Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

đánh giá hiện trạng sản xuất và so sánh hiệu quả kinh tế các mô hình luân canh màu trên nền đất lúa tại huyện châu thành tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.89 KB, 127 trang )

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ









TRẦN VĂN NHÃN



ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO
SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH
LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA
TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH ĐỒNG THÁP






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC










CẦN THƠ - 2009

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ








TRẦN VĂN NHÃN


ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO
SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH
LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA
TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH
TỈNH ĐỒNG THÁP








LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC










CẦN THƠ – 2009
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



ii

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn này là trung thực.


Tác gi ả luận văn





Trần Văn Nhãn



























Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



iii

Đề tài: “ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH
TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN
CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP
”.
Luận văn Thạc sĩ Phát triển Nông thôn do TRẦN VĂN NHÃN thực hiện và đề nạp.









Ý kiến của người hướng dẫn khoa học


Đồng ý bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ khoa học







Ts. Nguyễn Ngọc Đệ














Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



iv

CHẤP NHẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ CỦA HỘI ĐỒNG

Luận văn thạc sĩ với đề tài “ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO
SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN
ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP


do học viên

TRẦN VĂN NHÃN thực hiện và báo cáo đã được hội đồng chấm luận văn thông qua.



Ủy viên thư ký Ủy viên
(Ký tên) (Ký tên)





TS. Nguyễn Văn Hồng TS. Nguyễn Ngọc Đệ



Phản biện 1 Phản biện 2
(Ký tên) (Ký tên)





PGS.TS. Dương Ngọc Thành TS. Nguyễn Công Thành


Cần Thơ, ngày 23 tháng 10 năm 2009
Chủ tịch hội đồng
(Ký tên)






PGS.TS. Nguyễn Duy Cần
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



v


LÝ LỊCH KHOA HỌC

1. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH
- Họ và tên: TRẦN VĂN NHÃN
- Ngày sinh: 00/00/1974
- Nơi sinh: xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
- Quê quán: xã Tân Phú, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
- Dân tộc: Kinh.
- Đơn vị công tác: Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Đồng Tháp.
- Điện thoại: 0945. 166 757
2. QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
- Tốt nghiệp Phổ thông Trung học năm 1992 tại Trường Phổ Thông Trung Học Thanh
Bình 1, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
- Tốt nghiệp Kỹ sư Trồng trọt năm 1999, hệ chính quy tại Trường Đại Học Cần Thơ.
3. QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC
- Từ tháng 6/1999 đến tháng 2/2009: công tác tại Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Đồng
Tháp.
- Từ tháng 3/2009 đến nay: công tác tại Chi cục Quản lý chất lượng Nông lân sản và
Thủy sản tỉnh Đồng Tháp.



















Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



vi


LỜI CẢM TẠ

Đề tài tốt nghiệp là kết quả của nhiều năm học tập tiếp thu kiến thức trong nhà trường,
Trong quá trình thực hiện đề tài Tôi được sự giúp đỡ tận tình của Quý Thầy Cô, các
bạn hữu, và các Anh Chị em của cơ quan.


Chân thành biết ơn,
- Ts. Nguyễn Ngọc Đệ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ, hỗ trợ Tôi trong suốt thời
gian thực hiện và hoàn thành luận văn này.
- Ths. Ngô Thành Trí Bộ môn Bảo vệ thực vật, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng
dụng, Trường Đại học Cần Thơ đã tận tình giúp đỡ Tôi trong quá trình thực hiện luận
văn tốt nghiệp.
- Các anh chị Phòng Nông nghiệp huyện Châu Thành, Trạm khuyến nông huyện
Châu Thành và Trạm Bảo vệ thực vật huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp đã cung
cấp thông tin chính xác và nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho Tôi thực hiện tốt số
liệu của luận văn.
- Quý Thầy Cô Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long-Trường Đại
học Cần Thơ đã truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm bổ ích cho Tôi trong suốt khóa
học.
- Các anh chị, em Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản đã hỗ trợ,
tạo điều kiện tốt cho Tôi hoàn thành luận văn này.
- Đặc biệt là sự chia sẽ những buồn vui, khó khăn của gia đình và của vợ Nguyễn Thị
Xuân Mai trong suốt thời gian học xa nhà và hoàn thành luận văn này.
Thân gởi về,
Các Anh Chị và các bạn cùng lớp cao học Phát triển nông thôn Khóa 13 lời chúc sức
khoẻ, hạnh phúc và thành đạt.


Xin nhận lời cảm ơn sâu sắc nhất





Tr ần Văn Nhãn

.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



vii


TRẦN VĂN NHÃN (2009), “ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT VÀ SO
SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH LUÂN CANH MÀU TRÊN NỀN
ĐẤT LÚA TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH TỈNH ĐỒNG THÁP”. Luận Văn Thạc sĩ
Phát triển nông thôn, Viện nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Trường
Đại Học Cần Thơ, 88 trang. Người hướng dẫn khoa học. Tiến sĩ. NGUYỄN NGỌC
ĐỆ.

TÓM LƯỢC
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lúa là nguồn thu nhập chính của người nông dân.
Tuy nhiên các mô hình độc canh cây lúa dần dần được thay thế bằng những mô hình
luân canh lúa màu đặc biệt là huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Bảy mô hình luân
canh trên đất lúa như 3 lúa, 2 lúa, 2 lúa-khoai lang, 2 lúa-đậu nành, ấu-lúa, lúa-dưa
hấu- khoai lang, chuyên sen được khảo sát tại huyện Châu Thành thuộc tỉnh Đồng
Tháp nhằm so sánh hiệu quả kinh tế của các mô hình canh tác màu trên nền đất lúa
phù hợp trong sản xuất.
Kết quả khảo sát cho thấy năm mô hình có hiệu quả kinh tế tốt tại huyện Châu
Thành là mô hình 2 lúa- khoai lang, lúa-dưa hấu-khoai lang, chuyên sen, ấu-lúa và 2
lúa. Trong đó, có hai mô hình cho hiệu quả rất cao trên nền đất lúa của huyện Châu
Thành là mô hình 2 lúa-khoai lang và mô hình lúa-dưa hấu-khoai lang. Mô hình
chuyên sen cũng cho hiệu quả tốt trên vùng đất trũng. Các mô hình lúa-ấu và mô hình
2 lúa vẫn cho hiệu quả kinh tế tốt tương đương nhau và có thể bố trí thích hợp tùy vào

vùng đất canh tác. Kết quả cũng chỉ ra mô hình 3 lúa và mô hình 2 lúa-đậu nành có
hiệu quả thấp nên không thể duy trì sản xuất tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
Qua đây, có thể chuyển đổi dần từ mô 3 lúa hoặc mô hình 2 lúa-đậu nành sang các mô
hình có hiệu quả tốt tùy vùng đất canh tác.












Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



viii


TRAN VAN NHAN (2009), “EVALUATION THE PRODUCTION STATUS AND
COMPARISON THE ECONOMIC EFFICIENCY OF INTERCROPPING
SYSTEMS ON RICE LAND AT CHAU THANH DISTRICT, DONG THAP
PROVINCE”. Thesis for Master degree of Science in Rural Development, Mekong
Delta Development Researh Institute, Can Tho University, 88 pages. Supervisors: Dr.
NGUYEN NGOC DE.


ABSTRACT

Rice production is main income of farmers In Mekong delta. However, rice
monoculture system has been gradually replaced by intercropping systems between
rice and other crops especially in Chau Thanh district, Dong Thap province. Seven
intercropping system on rice land such as three rice crops, two rice crops, two rice-
sweet potatoes, two rice-soybean, water caltrop-rice, rice-watermelon-sweet potatoes,
lotus monoculture were surveyed at Chau Thanh district, Dong Thap province for
comparing the economic efficiency of these cropping systems on rice land.
The results showed that: five cropping systems giving high economic efficiency at
Chau Thanh district were two rice-sweet potatoes, rice-watermelon-sweet potatoes,
lotus monoculture, water caltrop-rice and two rice. In these systems, two cropping
systems giving highest economic efficiency on rice land were two rice-sweet potatoes
and rice-watermelon-sweet potatoes. Lotus monoculture is also giving high economic
efficiency on lower land. Rice-water caltrop and two rice had equal economic
efficiency and were recommended to grow in specific areas with suitable soil
conditions. Three rice crops and two rice crops-soybean had low economic efficiency,
therefore these systems should not be applied in Chau Thanh district, Dong Thap
province. From these results, we suggest that farmers in Chau Thanh district should
replace three rice crops and two rice crops-soybean systems by other cropping systems
with higher profit.











Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu



ix


Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

1
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU

1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất lúa lớn nhất cả nước. Ước tính
có khoảng trên 1,89 triệu ha đang được trồng lúa, chiếm khoảng 46% diện tích cả
nước (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2009). ĐBSCL không những sản xuất lúa gạo cung
cấp cho cả nước mà còn xuất khẩu để thu ngoại tệ góp phần phát triển kinh tế cho khu
vực. Năm 1998 Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhất xếp thứ 2 trên thế
giới sau Thái Lan (Nguyễn Duy Cần, 2003).
Từ năm 2000 Chính phủ có chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn đã có tác động rất lớn đến sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Nhiều địa phương cố
gắng thực hiện chủ trương của Chính phủ, từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù
hợp với sinh thái vùng và đáp ứng yêu cầu của thị trường (Nguyễn Duy Cần, 2003).
Các mô hình canh tác độc canh cây lúa dần dần được thay thế bằng những mô hình
luân canh lúa màu. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy mô hình luân canh cây lúa-
đậu nành sau 3 năm làm tăng hàm lượng đạm, lân và được khuyến cáo áp dụng ở
huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, qua đó giúp tăng hiệu quả kinh tế và phát triển bền
vững của vùng sản xuất nông nghiệp (Nguyễn Văn Quang và Lê Thanh Phong, 2007).

Sự thay đổi từ mô hình canh tác lúa độc canh chuyển sang mô hình luân canh lúa màu
sẽ làm gia tăng năng suất lúa. Kết quả nghiên cứu tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang
trong vụ Thu Đông 2005 cho thấy năng suất lúa ở mô hình chuyên canh lúa chỉ đạt 3,3
tấn/ha, trong khi đó mô hình luân canh lúa-bắp-lúa thì năng suất lúa đạt 4,1 tấn/ha, mô
hình lúa-đậu xanh-lúa đạt 4,5 tấn/ha. Tương tự kết quả nghiên cứu ở huyện Cầu Kè,
tỉnh Trà Vinh cho thấy vụ Đông Xuân 2006, mô hình thâm canh 3 vụ lúa chỉ đạt 2,9
tấn/ha, trong khi đó mô hình luân canh lúa-bắp-lúa giúp gia tăng năng suất lúa đạt 4,3
tấn/ha, mô hình lúa-đậu xanh-lúa, năng suất lúa đạt 3,2 tấn/ha
( name=News&sid=94). Mặt khác, sự thay đổi
mô hình độc canh lúa sang mô hình luân canh lúa màu cũng làm ngăn chặn được dịch
bệnh xãy ra trên cây lúa, từ đó làm giảm chi phí đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế hơn.
Trong những năm gần đây cùng với việc thâm canh tăng vụ và sản xuất những giống
lúa chất luợng cao, dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá đã gây ra thiệt hại rất nghiêm
trọng cho người sản xuất lúa. Từ năm 2005-2006 đến nay hầu như vụ nào các tỉnh
ĐBSCL đều bị bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá (Phạm Văn Kim, 2006). Theo Nguyễn
Văn Hòa (2006), vụ lúa Hè Thu 2006 và lúa Đông Xuân 2006-2007 bệnh vàng lùn và
lùn xoắn lá gây hại cây lúa trở thành đại dịch lan ra khắp 12 tỉnh ĐBSCL và dịch bệnh
này đã gây thiệt hại hàng nghìn ha (Nguyễn Thơ, 2007).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

