Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
GIẢI PHÁP XÂM NHẬP CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU CHO HÀNG
NÔNG SẢN VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI
I. XU HƯỚNG CỦA THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN THẾ GIỚI SAU KHỦNG
HOẢNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM
Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, sau năm 2010 kinh tế thế giới sẽ thoát hẳn
khỏi khủng hoảng, phục hồi và duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình trong cả giai
đoạn 2011-2015 ở mức 3 - 3,5%. Thương mại hàng hoá nói chung, hàng nông, sản
nói riêng sẽ tăng; nhu cầu nhập khẩu nông sản từ các nước phát triển (Mỹ, EU, Nhật)
sẽ lấy lại nhịp độ và ổn định trở lại và từ các thị trường khác (Nam Phi, Trung Đông,
…) tăng.
Toàn cầu hóa vẫn là xu thế tất yếu với mức độ ngày càng sâu rộng hơn. Tuy
nhiên, vòng đàm phán Doha về thương mại hàng nông sản chưa đạt được thoả thuận
cuối cùng và do khủng hoảng kinh tế nên nhiều nước, nhất là những nước phát triển
đang có xu hướng tăng bảo hộ sản xuất nông nghiệp đã đặt ra những rào cản kỹ thuật
ngày càng cao và tinh vi hơn. Trợ cấp và bảo hộ sản xuất nông nghiệp của các nước
phát triển là trở ngại lớn đối với các nước đang phát triển dựa vào nông nghiệp và
xuất khẩu nông sản, trong đó có Việt Nam.
Dưới đây là những xu hướng phát triển của thị trường nông sản toàn cầu trong
thời gian tới. Những xu hướng đó tất yếu tác động tới ngành nông nghiệp Việt Nam
nói chung và nông sản nói riêng, có những xu hướng có thể tạo ra thuận lợi cho Việt
Nam nhưng cũng có xu hướng gây ra bất lợi. Vì vậy việc nắm bắt được những xu
hướng đó là hết sức cần thiết để đưa hàng nông sản nước ta đi đúng hướng, đặc biệt
là khi Việt Nam đang gia nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu với định hướng lấy
nông sản là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn.
Thứ nhất, gia tăng nhu cầu về các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống do
gia tăng dân số. Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,5 tỷ
người vào năm 2020, trong đó riêng châu Á - khu vực tập trung chủ yếu các quốc gia
1
1
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
có cơ cấu dân số trẻ của thế giới - là 1,5 tỷ. Trong khi sản lượng gạo chỉ tăng trung
bình 1,2% nên thiếu hụt thậm chí khan hiếm có thể xảy ra mỗi khi mất mùa.
Vì vậy, thị trường thế giới đang tạo ra cơ hội lớn cho các nông sản Việt Nam,
nhất là các sản phẩm lương thực - đang là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. Đồng thời, Việt Nam cũng cần chuyển hướng sang sản xuất, xuất
khẩu các mặt hàng chất lượng tốt, đảm bảo giá trị dinh dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng khi thu nhập cũng như nhận thức của họ tăng lên.
Thứ hai, thị trường hàng nông sản thế giới đang có xu hướng chuyển dần về
khu vực các nước đang phát triển, nhất là các nước ở khu vực Châu Á. Nhóm các
nước này ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong giá trị thương mại quốc tế về các sản
phẩm nông nghiệp. Đây là một cơ hội lớn cho Việt Nam vì thực tế hiện nay, Việt
Nam đang cùng với Thái Lan, Ấn Độ chiếm lĩnh thị trường châu Á.
Thứ ba, thị trường nông sản thế giới sẽ chịu tác động lớn của các cuộc thương
lượng mậu dịch mang tầm quốc tế. Do đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sản phẩm
nông nghiệp của các nước thành viên trong tổ chức WTO cả ở thị trường trong nước
và nước ngoài. Những khó khăn về cạnh tranh thị trường xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam sẽ lớn hơn khi mà sản xuất nông nghiệp vẫn trong tình trạng
lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí cao và nhất là sự yếu kém của
ngành công nghiệp chế biến.
Thứ tư, giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới luôn dao động
thường xuyên ở biên độ lớn, nguyên nhân chủ yếu là sự bất ổn định của sản xuất
nông nghiệp (phụ thuộc vào thiên nhiên, dịch bệnh). Các sản phẩm trồng trọt và sản
phẩm thô có biên độ dao động cao hơn sản phẩm chế biến. Trong hoàn cảnh nông sản
xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, ít qua chế biến thì tác động của tính chất giá
cả các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới tới Việt Nam có phần không
thuận lợi.
Thứ năm, nông nghiệp hữu cơ sẽ là xu hướng tất yếu trong thời gian tới do
nhận thức ngày càng được nâng cao của người tiêu dùng về an toàn thực phẩm và
những vấn đề liên quan đến môi trường. Châu Âu và Bắc Mỹ hiện là hai thị trường
2
2
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
tiêu thụ nông sản hữu cơ nhiều nhất, và nhu cầu không ngừng tăng, tạo cơ hội cho
các nước đang phát triển xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sạch sang các thị trường
này. Thị phần thực phẩm hữu cơ có tăng từ khoảng 1% (1995) lên 5-10% (2005 –
2008). Năm 2006, thị trường nông sản canh tác bằng công nghệ hữu cơ toàn cầu ước
tính đạt 40 tỉ USD, tăng khoảng 10 tỉ so với năm 2005. Đối với cà phê cũng vậy, nhu
cầu cà phê hữu cơ tăng vững chắc 15 năm trở lại đây ở các nước giữ vai trò chi phối
đặc biệt ở EU, Mỹ, Nhật. Như vậy, Việt Nam cần phải xây dựng và phát triển hệ
thống sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng
nhu cầu thị trường cũng như đảm bảo phát triển một nền nông nghiêp bền vững.
Thứ sáu, xu hướng phát triển nhiên liệu sinh học (ethanol) dẫn tới tăng nhu cầu
về các loại nông sản đầu vào như mía, ngô và hạt dầu. Sau khi giá dầu hoả tăng vọt
năm 2007, ethanol sinh học được dùng như nhiên liệu vừa thay thế xăng dầu, dầu hoả
vừa chế ngự được hiệu ứng nhà kính do khí carbon thải ra. Các nước sản xuất ethanol
như Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ đã thấy trước triển vọng chiếm lĩnh một thị trường
mới đầy hứa hẹn. Mỹ đẩy mạnh trồng bắp và tăng lên 30% tỷ lệ chế biến bắp thành
ethanol ngay từ năm 2008. Các nước giàu nghèo cũng bắt đầu sản xuất ethanol với
các mục đích giải quyết vấn đề năng lượng với một nguồn cung cấp dồi dào và tái
tạo, bảo vệ môi trường, tạo thêm công ăn việc làm.
Hiện nay, Việt Nam cũng đã xác định hướng đi trong việc sản xuất ethanol
thông qua "Đề án phát triển nhiên liệu sinh học của Việt Nam đến năm 2015, tầm
nhìn đến năm 2025", ước tính đạt sản lượng 250 ngàn tấn nhiên liệu sinh học, kể cả
ethanol, mỗi năm từ năm 2015, và tới 1,8 triệu tấn mỗi năm từ năm 2025.
Thứ bảy, xu thế chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng tới nền kinh tế tri thức dựa
vào việc ứng dụng khoa học công nghệ cao, công nghệ thông tin; đồng thời với việc
giá nhiên liệu và nguyên liệu thế giới biến động mạnh sẽ tiếp tục gây tác động cho
sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp vốn rủi ro cao, lợi nhuận thấp, khi giá
đầu vào tăng cao làm cho hiệu quả sản xuất nông nghiệp giảm xuống rất thấp. Để
tăng năng suất và hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp đặt ra yêu cầu phải áp dụng
công nghệ mới tiên tiến. Việt Nam vì thế cũng cần phải cải tiến nền sản xuất nông
3
3
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
nghiệp bằng công nghệ cao, công nghệ sinh học,… để có năng suất cao hơn, giá
thành rẻ hơn, chất lượng tốt hơn, thị trường ổn định hơn.
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHO NÔNG SẢN VIỆT
Sản xuất nông sản đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được những
thành tựu đáng kẻ về năng suất, sản lượng, chủng loại cũng như quy mô… Tuy nhiên
nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn là vấn đề ô nhiễm môi
trường, đất đai bạc màu, suy giảm đa dạng sinh học, dịch bệnh, diện tích đất canh tác
bị thu hẹp do đô thị hóa, bị nhiễm mặn, sâu bệnh,… phá hủy hệ sinh thái vì sử dụng
quá nhiều hóa chất. Bên cạnh đó, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng không được
nông dân, các doanh nghiệp chú trọng dẫn đến nông sản của Việt Nam trên thị trường
thế giới có sức cạnh tranh kém hơn rất nhiều so với các nước khác. Trong khi khách
hàng ở các nước phát triển (gồm cả người tiêu dùng và các tập đoàn lớn có thương
hiệu, bí quyết công nghệ và mạng lưới phân phối toàn cầu) đang đặt ra những tiêu
chuẩn ngày càng ngặt nghèo về các vấn đề này.
Để khắc phục những nhược điểm trên và đáp ứng được những yêu cầu ngày
càng cao của thị trường nhập khẩu, cần có các giải pháp nhằm nâng cấp chuỗi giá trị
nông sản tại Việt Nam nhằm xâm nhập sâu hơn vào GVC. Việc nâng cấp chuỗi giá trị
cần phải thực hiện đồng thời và kết hợp giữa nâng cấp quy trình, nâng cấp sản phẩm
và nâng cấp chức năng. Chỉ sau khi đã đạt được những bước tiến nhất định mang tính
đột phá trong việc đưa Việt Nam thâm nhập sâu và có vị thế cao trong chuỗi giá trị
nông sản toàn cầu thì mới có thể tính tiếp tới việc nâng cấp toàn chuỗi.
Hiện nay, trên thế giới xuất hiện xu hướng sản xuất các mặt hàng nông sản đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo ra các sản phẩm có lợi cho sức khỏe con người
đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường sinh thái, đảm bảo một nền
nông nghiệp bền vững. Trong đó, GAP (Thực hành nông nghiệp tốt) là một tiêu
chuẩn về chất lượng sản phẩm cũng như quy trình sản xuất đang đang được áp dụng
cho từng khu vực, lãnh thổ lãnh thổ ví dụ tiêu chuẩn EUGAP được thành lập cho khu
4
4
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
vực Liên minh châu Âu, ASEANGAP áp dụng cho các nước khối ASEAN, tiêu chuẩn
VIETGAP áp dụng ở Việt Nam.
Một xu hướng sản xuất phổ biến khác là canh tác hữu cơ. Sản xuất nông nghiệp
hữu cơ (Organic agriculture) là sản xuất theo nguyên tắc được quy định trong tiêu
chuẩn Quốc tế IFOAM với mục tiêu đảm bảo hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi, tạo ra
những sản phẩm có chất lượng an toàn với người sử dụng và đem lại hiệu quả kinh
tế, duy trì và nâng cao độ màu mỡ của đất.
Đây chính là hai cách thức Việt Nam nên nghiên cứu và phát triển để có thể
theo kịp xu hướng thế giới cũng như đảm bảo một nền nông nghiệp bền vững cho
tương lai.
1. Nông nghiệp hữu cơ
Theo IOFAM: “Nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là hệ thống sản xuất duy trì độ
màu mỡ của đất, hệ thống sinh thái và cuộc sống của con người. Nó phụ thuộc vào
các quy trình sinh thái, tính đa dạng sinh học và các chu trình phù hợp với điều kiện
của địa phương thay cho việc sử dụng đầu vào gây ra những tác động có hại. Nông
nghiệp hữu cơ kết hợp giữa việc sản xuất truyền thống với hiện đại và khoa học có
lợi cho môi trường chung cũng như thúc đẩy các mối quan hệ bình đẳng và tạo ra
chất lượng cuộc sống tốt hơn cho những người liên quan”.
Sự khác biệt rõ nhất giữa các loại sản phẩm hữu cơ với sản phẩm sạch, an toàn
khác là quy trình sản xuất: sản xuất các sản phẩm hữu cơ không sử dụng thuốc trừ
sâu và phân hoá học. Trong khi quy trình sản xuất nông sản sạch và an toàn vẫn sử
dụng một số lượng nhất định thuốc trừ sâu và phân bón hoá học, thức ăn tăng trọng
và các chất kích thích trong chăn nuôi.
Ưu thế
Nông dân sản xuất ở Sóc Sơn báo cáo tổng kết giá trị kinh tế trên ruộng cải bắp,
cà chua theo phương pháp canh tác hữu cơ (Bảng 12): tổng thu nhập là 40 triệu/sào
cà chua so với thông thường 20 triệu/sào cà chua. Chi phí sản xuất: 0,922 tr.đ/ruộng
cà chua so với thông thường là 0,945 tr.đ/ruộng cà chua. Lợi nhuận thu về 38,78 tr.đ
so với thông thường là 19,055 tr.đ. Rõ ràng khi sử dụng phương pháp hữu cơ, người
5
5
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
sản xuất phải bỏ ra chi phí thấp hơn và thu về lợi nhuận gấp đôi so với phương pháp
thông thường.
Riêng ruộng cải bắp do đợt ngập úng tháng 11-2008, sản lượng hữu cơ chỉ có
400kg/ruộng cải bắp nhưng bán ra 10.000 đồng/kg so với sản lượng vô cơ 1,4
tấn/ruộng cải bắp với giá bán ra 2.500 đồng/kg. Do vậy, doanh thu từ bắp cải trồng
theo phương pháp hữu cơ cao hơn so với phương pháp thông thường 0,5 tr.đ.
BẢNG 12: GIÁ TRỊ KINH TẾ CANH TÁC HỮU CƠ CÀ CHUA VÀ CẢI
BẮP
Ở SÓC SƠN, HÀ NỘI 2008
Cà chua Cải bắp
Hữu cơ Thông thường Hữu cơ Thông thường
Doanh Thu 40 tr.đ/sào 20 tr.đ/sào 4 tr.đ 3,5 tr.đ
Chi phí 0,922
tr.đ/ruộng
0,945
tr.đ/ruộng
Lợi nhuận 38 780 000 đ 19,055 tr.đ
Sản lượng 400 kg 1,4 tấn
Nguồn:
www.ambhanoi.um.dk,2008
Theo tính toán, chi phí mua nguyên vật liệu để sản xuất ra phân hữu cơ giảm
30% so với chi phí mua phân bón hóa học. Vì hệ thống canh tác này hướng tới tăng
cường sinh thái tự nhiên hơn là phá hoại tự nhiên. Nó chủ yếu dựa vào các nguồn sẵn
có tại chỗ được tận dụng tối đa để bồi hoàn cho đất, góp phần giữ gìn sinh thái.
Như vậy, nguồn lợi mang lại từ NNHC là rõ rệt. Đồng thời NNHC rất an toàn
với con người từ khâu sản xuất đến tiêu thụ và bảo vệ tuyệt đối môi trường do chỉ sử
dụng các sản phẩm hữu cơ: bón phân ủ (từ tàn dư cây trồng, chất thải động vật), sử
dụng thuốc diệt trừ sâu bệnh có nguồn gốc tự nhiên, thảo mộc (dấm gỗ, lá cây xoan
nghiền), các cây dẫn dụ (hoa, cỏ…). Nông dân cũng có thể trồng luân canh và sử
dụng phân xanh để tăng độ màu cho đất.
Tuy vậy, việc sản xuất NNHC tại Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn:
Chưa có chiến lược phát triển đồng bộ
6
6
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Hiện nay là các mô hình sản xuất của Việt Nam còn manh mún, nhiều người sản
xuất có diện tích lớn lại gặp khó về các điều kiện để phát triển NNHC. Những vùng
miền thích ứng nhanh hơn với công nghệ lại không có quỹ đất để phát triển. Vì thế,
NNHC cần được đặt trong một kế hoạch dài hạn, xứng tầm và thực hiện từng bước
một. Cần sự góp sức của cả cộng đồng. Nhà nước đóng vai trò quan trọng, nhưng
ngược lại, nông dân cũng phải tự nhận thức được quyền lợi, trách nhiệm của mình
mới mong thay đổi được cách nhìn khác của thế giới về nông nghiệp Việt Nam, từ
đó, sản phẩm nông sản mới được đánh giá đúng và chiếm lĩnh bền vững thị trường.
Thiếu vốn đầu tư chuyển đổi sản xuất
Người nông dân làm NNHC cần cải tạo đất trồng, nguồn nước theo chuẩn nông
nghiệp an toàn, chuẩn bị phân chuồng, phân xanh và giống cây đảm bảo trước khi
tiến hành trồng trọt. Do đó, đây là một giai đoạn tốn nhiều thời gian và công sức,
trong khi đó người nông dân lại không có thu nhập nào ngoài sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, khả năng sản xuất lớn của NNHC lại bị hạn chế do diện tích đất canh
tác ngày càng bị thu hẹp trong khi đất và nguồn nước cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng
vì chất thải công nghiệp cùng với việc sử dụng phân bón hóa học quá lâu trước đó và
tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh.
Chưa có chuẩn sản phẩm hữu cơ
Mặc dù NNHC đã được tiến hành tương đối phổ biến song đến nay vẫn chưa có
một chuẩn mực nào để kiểm định hay được cấp chứng nhận sản phẩm an toàn. Do đó
khâu tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn khi giá cả là do người nông dân tự đặt ra.
Mặc dù những vấn đề trên vẫn còn đang trong quá trình giải quyết dần song một
điều chắc chắn là nông sản Việt Nam trong tương lai gần phải được sản xuất theo quy
trình NNHC, theo xu hướng của nông nghiệp thế giới thì mới tìm được chỗ đứng
trong thị trường các nước phát triển.
2. Xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam theo tiêu chuẩn GAP
Trong GVC của các ngành hàng thường có ba phân khúc chính là: nghiên cứu &
phát triển – sở hữu trí tuệ, sản xuất, xây dựng thương hiệu và thương mại. Trong đó
hai phân khúc đầu tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn phân khúc giữa, đó là các phân
7
7
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
khúc mà các nước phát triển nắm giữ và bỏ lại phân khúc phải làm nhiều nhưng
không tạo ra nhiều giá trị cho các nước đang phát triển. Các quốc gia hàng đầu thế
giới cũng sở hữu những thương hiệu, những tập đoàn bán lẻ hàng đầu và nắm giữ hầu
hết các bằng phát minh sáng chế của thế giới.
Đối với nông sản, việc xây dựng thương hiệu cũng quan trọng không kém mặt
hàng công nghiệp và các ngành hàng khác. Vì vậy, nhà quản lý, doanh nghiệp và
nông dân cần kết hợp chặt chẽ hơn trong việc xây dựng thương hiệu hàng hóa xuất
khẩu. Việc khẳng định thương hiệu phải bắt nguồn từ cơ sở, từ chính những người
nông dân làm ra sản phẩm đến các doanh nghiệp xuất khẩu… Để xây dựng được
thương hiệu nông sản, các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư cho công nghệ chế
biến. Các doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu bằng chất xám, trước hết phải xây
dựng lực lượng lao động kỹ thuật cao. Có như vậy, Việt Nam mới khẳng định được
giá trị hàng hóa mỗi khi xuất khẩu.
Trước hết là phải giải quyết năng lực và ý thức về xây dựng thương hiệu của
chính ngay các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản Việt Nam – những tác
nhân đóng vai trò quản trị chuỗi tại Việt Nam. Đây là cách làm ít tốn kém nhất mà lợi
nhuận cao trong chuỗi giá trị gia tăng. Các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến
lược toàn diện cho riêng mình để tạo dựng chỗ đứng trong chuỗi giá trị.
Về sản phẩm: cần xây dựng các quy chuẩn cho sản phẩm. Hầu hết các doanh
nghiệp nông sản Việt Nam đều không quan tâm đến yếu tố này nhưng đây lại là “giấy
thông hành” cần thiết để vào các thị trường khó tính.
Ngoài ra, sản phẩm cần chú trọng khai thác yếu tố tự nhiên như: điều kiện, khí
hậu, nước… Hạn chế đến mức thấp nhất sự tác động của các yếu tố hóa học không có
lợi cho sức khỏe người tiêu dùng. Những nông sản mang đậm tính địa phương cần
chứng minh rõ nguồn gốc và lợi thế. Nếu làm được điều này, tính cạnh tranh của
nông sản Việt Nam sẽ ngày càng cao.
Tên thương hiệu: tên thương hiệu cần mang tính quốc tế hóa. Muốn làm được
điều này, trước tiên phải đăng ký bảo hộ tên, giống đặc sản độc đáo; cần một chiến
lược phối hợp đồng bộ với những chương trình hành động cụ thể để liên kết nhà khoa
8
8
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
học, nông dân, nhà doanh nghiệp, tiếp thị, các ngân hàng và các cơ quan hữu trách
của Nhà nước.
Xây dựng chiến lược giá: việc định giá cho một loại nông sản cần căn cứ vào
mức độ đầu tư, chi phí sản xuất, quảng bá… để cuối cùng có được giá thành và tạo
lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp tạo dựng được thương hiệu, định giá sản phẩm sẽ dựa
vào giá trị chứ không chỉ dựa vào chi phí sản xuất. Do vậy, việc định giá một loại
nông sản cần căn cứ vào những giá trị lý tính và cảm tính mà thương hiệu mang lại
cho người tiêu dùng.
Chiến lược phân phối: hoạt động phân phối sản phẩm rất cần sự trợ giúp của
chính phủ. Các thương hiệu nông sản Việt cần có những cầu nối tích cực để xuất
khẩu. Đồng thời, trước khi xuất khẩu cần khẳng định chỗ đứng của mình trên thị
trường nội địa. Trung Nguyên là một ví dụ thành công cho phương thức này.
Năm 1999 – 2000, khi hầu hết các công ty nông sản khác chưa có khái niệm xây
dựng thương hiệu, Trung Nguyên đã tạo dựng cho mình một thương hiệu mạnh, có
sức lan tỏa lớn tại thị trường trong nước. Đến năm 2000, Trung Nguyên bắt đầu
quảng bá hình ảnh của mình tại thị trường nước ngoài thông qua việc nhượng quyền
tại Singapore và tiếp tục vươn ra các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Nhật
Bản, Lào, Trung Quốc,…
Chiến lược truyền thông: đây là yếu tố cần thiết sau cùng để người tiêu dùng
sử dụng sản phẩm. Chương trình truyền thông không chỉ kích hoạt tiêu dùng mà còn
đưa thương hiệu phủ sóng đến nhiều thị trường khác nhau. Vì thế, doanh nghiệp
không những phải chú trọng đến những kênh thông tin truyền thống mà cần cả những
chương trình mang tầm quốc gia, quốc tế.
Như vậy, việc xây dựng thương hiệu nông sản phải hiểu được một cách rộng
rãi: bao gồm phần cứng và phần mềm. Phần cứng, nghĩa là tạo ra một sản phẩm nông
sản có chất lượng ổn định, quy mô - tức là quy mô sản phẩm hàng hóa, chứ không
phải quy mô được lắp ghép bởi các cơ sở sản xuất, các hộ sản xuất manh mún, không
đồng đều. Khi có một sản phẩm với một đẳng cấp chất lượng, giá thành tương đối
tốt, có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới thì lúc đó phần mềm xây dựng thương
9
9
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
hiệu mới bắt đầu phát huy. Phần mềm ở đây chính là gia tăng các nỗ lực để tạo ra sự
bóng bẩy cho hàng hóa. Đó chính là bao bì sản phẩm, là thông điệp các doanh nghiệp
Việt Nam chuyển tải đến khách hàng một cách chuyên nghiệp nhất, đẹp nhất, phù
hợp với nhu cầu thị trường.
TIÊU CHUẨN GAP
Thực hành nông nghiệp tốt (Good Agriculture Practices - GAP) là những
nguyên tắc được thiết lập nhằm đảm bảo một môi trường sản xuất an toàn, sạch sẽ,
thực phẩm phải không chứa các tác nhân gây bệnh như chất độc sinh học (vi khuẩn,
nấm, virus, ký sinh trùng) và hóa chất (dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kim loại
nặng, hàm lượng nitrat), đồng thời sản phẩm phải đảm bảo an toàn từ ngoài đồng đến
khi sử dụng.
GAP bao gồm việc sản xuất theo hướng lựa chọn địa điểm, việc sử dụng đất
đai, phân bón, nước, phòng trừ sâu bệnh hại, thu hái, đóng gói, tồn trữ, vệ sinh đồng
ruộng và vận chuyển sản phẩm,... nhằm phát triển nền nông nghiệp bền vững với mục
đích đảm bảo:
- An toàn cho thực phẩm;
- An toàn cho người sản xuất;
- Bảo vệ môi trường;
- Truy nguyên được nguồn gốc sản phẩm.
Bên cạnh lợi ích mà một quy trình nông nghiệp sạch GAP mang lại là tạo ra sản
phẩm chất lượng cao đồng đều và an toàn cho người tiêu dùng; GAP còn bảo đảm an
toàn cho nông dân và cộng đồng. Toàn bộ sản phẩm đều có thể truy rõ nguồn gốc;
đồng thời cũng bảo đảm giảm thiếu tối đa tác hại môi trường xung quanh... Do đó,
hiện nay, GAP là một bộ tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi trên thế giới để đánh giá
các sản phẩm nông sản trước khi được phép xâm nhập vào một thị trường nào đó.
Như vậy nếu nông sản Việt Nam đáp ứng được những yêu cầu theo tiêu chuẩn
VIETGAP (do Việt Nam xây dựng) và ASEANGAP (do ASEAN xây dựng) sẽ giúp
tạo dựng một thương hiệu sản phẩm sạch, đảm bảo chất lượng và dễ dàng được
người tiêu dùng các nước phát triển chấp nhận.
10
10
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
III. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP
Theo các nhà kinh tế, sau khủng hoảng 2007-2009 sẽ diễn ra quá trình cơ cấu
lại nền kinh tế toàn cầu. Ðó có thể là quá trình cơ cấu lại nền sản xuất theo hướng tiết
kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường do đi đôi với khủng hoảng kinh tế là
khủng hoảng năng lượng, lương thực và khủng hoảng khí hậu, môi trường; quá trình
cơ cấu lại hệ thống tài chính tiền tệ song song với quá trình cơ cấu lại cơ chế quản lý,
giám sát trong từng quốc gia và trên toàn cầu; điều chỉnh lại mối tương quan giữa
chính sách hướng mạnh ra xuất khẩu và chính sách coi trọng thị trường nội địa vì vừa
qua những nước gắn quá sâu với xuất khẩu đều chịu tác động mạnh.
Trước tình hình mới đó, Việt Nam tất yếu phải tự nâng cao năng lực xâm nhập
chuỗi giá trị nông sản nhằm đảm bảo một vị thế vững chắc, xứng tầm là quốc gia
hàng đầu thế giới trong xuất khẩu một số mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu,
hạt điều,… Để tham gia sâu hơn vào GVC nông sản Việt Nam cần phải đáp ứng được
các quy định hoặc tiêu chuẩn ngày càng cao và linh hoạt đặt ra đối với các tác nhân
tham gia chuỗi. Đó là cung ứng hàng đúng khối lượng và thời điểm, đảm bảo yêu cầu
chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, các quy định về bảo vệ môi
trường, các quy định về bao gói và bảo quản theo từng loại thị trường và khách hàng.
Tuỳ theo từng loại hàng nông sản mà lãnh đạo GVC đối với hàng nông sản có thể do
nhà phân phối bán lẻ, nhà chế biến hoặc nhà đầu cơ đảm nhiệm. Vị thế đàm phán của
nhà cung cấp và người mua tại Việt Nam luôn có sự thay đổi tuỳ theo tình hình cung -
cầu trên thị trường cũng như tác động của mùa vụ, thời tiết và tình hình dịch bệnh
trong sản xuất, do đó tính ổn định của chuỗi cung ứng nội địa không cao. Vì vậy, cần
phải có sự liên kết, sự thống nhất trong chính sách hành động của các tác nhân trong
chuỗi giá trị nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường một cách nhanh nhạy và đảm bảo phát
triển chuỗi giá trị theo xu hướng chung của thế giới sau khủng hoảng toàn cầu.
Liên kết tạo điều kiện chia sẻ thông tin và trách nhiệm để giải quyết vấn đề thị
trường, tạo cơ chế và chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển bền
vững. Liên kết giúp thực thi các kế hoạch và chiến lược sản nông sản, đồng thời tạo
ra sự đồng thuận không những giữa nguồn lực Nhà nước mà cả xã hội để sản xuất và
11
11
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
tiêu thụ nhằm gia tăng thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp ở mức cao nhất, đảm
bảo tính công bằng trong phân phối thu nhập giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị.
HÌNH 15: MÔ HÌNH LIÊN KẾT NHẰM NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ
NÔNG DÂN
DOANH NGHIỆP
NHÀ KHOA HỌC
NHÀ NƯỚC
Bốn tác nhân trong mô hình liên kết nhằm nâng cấp chuỗi giá trị nông sản Việt
Nam (Hình 15) là:
- Nhà nước: trong mô hình liên kết này, Nhà nước đóng vai trò trung tâm hỗ trợ
và thúc đẩy việc nâng cấp chuỗi giá trị thông qua việc định hướng hoặc điều tiết sản
xuất, cung cấp các dịch vụ công cộng bổ sung.
- Nhà khoa học: là những người nghiên cứu thuộc các viện nghiên cứu của
chính phủ, các bộ ngành, các cục, các vụ và đại diện chính phủ ở mỗi vùng tham gia
vào hoạt động phát triển kinh tế, đóng vai trò là các thể chế hỗ trợ chuỗi. