưởng đến công tác huy động vốn, nhờ đó mà khả năng của ngân hàng được nâng
lên. Ngân hàng cần mở thêm các dịch vụ như: dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới,
dịch vụ cầm đồ, tín dụng thuê mua...
3.2.3. Đơn giản hoá các thủ tục nhận tiền gửi cho tới các thủ tục cho vay.
Hiện nay, nếu một người gửi tiền thông thường phải mất 15 - 30 phút cho
một lần gửi hoặc rút. Đối với xin vay, thủ tục còn kéo dài nhiều ngày. Các thủ tục
này ngân hàng làm theo quy định, nhưng ngân hàng cần nghiên cứu biện pháp rút
ngắn thời gian. Chẳng hạn như trang bị máy vi tính cho các quỹ tiết kiệm; máy của
kế toán được nối với máy của kế toán trưởng và thủ quỹ, qua đó có thể kiểm tra lẫn
nhau, đảm bảo tính chính xác, giảm bớt thời gian chờ đợi của khách hàng.
SGD I nên nghiên cứu triển khai hình thức tiết kiệm gửi một nơi, rút ở nhiều
nơi. Đối với ngân hàng, hình thức này có ý nghĩa quan trọng trong việc từng bước
nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với chất lượng cao hơn, đối tượng rộng rãi
hơn, lựa chọn địa điểm linh hoạt hơn đồng thời là bước tiếp theo trong việc hiện
đại hoá dịch vụ thanh toán..
3.2.4. Ap dụng chính sách lãi suất linh hoạt:
Lãi suất là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc thu hút vốn
tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Thấy rõ được điều đó, SGDI rất chú trọng đến việc
thay đổi lãi suất trong từng thời kỳ sao cho phù hợp với lãi suất thị trường nhằm
thu hút nguồn tiền gửi của mọi thành phần trong nền kinh tế. SGD cần xác định
được rằng biện pháp tăng lãi suất để thu hút được nguồn vốn huy động có tác động
rất mạnh và nhanh. Tuy nhiên, đây là biện pháp có giới hạn, bởi việc tăng lãi suất
huy động đồng nghĩa với tăng chi phí đầu vào, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả

kinh doanh. Đồng thời có liên quan trực tiếp đến lãi suất cho vay và tác động đến
toàn bộ hoạt động tín dụng của Sở.Vì thế, mức lãi suất đưa ra là tuỳ theo mức độ
cần thiết của nguồn vốn, tuỳ theo từng thời điểm, từng khu vực, phù hợp với khung
lãi suất do NHNN quy định và có lợi cho người gửi, người vay và cả Ngân hàng.
Đặc biệt, với cơ chế lãi suất theo tín hiệu thị trường như hiện nay càng đòi hỏi sự
năng động, linh hoạt của SGD trong quá trình tìm kiếm nguồn vốn để cho vay
3.2.5. Gắn liền việc tăng cường huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả
Trong hoạt động Ngân hàng, giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có quan hệ
thường xuyên, tác động hỗ trợ lẫn nhau, chi phối lẫn nhau. Nguồn vốn là cơ sở, là
tiền đề để Ngân hàng thực hiện công tác sử dụng vốn. Nhưng chỉ khi Ngân hàng
tiến hành cho vay quay vòng vốn thì nguồn vốn mới sinh lời. Do đó, sử dụng vốn
là căn cứ quan trọng để Ngân hàng xác định nguồn vốn cần huy động.
Nước ta đang trong giai đoạn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nên việc đầu tư tín dụng có chiều hướng tăng trưởng mạnh. Nhưng việc mở rộng
tín dụng phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn vốn và tăng
trưởng. SGD I cần đưa ra các giải pháp thích hợp cho việc huy động vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả:
* Thường xuyên bám sát chủ trương, đường lối phát triển kinh tế xã hội của
thành phố, bám sát mục tiêu, biện pháp của ngành. Nắm chắc thị trường, cả thị
trường hiện tại và thị trường dự báo để xây dựng chiến lược tổng thể về bề rộng
của thị trường.
* Thực hiện phương châm cho vay an toàn - hiệu quả. Kế toán cho vay phải
tuân thủ nghiêm ngặt các tỷ lệ giới hạn an toàn vốn trong kinh doanh được qui định
trong Luật NHNN và Luật Các TCTD bao gồm:
- Tỷ lệ đảm bảo an toàn về khả năng chi trả gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ
đảm bảo khả năng thanh toán theo qui định của NHNN.
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
- Tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay trên vốn huy động.
- Tỷ lệ cho vay tối đa trên vốn tự có.
- Tỷ lệ chuyển hoá vốn

- Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ...
* SGD cần làm tốt vai trò trung gian tài chính, một mặt tăng cường tín dụng,
đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, mặt khác cần nâng cao
chất lượng tín dụng, tăng thị phần vào các Tổng công ty đã có tín nhiệm trong thị
trường vay vốn với Sở, chú trọng cho vay tiêu dùng trong cán bộ công nhân viên...
Việc cho vay phải đảm bảo cân đối giữa tiền gửi và tiền vay. Tính toán lợi ích
nhiều mặt nhưng cho vay phải bù đắp chi phí, trích lập quĩ rủi ro và có lợi nhuận.
Cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra, phân tích chất lượng những khoản
cho vay, kịp thời xử lý những phát sinh ảnh hưởng không tốt đến kết quả kinh
doanh của SGD.
- SGD I cần cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm bảo sự tương
ứng về thời hạn và lãi suất cho nguồn vốn nào thì cho vay loại hình đó. Tuy nhiên,
trong điều kiện có chênh lệch giữa nguồn vốn huy động và cho vay, ngân hàng có
thể cân đối vốn cho vay bằng cách: nếu có nguồn vốn ngắn hạn có tính ổn định cao
hoặc nguồn vốn thường xuyên luân chuyển ngân hàng có thể sử dụng để cho vay
trung dài hạn. Việc sử dụng tất nhiên phải chú ý đến một tỷ lệ nhất định.
3.2.6. Thực hiện tốt chính sách khách hàng và chiến lược marketing hiệu
quả
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần hiểu rõ lợi ích của
ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, vào lợi

×