2
Theo báo cáo tổng kết phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành 2007 cho
thấy, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp có diện tích trồng lúa 32.467 ha, giảm 2.214
ha so với năm 2006, diện tích hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày cả năm là 3.091
ha, tăng hơn 944 ha so với năm 2006. Theo kế hoạch sản xuất nông nghiệp nông thôn
huyện Châu Thành năm 2008, diện tích cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày là
3.500 ha, tăng 500 ha so với năm 2007, ngược lại diện tích lúa gieo trồng cả năm là
29.000 ha, giảm 3.466 ha so với năm 2007. Đây cũng là một huyện năm 2007 có diện
tích lúa bị bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá khoảng 619,8 ha tính cả 3 vụ. Cho nên theo kế
hoạch sản xuất nông nghiệp huyện Châu Thành 2008, các nơi có mô hình chuyên canh

lúa phải được chuyển sang mô hình luân canh lúa màu (Phòng Nông nghiệp & PTNT
huyện Châu Thành, 2007), tuy nhiên hiện nay các loại mô hình trồng màu trên nền đất
lúa cũng chưa được quy hoạch từng vùng thích hợp và chưa có cơ sở khẳng định loại
cây màu nào thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các hộ nông dân chuyên trồng
lúa muốn chuyển sang mô hình luân canh lúa màu hoặc chuyên màu còn mang tính tự
phát hoặc trồng rải rác chưa chọn được mô hình nào phù hợp mang lại hiệu quả kinh
tế cao trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Từ đó đề tài “Đánh giá hiện trạng sản
xuất và so sánh hiệu quả kinh tế việc trồng màu trên nền đất lúa tại huyện Châu
Thành, tỉnh Đồng Tháp” được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả kinh tế các loại mô
hình trồng màu trên nền đất lúa thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao, thông qua đó
giúp định hướng cho phòng nông nghiệp cũng như nông dân chọn lựa mô hình trồng
màu trên nền đất lúa thích hợp đạt hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp cho
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
So sánh hiệu quả kinh tế của việc sản xuất màu trên đất lúa nhằm định hướng mô hình
canh tác màu thích hợp, giúp nâng cao giá trị sản xuất và lợi nhuận trong việc trồng
màu trên nền đất lúa tại huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Mục tiêu 1: Đánh giá hiện trạng sản xuất màu.
- Mục tiêu 2: Xác định và so sánh hiệu quả kinh tế các mô hình canh tác màu trên nền
đất lúa.
- Mục tiêu 3: Đề xuất mô hình sản xuất màu thích hợp trên nền đất lúa tại huyện Châu
Thành, tỉnh Đồng Tháp.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
- Hiện trạng sản xuất của các mô hình canh tác cây màu trên nền đất lúa tại huyện
Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp như thế nào?
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

3

- Hiệu quả kinh tế các mô hình trồng màu trên nền đất lúa ra sao?
- Trong số các mô hình canh tác màu trên đất lúa, mô hình canh tác nào có hiệu quả?
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
- Địa bàn: thực hiện ở các xã Tân Nhuận Đông; Phú Hựu; Phú Long; An Khánh và
Hòa Tân có diện tích luân canh màu trên đất lúa lớn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp.
- Loại màu: tập trung trên 5 loại cây màu chính luân canh trên đất lúa như dưa hấu;
khoai lang; đậu nành; ấu và sen có khả năng phát triển ở vùng nghiên cứu. Đây là 5
loại cây màu được trồng phổ biến trong huyện.



















Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu


4
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

2.1 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA MÀU Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1.1 Vị trí của việc sản xuất hoa màu trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng
sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn nhất cả nước, hàng năm xuất khẩu
đem lại nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Tuy nhiên, còn một thế mạnh mà
nước ta chưa phát huy hết tiềm lực đó là ngành sản xuất hoa màu. Một số loại hoa
màu như đậu nành, bắp, khoai lang, sen, ấu … là các loại hoa màu chủ yếu và thích
hợp với điều kiện tự nhiên cũng như đất đai ở ĐBSCL. Ngoài ra, trồng hoa màu luân
canh với lúa cũng là một trong những yếu tố quan trọng để góp phần xây dựng một
nền nông nghiệp bền vững (Viện rau hoa quả Việt Nam, 2009).
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trên 70.000 ha rau màu, với sản lượng khoảng
1 triệu tấn, chiếm gần 18% sản lượng rau màu trên cả nước. Hàng ngày, toàn vùng
ĐBSCL tiêu thụ bình quân gần 3.000 tấn rau, màu các loại. Phát triển diện tích rau
màu trong tương lai là tất yếu, đáp ứng đúng chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp-nông thôn vùng ĐBSCL (Viện rau hoa quả Việt Nam, 2009).
2.1.2 Hiện trạng sản xuất hoa màu
Theo Nguyễn Bảo Vệ (2003), một số loại hoa màu như đậu nành, bắp… chưa được
cung cấp đủ theo yêu cầu. Thực trạng hiện nay là các loại cây trồng cạn cũng chỉ được
phát triển ở dạng trồng luân canh với lúa. ĐBSCL chưa thật sự có vùng quy hoạch
riêng để phát triển các loại cây màu trồng cạn. Do chưa có chính sách tạo vùng
nguyên liệu cho cây trồng cạn nên nông dân trồng một cách tự phát, rải rác... dẫn đến
diện tích không cao, có thể sẽ gặp những khó khăn trong thu gom sản phẩm và tìm thị
trường tiêu thụ (Nguyễn Bảo Vệ, 2003).
Những năm gần đây, trung bình mỗi năm nước ta nhập khẩu từ 300-600 ngàn tấn bắp.
Còn đậu nành thì sản xuất cũng chỉ đáp ứng được 25-30% nhu cầu (Nguyễn Bảo Vệ,
2003). Cũng theo Nguyễn Bảo Vệ (2003) cho biết số liệu của Cục Chăn nuôi, năm

2006 nước ta đã nhập 1,5 triệu tấn khô dầu đậu tương, quy ra thành 2 triệu tấn đậu
tương hạt để chế biến 6,6 triệu tấn thức ăn chăn nuôi. Nhiều công ty phải nhập nguyên
liệu bắp và đậu nành từ nước ngoài để chế biến.
Theo Nguyễn Bảo Vệ (2003) thì FAO (2001) đã dự đoán đến năm 2010 ngành chăn
nuôi nước ta cần trên 16 triệu tấn thức ăn gia súc nên nhu cầu bắp và đậu nành là rất
lớn. Để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của ngành chế biến này, Bộ Nông Nghiệp và
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

