Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG “MUA LẠI, SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP” TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.01 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG “MUA LẠI, SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP”
TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam
3.1.1.Diễn biến của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển vượt bậc, đặc biệt là từ cuối thập niên 1990 và những năm đầu thế kỷ 21. Sự
phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam được chứng nhận bằng những con số cụ
thể như: GDP liên tục tăng qua các năm, tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 2003 đến 2007
lần lượt là 7,34%; 7,79%; 8,44%; 8,23% và 8,48%
(1)
, đời sống người dân được nâng
cao, thu nhập bình quân/người tăng từ 4,15 triệu đồng/người/năm vào năm 2003 lên
5,42 triệu đồng/người/năm vào năm 2007
(2)
, đời sống nông dân ở những vùng sâu vùng
xa được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Những thành công trong công tác cải cách
nền kinh tế nước nhà đã được cả thế giới công nhận.
Chính sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự hướng dẫn của Nhà
nước đã làm xuất hiện nhiều loại thị trường trong nền kinh tế. Trong đó, sự xuất hiện
của thị trường chứng khoán là một bước ngoặc đáng nghi nhận. Kể từ khi ra đời đến
nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Chính sự
ra đời của thị trường chứng khoán và những biến động bất ngờ trên thị trường đã gây
tác động rất lớn đến các nhà đầu tư và cả doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải hoạt động
trong môi trường minh bạch hơn, cạnh tranh gây gắt hơn. Và như thế, sự phát triển thị
trường chứng khoán đến một giai đoạn nhất định sẽ dẫn đến sự hình thành một thị
trường mới. Đó chính là thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Hay nói cách khác,
thị trường mua lại hay sáp nhập doanh nghiệp là hệ quả tất yếu của sự phát triển thị
trường chứng khoán. Hiện tại, thị trường chứng khoán Việt Nam đã tác động và dẫn đến
việc hình thành mầm móng sơ khai của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp Việt
Nam. Sự ra đời và phát trỉển của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp (M&A) sẽ
tác động đến quá trình tái cấu trúc lại các doanh nghiệp và cả nền kinh tế, tạo nên cơ


hội phát triển tốt hơn cho cả doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
Thị trường Việt Nam là thị trường mới đang phát triển và phát triển khá nhanh,
chính vì thế sẽ có rất nhiều doanh nghiệp mới thành lập với qui mô nhỏ. Đồng thời
trong điều kiện đó sẽ có nhiều sự điều chỉnh từ phía nhà nước, thị trường tác động đến
doanh nghiệp, điều đó tạo nên một cơ chế sàn lọc, những doanh nghiệp mạnh về năng
lực tài chính, quản lý sẽ tiếp tục phát triển và các doanh nghiệp không đủ năng lực phải
chọn hình thức phá sản, giải thể hoặc chọn con đường bán lại hay sáp nhập. Đối với các
doanh nghiệp chống chọi được sự sàn lọc khắc nghiệt của cơ chế thị trường tiếp tục
phát triển thì sẽ tìm đến con đường tắt để đạt được sự thành công hơn nữa, con đường
đó là mua lại doanh nghiệp nhỏ hơn có những lợi thế mà hiện tại doanh nghiệp mình
không có. Cung có, cầu có, tất yếu dẫn đến việc hình thành thị trường. Như vậy thị
trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đã được hình thành ở Việt Nam từ năm 2000 và
dần phát triển đến nay có thể nói hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
đang nóng dần và còn rất nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai.
Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp 1999, trong Luật đã đề cập đến một hình
thức để tổ chức lại doanh nghiệp là “hợp nhất và sáp nhập” đã mở đầu cho sự xuất hiện
hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở thị trường Việt Nam. Như vậy, hoạt động
sáp nhập và mua lại doanh nghiệp chính thức xuất hiện ở thị trường Việt Nam từ năm
2000 nhưng xảy ra ở những giao dịch với qui mô nhỏ và gia tăng với tốc độ rất nhanh
qua từng năm .
Bảng 3.1: Diễn biến tình hình hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
Đơn vị tính: triệu USD
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số
vụ
Giá
trị
Số
vụ
Giá

trị
Số
vụ
Giá
trị
Số
vụ
Giá
trị
Số
vụ
Giá
trị
Số
vụ
Giá
trị
41 118 23 31 22 64 38 299 108 1.719 146 1.009
(Nguồn:Pricewatershouse Coopers)
(3)
Tốc độ tăng trưởng của hoạt động này tại thị trường Việt Nam khá nhanh. Riêng
năm 2007 là năm phát triển vượt bậc của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp của
Việt Nam. Sự gia tăng trong năm 2007 so với năm 2006 đạt cả về mặt số lượng giao
dịch và giá trị giao dich. Theo đánh giá của công ty kiểm toán Pricewatershouse Cooper
thì thị trường mua lại sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam có tốc độ tăng nhanh nhất
trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Chính những biến động mạnh ở các thị
trường bất động sản, chứng khoán, vàng, ngoại tệ đã tác động rất mạnh đến hoạt động
doanh nghiệp trong năm 2007. Với sự đóng băng của thị trường bất động sản vào thời
điểm đầu năm và sự khủng hoảng dẫn đến sự tụt giá liên tục ở thị trường chứng khoán
và sự mất giá nhanh chóng của đồng đôla Mỹ đã khiến nhiều doanh nghiệp lâm vào

hoàn cảnh khó khăn và phải lựa chọn giải pháp bán lại cổ phần, tạo điều kiện cho sự
phát triển mạnh của thị trường M&A. Đặc biệt trong đợt điều chỉnh giá giảm của thị
trường chứng khoán trong năm 2007 cộng hưởng với những tác động tiêu cực của
những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu đã làm cho các công ty chứng
khoán gặp rất nhiều khó khăn nên phải nói rằng năm 2007 là năm mà có rất nhiều vụ
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp của các công ty chứng khoán. Đồng thời, sự cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gây gắt đã làm cho các vụ mua bán cổ
phiếu cho cổ đông chiến lược là các ngân hàng thương mại nước ngoài của các ngân
hàng thương mại trong nước cũng diễn ra rất nhiều, góp phần làm cho thị trường mua
bán doanh nghiệp ở Việt Nam năm 2007 tăng rất mạnh so với năm 2006. Ngoài lý do
trên thì có rất nhiều doanh nghiệp thực hiện M&A để tận dụng những lợi thế mà nó có
thể mang lại cho doanh nghiệp.
Chuyển sang năm 2008, nền kinh tế toàn cầu chuyển sang thời kỳ khủng hoảng.
Việt Nam cũng chịu sự ảnh hưởng của đợt khủng hoảng này. Vì thế, hầu hết các doanh
nghiệp đều gặp khó khăn, đặc biệt là vào những tháng cuối năm 2008. Trước tình hình
đó, các doanh nghiệp trở nên thận trọng hơn trong các giao dịch M&A. Chính vì thế
những tháng đầu năm 2008 hoạt động M&A diễn ra cũng khá sôi động những đến cuối
năm thì có dấu hiệu chựng lại, và như vậy đã làm cho giá trị giao dịch M&A ở Việt
Nam trong năm 2008 giảm về mặt giá trị hơn so với năm 2007.
Tuy nhiên, tương lai gần, sau khi nền kinh tế thế giới và Việt Nam vừa bước ra
khỏi cuộc khủng hoảng, được dự báo bắt đầu từ quý 4 năm 2009, thì nhu cầu thực hiện
hoạt động mua lại và sáp nhập của các doanh nghiệp sẽ gia tăng nhanh chóng để đáp
ứng yêu cầu tái cấu trúc lại hoạt động doanh nghiệp nói chung và yêu cầu tái cấu trúc
tài chính doanh nghiệp nói riêng.