5
Phát Triển Nông Thôn dự kiến đến năm 2005 cả nước phải có khoảng 1 triệu ha bắp
(ĐBSCL khoảng 150.000 ha) và khoảng nửa triệu ha đậu nành. Tính đến năm 2000 thì
diện tích bắp của cả nước có 714 ngàn ha với sản lượng là 1,93 triệu tấn. Còn đậu
nành mới chỉ có 122.000 ha và sản lượng chỉ có 145.000 tấn.
Trong thời gian qua, mặt dù ngành nông nghiệp của Việt Nam đã có nhiều cố gắng để
gia tăng năng suất bắp và đậu nành, tuy nhiên năng suất bắp và đậu nành vẫn còn thấp
so với bình quân của các nước trong khu vực và thế giới nên giá thành sản phẩm còn
cao. Năng suất bắp của cả nước bình quân là 2,7 tấn /ha, trong khi năng suất bình quân
của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là 3,6 tấn/ha, còn bình quân của thế giới là 4,2
tấn/ha (Nguyễn Bảo Vệ, 2003). Qua đây cho thấy việc sản xuất bắp và đậu nành của
nước ta còn thấp, chi phí sản xuất còn khá cao, nên hiệu quả kinh tế chưa được hấp
dẫn cho người nông dân chuyển đổi cơ cấu canh tác độc canh cây lúa sang mô hình
luân canh với cây trồng khác. Nếu xét về khía cạnh môi trường thì cần thiết phải luân
canh màu trên nền đất lúa. Có lẽ do điều kiện trồng lúa liên tục nhiều vụ trong năm đã
làm đất bị ngập nước hầu như quanh năm, về lâu dài có thể bị ảnh hưởng đến môi
trường đất và sâu bệnh nhiều hơn, do đó có thể phải chuyển đổi mô hình chuyên canh
cây lúa sang mô hình luân canh lúa- màu (Nguyễn Bảo Vệ, 2003).
Bên cạnh đó, ĐBSCL là vùng chịu ảnh hưởng của mùa lũ hàng năm, ngoài việc phải
sống chung với lũ, người dân đã biết tận dụng và khai thác tốt tiềm năng của lũ để
phát triển các mô hình sản xuất như trồng các loại cây thủy sinh, nuôi thủy sản kết
hợp, trồng rau màu…Trong các loại cây trồng thủy sinh cho thấy cây sen có thể là loại

cây trồng không những có giá trị về mặt kinh tế mà còn có nhiều hữu dụng đối với đời
sống con người (Nguyễn Quốc Huy, 2005). Hơn nữa, cây sen là loại cây trồng thích
nghi với vùng đất trũng và vùng ngập lũ hàng năm của ĐBSCL và cũng là loại cây
giúp người dân xóa đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm và giảm bớt thời gian nông
nhàn trong mùa lũ (Nguyễn Quốc Huy, 2005). Thêm vào đó, cây ấu cũng là loại cây
trồng thủy sinh mang lại nhiều lợi ích cho người dân khi được trồng trên nền đất lúa.
Hiệu quả kinh tế mô hình luân canh lúa-ấu cao hơn nhiều lần so với mô hình trồng lúa
3 vụ liên tục (Nguyễn Phước Tuyên, 2008). Năm 1996, các công ty Đài Loan đã mang
giống ấu của họ sang phổ biến cho nông dân và tổ chức thu mua. Giống ấu Đài Loan
đã nhanh chóng phát triển trên chân đất ruộng thành hệ thống canh tác lúa Đông
Xuân-ấu Hè Thu và trở thành cây sống chung với lũ (Nguyễn Phước Tuyên, 2008).
Mặt khác, trong các loại cây trồng luân canh ở ĐBSCL cho thấy cây khoai lang cũng
đóng vai trò quan trọng trong những năm gần đây. Theo đài truyền hình Vĩnh Long
(2009) cho biết từ số liệu của tổng cục thống kê (2006), diện tích khoai lang của
ĐBSCL là 13,4 nghìn ha (cả nước là 181,2 nghìn ha), đạt sản lượng 271,5 nghìn tấn
(so với cả nước là 1.456,7 nghìn tấn). Nhờ chuyển đổi cây trồng theo hướng lúa-khoai
mà nhiều địa phương trong huyện đã phá được thế độc canh cây lúa, tạo điều kiện để
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

6
hình thành nền sản xuất nông nghiệp bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó
không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho nông hộ, mà còn góp phần làm tăng giá trị thu
hoạch trên một đơn vị diện tích đất sản xuất của nông dân.
Song song với các loại cây màu, cây dưa hấu cũng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho
nông dân. Đây là mô hình luân canh được áp dụng rộng rãi nhất so với các loại cây
trồng màu khác. Lợi nhuận từ việc trồng luân canh của cây dưa hấu rất hấp dẫn, nhất
là vào dịp tết nguyên đán (Phạm Văn Nghi, 2003).
2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn
Theo Trương Trọng Ngôn (2003), khi chuyển dịch từ mô hình chuyên canh lúa sang
mô hình luân canh lúa với màu (như bắp, đậu nành, đậu xanh, mè…) người nông dân

luôn phải đối mặt với những thuận lợi và khó khăn sau:
-Về thuận lợi: Điều kiện tự nhiên thích hợp cây màu sinh trưởng và phát triển; trình
độ tiếp thu khoa học kỹ thuật của nông dân nhạy bén; người dân sử dụng đất đai năng
động; cải tạo và nâng cao độ phì của đất; giúp bảo vệ môi trường được tốt do giảm
lượng phân và thuốc xịt; nguồn thu nhập đa dạng.
Còn theo Hứa Thị Thía (2006) việc luân canh lúa với màu cũng gặp thuận lợi nhờ
thiên nhiên ưu đãi nước ngọt quanh năm cộng với hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh luôn
bảo đảm đủ nước trong mùa hạn và không để xảy ra ngập úng khi lũ về.
- Về khó khăn: Nhu cầu giống cho đầu vụ thường không đáp ứng đủ; phẩm chất hạt
giống thường không đảm bảo; việc làm cỏ không kịp thời và thích hợp; không có
giống kháng với sâu bệnh chính; không có những giống chống chịu với điều kiện khắc
nghiệt của môi trường (Trương Trọng Ngôn, 2003).
Theo Quang Minh Nhựt (2005), khi trồng màu đòi hỏi công đầu tư lao động cao, do
sản xuất nhỏ, lao động thủ công; thiếu kiến thức phù hợp trong chuyển đổi từ sản xuất
lúa độc canh sang mô hình luân canh lúa-màu; giá thấp và không ổn định; công nghệ
chế biến chưa phát triển để chế biến sản phẩm; khó bảo quản hạt giống trong điều kiện
tự nhiên.
2.2 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA MÀU TỈNH ĐỒNG THÁP
2.2.1 Hiện trạng sản xuất hoa màu của tỉnh Đồng Tháp
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đồng Tháp (2007) đã báo cáo tổng kết
phát triển kinh tế nông nghiệp năm 2007 và kế hoạch cho năm 2008 với diện tích hoa
màu, cây công nghiệp ngắn ngày của tỉnh Đồng Tháp cả năm ước đạt 33.093 ha, đạt
82,73% kế hoạch đề ra, tăng hơn 3.202 ha so với năm 2006 với các cây chủ lực như
đậu nành, bắp, mè…, trong đó: Diện tích cây mè 2.668 ha/2.600 ha, đạt 102,6% kế
hoạch đề ra, năng suất trung bình đạt 1,3 tấn/ha, lợi nhuận khoảng 8 triệu đồng/ha; cây
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

7
đậu nành diện tích 7.634 ha/11.000 ha, đạt 69,4% kế hoạch đề ra, năng suất trung bình
đạt 2,3 tấn/ha, lợi nhuận khoảng 8,9 triệu đồng/ha; cây bắp diện tích 4.374 ha/6.000

ha, đạt 72,9% kế hoạch đề ra, năng suất trung bình khoảng 7 tấn/ha, lợi nhuận khoảng
7,5 triệu đồng/ha và hoa màu các loại khác là 18.417 ha. Trong quá trình chuyển đổi
diện tích lúa sang trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày còn chậm do giá lúa
ổn định ở mức cao, dễ sản xuất, dễ bảo quản, dễ bán, trong khi đó sản xuất hoa màu
đòi hỏi lực lượng lao động nhiều, thị trường tiêu thụ không ổn định.
Cũng theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đồng Tháp (2008) cho biết năm
2008, diện tích xuống giống hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày tuy có giảm so
với năm trước do nông dân tăng diện tích trồng lúa, nhưng vẫn đạt 28.975 ha, chiếm
80,84% kế hoạch đề ra, trong đó: Diện tích bắp 5.223 ha, đậu nành 6.150 ha, mè 2.522
ha, sen 1.830 ha và màu các loại khác 13.250 ha. Năng suất hoa màu đạt khá cao,
nhiều loại nông dân có lãi trung bình gấp từ 1,2 – 2,5 lần so với trồng lúa. Công tác
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất hoa màu được ngành nông
nghiệp quan tâm đầu tư thực hiện. Bên cạnh đó, từ nguồn vốn khuyến nông đã thực
hiện các mô hình giảm giá thành và cơ giới hóa ứng dụng công cụ sạ hàng để tỉa bắp,
đậu nành, cây mè; trình diễn máy thu hoạch đậu nành, mè với tổng diện tích 16 ha ở
các huyện Cao Lãnh, Lấp Vò, thị xã Sa Đéc, thành phố Cao Lãnh, giá thành sản xuất
đậu nành, mè trong mô hình thấp hơn từ 495 đồng/kg đến 1.750 đồng/kg và năng suất
cao hơn bên ngoài từ 0,1 tạ/ha đến 0,6 tạ/ha. Ngành Nông nghiệp cũng đã thực hiện
mô hình sản xuất khoai lang gắn kết với tiêu thụ sản phẩm ở huyện Tân Hồng với diện
tích thực hiện 12 ha, năng suất bình quân 20 tấn/ha, lợi nhuận 50 triệu đồng/ha (Sở
Nông nghiệp & PTNT Đồng Tháp, 2008).
2.2.2 Định hướng phát triển hoa màu tỉnh Đồng Tháp
Kế hoạch sản xuất của sở Nông nghiệp và PTNT năm 2009 thì diện tích hoa màu và
cây công nghiệp ngắn ngày là 39.245 ha, tăng 10.270 ha so với năm 2008, trong đó
các loại cây chủ lực là đậu nành là 10.000 ha, bắp 6.000 ha, mè 2.700 ha… (Sở Nông
nghiệp & PTNT Đồng Tháp, 2008). Các giải pháp điều hành trong sản xuất của định
hướng phát triển hoa màu trong năm 2009 là hỗ trợ các vùng chuyên canh sản xuất
hoa màu-cây công nghiệp ngắn ngày tập trung; tập trung đầu tư các giải pháp khoa
học kỹ thuật để nâng cao năng suất, hạ giá thành (thử nghiệm các giống có năng suất
cao, xây dựng các biện pháp giảm giá thành, phổ biến quy trình sản xuất tiên tiến…),

đẩy mạnh việc đưa cơ giới hóa vào sản xuất đối với các vùng có quy mô lớn; hỗ trợ
đầu tư về cơ sở hạ tầng, tập huấn kỹ thuật sản xuất, tìm mối liên kết tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho nông dân (Sở Nông nghiệp &
PTNT Đồng Tháp, 2008).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

8
2.2.3 Những thuận lợi và khó khăn
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp & PTNT Đồng Tháp (2008) đã phân tích cho thấy
những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển hoa màu của tỉnh Đồng Tháp như
sau:
- Về thuận lợi: Được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Sở Nông Nghiệp và PTNN, sự
hỗ trợ của các đơn vị có liên quan; được sự tham gia và hưởng ứng nhiệt tình của
nông dân; có chính sách hỗ trợ của Tỉnh, Trung ương về giống, vật tư…; mô hình
khuyến nông gắn với tập huấn, hội thảo đã tạo điều kiện cho nông dân trao đổi kinh
nghiệm trong sản xuất và ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất; chú
trọng phát triển sản xuất theo hướng hữu cơ, bền vững tạo ra sản phẩm an toàn, bảo
đảm vệ sinh an toàn.
- Về khó khăn: Hầu hết các địa phương chưa có quy hoạch sản xuất chi tiết nên chưa
quản lý thực hiện theo quy hoạch; do vậy sản phẩm hàng hóa tiêu thụ chậm, sản lượng
tồn đọng lớn; việc thông tin thị trường ở tầm vĩ mô cũng như vi mô chưa chính xác,
gây khó khăn cho sản xuất và tiêu thụ; giá nông sản biến đổi và thị trường tiêu thụ
chưa ổn định, giá vật tư nguyên liệu và chi phí dịch vụ tăng nhanh làm giảm hiệu quả
sản xuất; việc nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả còn gặp khó khăn do sự
phối hợp giữa huyện thị và các đoàn thể còn hạn chế; sản xuất và tiêu thụ chưa được
gắn kết do chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, đặc biệt giữa người
sản xuất và các doanh nghiệp tiêu thụ chế biến xuất khẩu (Sở Nông nghiệp & PTNT
Đồng Tháp, 2008).
2.3 TỔNG QUAN VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA MÀU HUYỆN CHÂU
THÀNH

2.3.1 Tổng quan huyện Châu Thành
2.3.1.1 Vị trí địa lý, địa hình
Huyện Châu Thành có 11 xã và 01 thị trấn, diện tích tự nhiên là 245,94 km
2
dân số
năm 2007 là 156.000 người.
Nằm cặp sông Tiền, có sông Sa Đéc chảy qua và hệ thống kênh trục chính nối ra sông
Tiền, ngoài việc cung cấp nguồn nước ngọt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
giao thông thủy. Đồng thời nằm gần Quốc lộ 1A, có Quốc lộ 80 đi qua tạo lợi thế cho
huyện trong việc vận tải lương thực, thủy sản, vật tư, ... phục vụ phát triển kinh tế xã
hội của huyện.
Là một huyện nằm ở phía Nam của tỉnh, thuộc vùng ngập lũ nông, có nguồn nước
ngọt dồi dào, đất đai màu mỡ là điều kiện phát triển nền sản xuất nông-ngư nghiệp
theo hướng đa dạng hóa cây trồng vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

9
Hình 2.1: Bản đồ hành chánh huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

10
Địa hình có hướng dốc từ sông Tiền vào trong nội đồng và tương đối bằng phẳng. Cao
độ phổ biến (+0,8)-(+1,2), cao nhất là (+1,5), thấp nhất là (+0,7) (theo Viện Khảo Sát
Thiết Kế Thuỷ lợi Nam Bộ lập năm 1982). Bề mặt địa hình bị chia cắt bởi hệ thống
kênh mương dày đặc thuận lợi cho tưới tiêu, song lại hạn chế việc cơ giới hóa nông
nghiệp.
2.3.1.2 Khí hậu
Huyện Châu Thành có đặc điểm khí tượng chung của tỉnh Đồng Tháp, nằm ở Đồng
Bằng Sông Cửu Long chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa gần xích đạo.
- Gió: Thịnh hành theo 2 hướng Tây Nam và Đông Bắc (tháng 5-11), ngoài ra còn có

gió chướng (tháng 2-tháng 4), cá biệt mùa mưa thường có gió lốc.
- Bốc hơi: Tập trung lớn vào các tháng 2, 3, 4, 5 và 6. Lượng bốc hơi trung bình từ 3-5
mm/ngày. Tổng lượng bốc hơi năm là 1657,2 mm tương ứng với lượng mưa, song
lệch về thời gian.
- Ẩm độ: Bình quân cả năm là 82,5%. Bình quân thấp nhất là 50,3%. Trong đó tháng 3
có ẩm độ nhỏ nhất (32%).
- Nắng: Là vùng có số giờ nắng cao (208 giờ/tháng), tháng 3 có số giờ nắng cao nhất
là 9,1 giờ/ngày.
- Bức xạ: Bức xạ tổng cộng bình quân:155 Kcal/cm
2
/năm.
Bức xạ trực tiếp: 82 Kcal/cm
2
/năm.
Bức xạ khuyếch tán: 72 Kcal/cm
2
/năm.
Bức xạ hấp thu:29 Kcal/cm
2
/năm.
- Mưa: Lượng mưa trung bình nhiều năm tại Châu Thành là 1200 mm/năm. Mùa mưa
bắt đầu tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa chiếm từ 90-92% lượng mưa cả năm, trong
đó tập trung tháng 9 và tháng 10 (30-40% lượng mưa năm). Mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 4 năm sau, lượng mưa chiếm từ 8-10% lượng mưa năm.
Vụ Đông Xuân hầu như không mưa nên phải sử dụng nước mặt, vụ Hè Thu gắn với
mùa mưa, nhưng hàng năm thường xảy ra từ 5-8 đợt không mưa liên tục trong 5 ngày,
từ 3-6 đợt không mưa liên tục trong 7 ngày và 1-2 đợt không mưa liên tục trong 10
ngày gây hạn bà chằn. Yêu cầu nước tưới cho vụ Hè Thu rất lớn, việc lợi dụng nước
mưa tưới là không đáng kể. Vụ Thu Đông thường phải gặp nhóm mưa 1, 3, 5 ngày lớn
nên khi mưa nhiều phải xét đến tiêu úng (Nhóm mưa X1 >= 50 mm, nhóm mưa X3

>= 75 mm, nhóm mưa X5>= 100 mm). Mặt hạn chế là mưa vụ Hè Thu làm ảnh hưởng
đến việc thu hoạch phơi sấy lúa.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

11
2.3.1.3 Chế độ thuỷ văn
Chịu tác động của 3 yếu tố: Lũ thượng nguồn, mưa nội đồng và thuỷ triều biển Đông,
hàng năm hình thành 2 mùa rõ rệt: Mùa lũ trùng hợp với mùa mưa và mùa kiệt trùng
với mùa khô.
*Chế độ thuỷ văn mùa kiệt
Mùa kiệt nối tiếp sau mùa lũ từ tháng 12 đến tháng 6 năm sau. Chế độ thủy văn
trên sông, kênh chịu tác động trực tiếp của thủy triều biển Đông, mực nước giảm dần
đến tháng 1, 2; một số khu vực có thể lợi dụng thủy triều khai thác tưới tự chảy.
*Chế độ thủy văn mùa lũ
Lũ xuất hiện ở Đồng Tháp từ tháng 7 đến tháng 11 vào loại sớm nhất ở khu vực
ĐBSCL, trong đó các huyện thị phía Nam cũng như huyện Châu Thành, lũ về muộn
hơn so với các huyện đầu nguồn. Nằm ở khu vực ĐBSCL, trước đây cứ từ 5-6 năm lại
có một trận lũ lớn, gần đây lũ lớn xảy ra liên tiếp gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời
sống của nhân dân.
Dòng chảy lũ trong kênh thời kỳ đầu tập trung trong lòng dẫn, sau đó vượt qua bờ bao
tràn đồng, hướng chảy lũ theo hướng Tây Bắc- Đông Nam gây ngập lụt.
2.1.1.4 Đặc điểm địa chất và đất đai
* Địa chất
+ Đặc điểm địa chất huyện Châu Thành mang cấu trúc chung của tỉnh Đồng Tháp
cũng như vùng ĐBSCL, là loại trầm tích trẻ sông biển bao gồm: phù sa cổ, Holoxen...
+ Loại đất được hình thành trên phù sa cổ có bề dày từ 2-7m, chủ yếu là đất cát, cát
pha và thịt nhẹ dễ bị rửa trôi, nghèo chất dinh dưỡng.
+ Loại đất hình thành từ trầm tích sông phân bố ven sông lớn hình thành đất phù sa
chiếm hầu hết diện tích trong huyện.
Từ các đặc điểm địa chất và địa hình đã tạo nên lớp vi thổ nhưỡng thể hiện cấu trúc

đất đai khác nhau giữa các vùng trong huyện.
* Đất đai
Đất đai vùng Cù Lao, ven sông Sa Đéc và các kênh lớn lâu đời là các dãy đất phù sa
ven sông và hàng năm được phù sa bồi đắp, quanh năm có nguồn nước ngọt dồi dào
thuận lợi cho phát triển lúa, màu, cây ăn trái và nuôi trồng thuỷ sản.
Qua các kết quả nghiên cứu về đất đai do các chuyên gia thuộc Viện Nông Hoá Thổ
Nhưỡng-Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn thực hiện năm 1997 đã điều tra
đánh giá tài nguyên đất và thành lập bản đồ đất tỷ lệ 1/100.000 và kết quả khảo sát đất
cho thấy huyện Châu Thành có 2 nhóm đất chính là:
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

12
- Đất phù sa: 16.120ha chiếm 68,88% toàn huyện
- Đất phèn: 4.981 ha chiếm 21,28% toàn huyện
- Diện tích sông rạch: 2.303ha chiếm 9,84% toàn huyện.
* Vùng thích nghi đất đai đối với cây màu
Theo Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Châu Thành (2008b) dựa trên khả năng
thích nghi đất đai cho kiểu sử dụng đất đối với cây màu đã phân loại ra ba vùng thích
nghi đất đai của huyện như sau:
Vùng I: Là vùng với đặc điểm phân bố trên đất không phèn, phù sa bồi và ven sông
nên vùng này có điều kiện thích nghi cao đối với cây rau thực phẩm (đậu bắp, củ cải,
dưa leo, hành, ngò...) và cây công nghiệp ngắn ngày (đậu nành, mè) với mức độ thích
nghi cao (S1).
Vùng II: là vùng thích nghi trung bình (S2) cho các kiểu sử dụng đất đai trên đặc điểm
điều kiện tự nhiên như được bố trí ở các đơn vị đất đai thuộc nhóm đất phèn trung
bình với độ sâu xuất hiện 50-80, >120 cm, đây là vùng trũng gặp khó khăn trong tưới
và tiêu nước và khả năng sinh phèn cao ảnh hưởng đến hiệu quả canh tác cây trồng.
Vùng này thích nghi cao với cây rau thực phẩm (đậu bắp, củ cải, dưa leo, hành, ngò...)
và cây lương thực (bắp, khoai...)
Vùng III: là vùng có điều kiện đất bị phèn nặng, với mức độ xuất hiện tầng sinh phèn

nông 0-50 cm. Vùng này cũng gặp điều kiện khó khăn trong canh tác vào mùa khô đất
bị xì phèn trong khi mùa mưa bị ngập úng. Qua kết quả đánh giá thích nghi kém (S3)
cho các kiểu sử dụng.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

13

Hình 2.2: Bản đồ phân vùng thích nghi đất đai, huyện Châu Thành- Đống Tháp
Nguồn: Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Châu Thành năm 2008b
2.3.2 Hiện trạng sản xuất hoa màu
Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Châu Thành (2007) đã báo cáo tổng kết phát triển
kinh tế nông nghiệp-nông thôn huyện Châu Thành năm 2007 kế hoạch năm 2008 cho
thấy diện tích hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày (CNNN) cả năm 2007 ước đạt
3.092 ha/3000ha, đạt 103% kế hoạch, tăng hơn 944 ha so với năm 2006, trong đó:
Diện tích cây khoai lang 545,2 ha, năng suất đạt 24 tấn/ha, sản lượng 13.084,8 tấn;
cây bắp 21,85 ha, năng suất đạt 8 tấn/ha, sản lượng 174,8 tấn; cây ấu 106,5 ha, năng
suất đạt 8,5 tấn/ha, sản lượng 905,25 tấn; cây sen 505,6 ha, năng suất 2,3 tấn/ha, sản
lượng 662,6 tấn; cây đậu nành 429,9 ha, năng suất 2,4 tấn/ha, sản lượng 1.032 tấn; đậu
xanh 05ha, năng suất 1,8 tấn/ha, sản lượng 9 tấn; cây dưa hấu 412,4 ha, năng suất 25
tấn/ha, sản lượng 10.310 tấn, cây mè 44,7 ha, năng suất 1,2 tấn/ha, sản lượng 53,6 tấn
và màu các loại khác 1.020,85ha. Việc chuyển đổi diện tích lúa sang trồng hoa màu và
cây CNNN còn chậm, do giá lúa ổn định ở mức cao, dễ sản xuất, dễ bảo quản, dễ tiêu
thụ, trong khi đó sản xuất rau màu thì thị trưởng tiêu thụ chưa ổn định (Phòng nông
nghiệp và PTNT huyện Châu Thành, 2007).
Cũng theo Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Châu Thành (2008a) cho biết năm
2008 tổng diện tích hoa màu đã xuống giống trong 03 vụ Đông Xuân, Hè Thu và Thu
Đông là 2.726,7 ha trên 3.500 ha (đạt 77,9 % kế hoạch). Trong đó, hoa màu vụ Đông
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

14

Xuân xuống giống được 607,75 ha (đạt 121,5% kế hoạch), cụ thể như: Khoai lang
68,5 ha, năng suất 25 tấn/ha; củ cải 77 ha, năng suất 25 tấn/ha; đậu xanh 2 ha năng
suất 1,8 tấn/ha; dưa hấu 34,55ha năng suất 28 tấn/ha; đậu nành 2,3ha năng suất 3
tấn/ha; sen 112,5ha năng suất 2,3 tấn/ha; ấu 146,1ha năng suất 8,5 tấn/ha; rau màu các
loại 164,8ha năng suất 12 tấn/ha; Vụ Hè Thu 2008: Xuống giống được 1.529,6 ha,
trong đó: Khoai lang 174ha, năng suất 27 tấn/ha; đậu nành 692ha, năng suất 2,4
tấn/ha; đậu xanh 5,3ha, năng suất 2 tấn/ha; mè 28ha, năng suất 1,1 tấn/ha; ấu 19,3ha,
năng suất 6,7 tấn/ha; sen 147,8ha, năng suất 2,3 tấn/ha; bắp nù 13,9 ha, năng suất 2,5
tấn/ha; ớt 2,1 ha; dưa hấu 127,1 ha, năng suất 25 tấn/ha; củ cải 55ha, năng suất bình
quân 30 tấn/ha; rau các loại 265,15 ha, năng suất bình quân 15 tấn/ha; Vụ Thu Đông
2008: xuống giống 589,3 ha, gồm khoai lang 22 ha, năng suất 27 tấn/ha; đậu nành
2,1ha, năng suất bình quân 2,4 tấn/ha; củ cải 58 ha, năng suất bình quân 35 tấn/ha; sen
197,3 ha, năng suất bình quân 2,3 tấn/ha, bắp 11,5 ha, năng suất bình quân 2,5 tấn/ha;
dưa hấu 37,5 ha, năng suất bình quân 29 tấn/ha, ấu 45,6 ha, năng suất bình quân 15
tấn/ha ; rau dưa các loại 215,3 ha năng suất bình quân 15 tấn/ha. Nhìn chung, diện tích
hoa màu năm 2008 không đạt chỉ tiêu vì giá lúa từ đầu vụ ở mức cao, nên nông dân
tập trung phát triển cây lúa (Phòng nông nghiệp và PTNT huyện Châu Thành, 2008a).
Thời vụ trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp diễn ra quanh năm và được phân chia ra làm 3 vụ chính: Vụ Đông Xuân thời vụ
xuống giống bắt đầu từ tháng 11 dương lịch hàng năm và kết thúc vào tháng 1 năm
sau, chiếm 15% tổng diện tích gieo trồng màu cả năm; vụ Hè Thu bắt đầu xuống
giống từ tháng 2 dương lịch đến tháng 5, tương ứng với mùa khô trong năm, chiếm
khoảng 70% tổng diện tích gieo trồng màu cả năm; vụ Thu Đông xuống giống từ
tháng 6 đến tháng 9 hằng năm, chiếm 15% diện tích gieo trồng màu cả năm (Phòng
nông nghiệp và PTNT huyện Châu Thành, 2008a).
Còn theo phân tích của Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Châu Thành (2008b) cho
thấy diện tích gieo trồng cây màu tăng chậm. Nhìn chung diện tích, năng suất, sản
lượng cây màu của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp còn ở mức độ thấp so với tiềm
năng. Diễn biến sử dụng đất trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày từ năm 2000
đến 2006 của huyện có sự thay đổi, năm 2000 tổng diện tích gieo trồng màu là 359 ha,

đến năm 2006 tổng diện tích gieo trồng màu là 2.147 ha, tăng 1.788 ha. Bên cạnh đó,
gieo trồng diện tích không tập trung và ở qui mô nhỏ nên chưa có sức cạnh tranh, diện
tích trồng màu còn hạn chế là do giá cả chưa hợp lý, tổ chức tiêu thụ sản phẩm chưa
khép kín. Phân bố lao động chưa đều trong khi sản xuất màu đòi hỏi công chăm sóc
lớn. Giống cây màu chưa thực sự được quan tâm, sản xuất cây màu còn mang tính thủ
công.
Các loại rau màu chủ lực của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp theo Phòng Nông
nghiệp & PTNT huyện Châu Thành (2008b) cho biết:
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

15
Cây đậu nành: Năm 2000 xuất hiện tại địa phương theo hình thức tự phát của người
dân tự học hỏi. Năm 2006-2007: Giá đậu nành tăng cao cho nên hiện nay cây đậu
nành đang được người dân đầu tư khá nhiều.
Cây bắp: Bắp trồng tại Châu Thành, Đồng Tháp chủ yếu là loại bắp nù, bắp lai chưa
phát triển. Bắp nù được trồng từ rất lâu, chủ yếu là do tự phát. Diện tích trồng không
tập trung, cho nên hình thức bán chủ yếu là bán tại các chợ nhỏ (tiêu dùng trong địa
phương là chủ yếu). Bắp nù được trồng phổ biến trong vụ Xuân Hè, thu hoạch sau 90
ngày.
Cây khoai lang: Năm 1980, cây khoai lang xuất hiện tại địa phương với hình thức tự
phát, người dân tự học hỏi và canh tác, dần dần tự rút ra kinh nghiệm cho riêng bản
thân. Năm 1985, khoai lang bị sùng hàng loạt, khoai xuống giá và rất khó bán. Khoai
lang được trồng chủ yếu trong vụ Hè Thu.
Cây dưa hấu: Năm 1993, cây dưa hấu xuất hiện, chủ yếu cũng do hình thức tự phát.
Năm 2006-2007, giá dưa hấu đột nhiên giảm nhiều, không ít người dân bị lỗ và phải
bỏ trồng cây màu này. Năm 2008, giá dưa tăng cao.
Cây sen: Cây sen xuất hiện tại địa phương năm 2002, do người dân tự học hỏi từ
những vùng lân cân. Trong năm giá sen không ổn định và liên tục biến động, vào
những mùa gần đây giá sen thường cao vào đầu vụ rộ hay cuối vụ (2000 đồng/gương).
Khi đến mùa thu hoạch giá sen thường rất thấp (200-500 đồng/gương).

Cây ấu: Năm 1998 bắt đầu xuất hiện tại địa phương, thuộc giống nội địa. Năm 2000
bắt đầu thay đổi giống Đài Loan. Chủ yếu do người dân tự phát trồng, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau. Dễ trồng phù hợp điều kiện, dễ bán.
Rau đậu thực phẩm: Nếu trồng trên đất chuyên màu thì hệ số quay vòng của đất từ
3,0-3,5. Nếu trồng trên đất lúa theo mô hình luân canh 2 vụ lúa-1 vụ màu thì có thể
trồng rau đậu thực phẩm trong vụ Đông xuân, Xuân hè hoặc Hè thu tùy theo điều kiện
địa hình đất và nguồn nước tưới. Trên đất lúa theo mô hình 1 lúa + 1 hoặc 2 vụ màu
thì rau đậu thực phẩm có thể trồng trong vụ Đông xuân và Xuân hè.
Cũng theo phòng Nông nghiệp & PTNT (2008b) thì việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
trong canh tác hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày ở huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp như sau: Nông dân sử dụng giống địa phương vẫn còn phổ biến, nhất là
đối với rau màu thực phẩm. Mặc dù, trong những năm qua ngành Nông nghiệp huyện
Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp đã khảo nghiệm nhiều giống mới, nhưng việc áp dụng
vào sản xuất của nông dân đạt tỷ lệ còn thấp. Tuy nhiên, huyện đã có nhiều nỗ lực
nghiên cứu, khảo nghiệm giống mới, đưa vào sản xuất thử ở các vùng sinh thái nhiều
giống cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày đạt năng suất và chất lượng khá cao,
khả năng phát triển tốt, như: bắp nù, khoai lang Nhật, dưa hấu Thiên nông, đậu nành,

×