3.1.2. Những đặc điểm chính của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
Việt Nam
3.1.2.1. Hầu hết các giao dịch M&A đều có sự tham gia của yếu tố nước ngoài
Trong suốt thời gia qua, các doanh nghiệp nước ngoài đóng một vai trò rất quan
trọng cho thị trường M&A ở Việt Nam. Mặc dù có một vài giao dịch giữa các doanh
nghiệp trong nước như Kinh Đô mua 35,4% công ty cổ phần nước giải khát Tribeco,

Techcombank mua 10% cổ phần của Ngân hàng thương mại cổ phần Sao Việt, gạch
Đồng Tâm mua lại 60% vốn cổ phần của Sứ Thiên Thanh, nhưng hầu hết các vụ giao
dịch M&A trên thị trường Việt Nam đều có sự tham giá một bên là các doanh nghiệp
nước ngoài. Điển hình như: Eximbank bán 15% vốn cổ phần cho Sumitoom Mitsui
Banking Corporation (SMBC), Indochina Capital mua Công ty CP địa ốc Hoàng Quân
và Công ty TP tư vấn thương mại và dịch vụ địa ốc Hoàng Quân – Mekong mỗi công ty
20%, Vinamit cũng đã bán cho Indochina Capital 20% vốn cổ phần, Pacific Airline bán
cho Quatas Airline 30% vốn cổ phần, Techcombank bán cho HSBC 15% vốn cổ phần,
Nhà máy sữa Nestle bán cho công ty CP Anco, Kinh đô mua lại nhà máy sản xuất kem
Wall’s, Bảo Minh CMG bán toàn bộ công ty cho Daiichi…. Việc hầu hết các giao dịch
M&A ở thị trường Việt Nam trong thời gian qua đều có sự tham gia của yếu tố nước
ngoài là điều dễ hiểu. Bởi lẽ thị trường trong nước là thị trường mới phát triển và trong
thời gian có nhiều sự điều chỉnh, đa phần các doanh nghiệp trong nước là các công ty có
qui mô nhỏ và vừa, và yếu về mặt tài chính. Sự yếu kém về năng lực tài chính thường
dẫn đến sự yếu kém trong quá trình quản trị, điều hành và hiệu quả hoạt động. Trong
lúc đó, thị trường lại diễn ra hoạt động cạnh tranh gây gắt giữa các doanh nghiệp. Vì
thế, để tạo sức mạnh cho doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động và phát triển thì các
doanh nghiệp trong nước cần sự góp sức về công nghệ, kỹ thuật, năng lực quản lý, điều
hành của các doanh nghiệp nước ngoài.
Trong các giao dịch có sự tham gia của yếu tố nước ngoài thì hầu như phía nước
ngoài luôn đóng vai trò là người đi mua. Chỉ có một số ít trường hợp doanh nghiệp
trong nước đóng vai trò là người mua như trường hợp của Công ty CP Anco mua lại
Nestle, Kinh Đô mua kem Wall’s, Vinabico mua Kotobuki. Vẫn có trường hợp các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tự liên kết lại với nhau như trường hợp Savills
với Chestorton Vietnam. Như vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài chủ
yếu làm tăng lượng cầu cho thị trường. Các doanh nghiệp nước ngoài với một tiềm lực
tài chính lớn họ là khách hàng của các thương vụ M&A với giá trị lên đến hàng chục
cho đến hàng trăm triệu USD.
Sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường M&A Việt Nam trong
thời gian vừa qua là điều tất yếu. Thị trường Việt Nam là một thị trường mới mở, còn

rất nhiều tiềm năng khai thác và phát triển nên nó là tầm ngắm của các doanh nghiệp
nước ngoài. Sự tham gia của yếu tố nước ngoài sẽ làm tăng nguồn cầu và cung cho thị
trường, đồng thời nó có thể mang đến cho các doanh nghiệp trong nước nhiều lợi ích
nhưng đồng thời đó là tiềm ẩn những rủi ro, tác động tiêu cực đến nền kinh tế, doanh
nghiệp nếu như không có một sự điều chỉnh, kiếm soát chặt chẽ.
3.1.2.2. M&A là một phương thức tái cấu trúc lại doanh nghiệp
Tất cả các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
đều hướng đến một số mục tiêu nhất định. Những vấn đề mà hoạt động M&A có thể
giải quyết cho doanh nghiệp là rất nhiều, tuy nhiên do hoạt động này mới xuất hiện ở
Việt Nam, sự nhận biết của các đối tượng liên quan đến hoạt động này chưa nhiều nên
nó chưa phát huy hết những lợi ích vốn có của nó. Chính vì thế, các doanh nghiệp tiến
đến thực hiện hoạt động M&A trong thời gian qua chủ yếu hướng đến các mục tiêu: có
cơ hội tiếp cận với công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng về thị
trường, hoặc thực hiện M&A để tái cấu trúc lại doanh nghiệp hay mua lại các doanh
nghiệp khác để có cơ hội thâm nhập vào thị trường mới.
Đối với các doanh nghiệp trong nước, họ tìm hiểu và thực hiện hoạt động mua
lại hay sáp nhập doanh nghiệp là nhằm đạt được mục tiêu có cơ hội tiếp nhận những
công nghệ, kỹ thuật mới, hiện đại và những kỹ năng về quản lý, về thị trường của các
doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, các doanh nghiệp trong nước hầu như là đứng ở vị
thế người bán. Các doanh nghiệp trong nước thường bán một phần vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp cho phía nước ngoài để đổi lại có cơ hội tiếp nhận được những vấn đề
trong công tác quản lý và điều hành hay sản xuất, kinh doanh mà các doanh nghiệp
trong nước đang thiếu. Bibica bán cổ phần cho công ty Lotte để nhận được sự hỗ trợ từ
Lotte trong lĩnh vực công nghệ, bán hàng và tiếp thị, nghiên cứu phát triển để giúp
Bibica mở rộng và phát triển kinh doanh để trở thành nhà sản xuất kinh doanh bán kẹo
hàng đầu Việt Nam. Trên thực tế, vẫn có trường hợp doanh nghiệp trong nước mua lại
của doanh nghiệp nước ngoài. Chẳng hạn như Công ty CP Kinh Đô mua lại nhà máy
kem Wall’s hay công ty Anco mua lại nhà máy sữa Nestle. Nhưng mục tiêu của Kinh
Đô và Anco là muốn có được một dây chuyền sản xuất hiện đại của các đơn vị nước
ngoài này. Tóm lại, các doanh nghiệp Việt Nam muốn tận dụng lợi thế của doanh

nghiệp nước ngoài để thay đổi công nghệ, sắp xếp lại tình hình nhân sự, công tác quản
trị doanh nghiệp, nâng cao năng lực tài chính và năng lực cạnh tranh, tức doanh nghiệp
trong nước muốn thông qua M&A để thực hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để tránh tình trạng nguồn vốn đầu tư trong nước bị khan hiếm
trong thời gian gần đây các doanh nghiệp trong nước tiến hành bán cổ phần cho các
doanh nghiệp phía nước ngoài nhằm thu hút một lượng vốn tương đối lớn để đảm bảo
về khía cạnh tài chính cho doanh nghiệp. Ví dụ khi Bibica bán 30% vốn cổ phần cho
công ty TNHH Lotte – thuộc tập đoàn Lotte Hàn Quốc, thì đó là số cổ phần nằm trong
kế hoạch huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu giai đoạn 2 để tăng vốn điều
lệ năm 2007 của công ty. Hay vào tháng 9/2007 Bảo Minh bán cho AXA (Pháp) 16,6%
cổ phần nằm trong kế hoạch tăng vốn điều lệ của công ty từ 434 tỷ lên 755 tỷ đồng.
Hay việc cổ đông ngân hàng Eximbank bán 15% cổ phần của ngân hàng cho ngân hàng
Nhật Sumitoom Mitsui Banking Corporation (SMBC) nằm trong số cổ phần phát hành
bổ sung để tăng vốn điều lệ từ 2.800 tỷ lên 3.733 tỷ đồng Việt Nam,…
Đối với doanh nghiệp nước ngoài, họ luôn đánh giá thị trường Việt Nam là một
thị trường tiềm năng và họ mong muốn được khai thác thị trường này. Khi nền kinh tế
Việt Nam chuẩn bị chính thức mở cửa hoàn toàn (sau một thời gian nhất định, tùy theo
loại hàng hóa và thị trường, sau khi chính thức gia nhập tổ chứ thương mại thế giới) thì
đó chính là cơ hội để họ nhảy vào khai thác. Để chuẩn bị cho điều đó các doanh nghiệp
nước ngoài muốn đặt trước một bàn chân vào thị trường béo bở, và con đường đầu tư
vào các doanh nghiệp trong nước là cách lựa chọn thích hợp nhất trong giai đoạn hiện
nay. Đồng thời với hình thức đầu tư thông qua hoạt động M&A hiện nay sẽ giúp doanh
nghiệp nước ngoài giảm được chi phí đầu tư vào thị trường mới. Vì vậy, trong thời gian
qua, trong các thương vụ mua lại, sáp nhập doanh nghiệp thì doanh nghiệp nước ngoài
luôn đóng vai trò là người mua lại doanh nghiệp. Do hiện tại việc mua cổ phần các
doanh nghiệp trong nước của doanh nghiệp nước ngoài còn bị giới hạn nói chung với
giới hạn đối với từng ngành nghề đặc biệt, nên các doanh nghiệp nước ngoài hướng đến
việc mua lại một phần vốn cổ phần của các công ty cổ phần trong nước (trong giới hạn
cho phép). Như vậy, mục tiêu chính các của doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia vào
thị trường M&A Việt Nam là hướng đến việc sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam

trong tương lai.
Tóm lại, đối với doanh nghiệp Việt Nam, họ thực hiện hoạt động mua lại, sáp
nhập doanh nghiệp nhằm hướng đến mục tiêu là tăng khả năng cạnh tranh và các nguồn
lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, hay nói cách khác là họ thông qua hoạt động
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nhằm để tái cấu trúc lại doanh nghiệp. Nhưng nguồn
lực mà họ thường cần bổ sung là tài chính, kỹ thuật, công nghệ, khả năng quản lý và
tiếp cận thị trường. Đối với phía nước ngoài, họ tham gia vào thị trường M&A Việt
Nam là nhằm hướng đến sự phát triển trong tương lai của họ ở một thị trường lớn, đầy
tiềm năng.
3.1.2.3. Hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trong thời gian qua diễn ra chủ yếu
trong các ngành như ngân hàng, chứng khoán.
Những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển rất nhanh, môi trường
kinh doanh được cải thiện đáng kể. Bên cạnh những thành tích đó thì nền kinh tế nước
nhà cũng đã chứng kiến nhiều cuộc biến động lớn, đặc biệt 2 năm gần đây trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng và chứng khoán. Sau sự đóng băng của thị trường bất động sản
là sự giảm giá liên tục trên thị trường chứng khoán và tình hình lạm phát ngày càng
tăng cao đã làm cho tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế rơi vào tình trạng khó
khăn.
 Đồng thời, thị trường kinh doanh của các ngân hàng được đánh giá là một thị trường có
tỷ suất sinh lợi cao, trong khi đó, các ngân hàng trong nước lại chưa khai thác được hết
những tiềm năng phát triển của thị trường này. Các ngân hàng hạn chế về năng lực tài
chính, năng lực thị trường, năng lực quản lý, đó là nguyên nhân kiến các ngân hàng
trong nước chọn hình thức bán lại cổ phần cho các ngân hàng nước ngoài để gia tăng
những nguồn lực và khả năng đang thiếu, nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của ngân hàng
mình. Theo đánh giá của các ngân hàng nước ngoài thì thị trường ngân hàng hiện đại ở
Việt Nam là một thị trường còn rất nhiều tiềm năng khai thác nhưng do hiện tại Việt
Nam mới cho phép các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước
từ năm 2008, vì thế con đường làm đối tác chiến lược của các ngân hàng trong nước là
con đường nhanh nhất để họ tiếp cận với thị trường này. Hàng loạt các vụ giao dịch cổ
phiếu giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài đã diễn ra như:

Eximbank bán cổ phiếu cho Sumitoom Mitsui Banking Corporation (SMBC), HSBC
mua cổ phần của ngân hàng Techcombank, MayBank mua cổ phần ngân hàng An Bình,
UOB sở hữu 15% vốn cổ phần của ngân hàng Southern Bank
Sự cạnh tranh ngày càng gây gắt trên thị trường các ngân hàng thương mại đã
buộc các ngân hàng phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể tiếp tục tồn
tại. Sự cạnh tranh làm cho các ngân hàng càng ráo riết hơn trong việc bán cổ phần cho
các ngân hàng khác để gia tăng sự liên kết với nhau. Ví dụ như ngân hàng
Techcombank nắm giữ 10% vốn cổ phần của ngân hàng Sao Việt, ngân hàng
Vietcombank đã có kế hoạch mua lại một số ngân hàng nhỏ, và ngân hàng VCB hiện tại
đang nắm giữ một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần của các ngân hàng như Eximbank, VIB
bank, ngân hàng Gia Định, OCB,…
Tóm lại trong thời gian qua hoạt động mua lại giữa các ngân hàng diễn ra rất
nhiều và nó sẽ sớm trở thành xu thế tất yếu trên thị trường M&A trong thời gian tới.
 Đối với thị trường chứng khoán, sau hàng loạt biến động làm thị trường này liên tục
giảm giá, lượng giao dịch trên thị trường giảm hẳn đã khiến nhiều công ty chứng khoán
lâm vào giai đoạn khó khăn. Khi thị trường phát triển nóng, đã có rất nhiều công ty
chứng khoán được thành lập, mục tiêu của các công ty chứng khoán lúc đó là khai thác
nhanh sự náo nhiệt trên thị trường nên chỉ chuẩn bị để thực hiện hai nghiệp vụ là môi
giới và tự doanh. Ngoài ra, sự chuẩn bị không thực sự tốt, nên đến giai đoạn thị trường
lao dốc, lượng khách hàng đến thị trường ít đi khi đó là lúc các công ty này rơi vào giai
đoạn khủng hoảng và có khả năng đi đến phá sản. Chính vì thế mà xu thế mua lại các
công ty chứng khoán cũng diễn ra sôi nổi trong suốt thời gian qua. Kinh nghiệm của các
nước phát triển cho thấy, mặc dù thị trường tài chính, thị trường chứng khoán ở các
nước này rất phát triển nhưng số lượng các công ty chứng khoán không nhiều, nhưng
các công ty chứng khoán đó thực sự là một công ty chứng khoán chuyên nghiệp trong
hầu hết các nghiệp vụ chuyên ngành, trong khi đó ở Việt Nam một thị trường mới, nhỏ
bé đã có gần 100 công ty chứng khoán, một bất cập trên thị trường này. Chính vì thế,
một xu thế mua lại, sáp nhập giữa các công ty chứng khoán trong và ngoài nước đã và
sẽ diễn ra nháo nhiệt.
Trong thời gian qua có một số vụ mua lại của các công ty chứng khoán như:

Công ty chứng khoán Âu Lạc bán 49% vốn cổ phần cho công ty Technology CX, ngân
hàng Đầu tư RHB, chi nhánh của Tập đoàn Ngân hàng RHB (Malaysia) mua 49% cổ
phần của công ty chứng khoán Việt Nam, công ty chứng khoán và đầu tư Golden Bridge
mua 49% vốn của công ty Nhấp và Gọi, tập đoàn Morgan Stanley của Sigapore nắm giữ
48,33% vốn của công ty chứng khoán Hướng Việt và đổi tên thành công ty chứng
khoán Morgan Stanley Hướng Việt.
3.1.2.4. Hình thức thực hiện các hoạt động M&A khá đơn giản
Theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện nay có hoạt động M&A ở Việt Nam
được thừa nhận các hình thức: mua lại doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp (chỉ áp
dụng cho doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước), sáp nhập, hợp nhất thì hiện
tại chỉ được đề cập đến trên các phương tiện thông tin đại chúng là mua lại doanh
nghiệp. Kể cả đối với các vụ có tính chất thâu tóm (tập đoàn Colgate với kem đánh răng
Dạ Lan) vẫn được xuất hiện trên báo chí là một vụ góp vốn liên doanh. Đây là một vụ
thâu tóm doanh nghiệp rất bài bản của các doanh nghiệp nước ngoài đối với doanh
nghiệp trong nước. Trên thị trường chưa xuất hiện một vụ hợp nhất nào. Chủ yếu vẫn là
các vụ mua lại (một phần hay toàn bộ) doanh nghiệp.
Trên thực tế cho thấy rằng, đa số những vụ mua lại một phần doanh nghiệp được
xếp vào dạng là hoạt động M&A nhưng thực chất những giao dịch đó chỉ dừng lại ở
mức độ góp vốn kinh doanh hay đầu tư tài chính dài hạn. Việc mua lại cổ phần của
công ty khác không nhằm để giành quyền kiểm soát của công ty, mà chỉ là nắm vốn lẫn
nhau (đầu tư chéo) để có sự liên kết chặt chẽ hơn so với hình thức liên kết chiến lược
giữa các doanh nghiệp. Chẳng hạn như: Citigroup Global Market LTD mua 414.120 cổ
phiếu tương đương 5,18% vốn cổ phần của công ty CP Dược Hậu Giang, Vinacapital
đầu tư 3 triệu USD, tương đương 30% vốn cổ phần của Phở 24 để giúp Phở 24 mở rộng
hệ thống kinh doanh khắp trong và ngoài nước, Indochina Capital đầu tư vào công ty
vận tải và thương mại quốc tế ITC, hay công ty chứng khoán ngân hàng Sài Gòn
thương tín (SBS) đầu tư vốn vào công ty ITC.
3.1.2.5. Các vụ M&A đều mang tính thân thiện
Ngoại trừ trường hợp tập đoàn Colgate đã thâu tóm hãng sản xuất kem đánh răng
Dạ Lan thì hầu như tất cả các vụ giao dịch M&A trong thời gian qua đều dựa trên tinh

thần hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Thị trường
chưa có các vụ mua lại mang tính chất thù địch. Trong các giao dịch mua lại doanh
nghiệp (mua bán cổ phần) thì đều nhằm hướng đến việc doanh nghiệp nước ngoài hỗ
trợ cho doanh nghiệp trong nước về vốn, kỹ thuật và năng lực quản lý, các doanh
nghiệp nước ngoài thu được cơ hội đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện tại, có
thể nói rằng các vụ M&A trên thị trường Việt Nam là theo hướng tích cực, chưa phát
hiện thấy quá nhiều những tác động tiêu cực của hoạt động này đến với doanh nghiệp
Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam. Trong các giao dịch đó dường như phía doanh
nghiệp Việt Nam nhận được nhiều lợi ích hơn so với doanh nghiệp nước ngoài. Tuy
nhiên, đó là những gì đang diễn ra trong giai đoạn đầu, còn trong tương lai tất cả phụ
thuộc vào chính sách quản lý của nhà nước đối với hoạt động này và bản thân doanh
nghiệp khi quyết định thực hiện hoạt động M&A.
3.1.2.6. Chưa có một thị trường chuyên nghiệp cho hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp
Vấn đề khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp là khi muốn bán không biết liên
hệ với ai, bán cho ai, khi muốn mua không biết tìm công ty mục tiêu ở đâu. Để khắc
phục vấn đề này, hiện nay trên thị trường Việt Nam đã có xuất hiện một số “sàn” giao
dịch M&A trên web của các công ty tư vấn về hoạt động M&A như
muabancongty.com.vn của Tiger Investment, muabandoanhnghiep.com.vn của JDC, hay
ice.com.vn. Tuy nhiên, việc tạo ra các “sàn” giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
thực chất chỉ mang tính cung cấp thông tin về các doanh nghiệp có nhu cầu mua hay
bán, tạo cơ hội gặp nhau cho các doanh nghiệp chứ chưa thể thực sự gọi là một sàn giao
dịch. Cách thức hoạt động như vậy không phù hợp với đặc tính của hoạt động M&A là
“bí mật tuyệt đối”. Theo thông lệ quốc tế các vụ giao dịch M&A thường phải được giữ
bí mật cho đến giai đoạn cuối và quá trình giao dịch M&A không đơn giản như phương
thức giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán hay các công cụ phái sinh
chứng khoán khác, nên việc xây dựng sàn giao dịch không đơn giản. Để xây dựng một
thị trường giao dịch M&A chuyên nghiệp không phải là chuyện xây dựng sàn giao dịch
mà vấn đề phải có cơ chế để tạo điều kiện cho sự xuất hiện các công ty tư vấn chuyên
nghiệp trong hoạt động này.

Tóm lại, trong thời gian vừa qua thị trường mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
Việt Nam đã và phát triển nhanh và có những nét đặt trưng riêng của mình. Điểm nổi
bật nhất của thị trường M&A Việt Nam, tạo nên sự khác biệt với thị trường M&A trên
thế giới đó chính là thị trường M&A mang tính chất thân thiện, các chủ thể khi tham gia

×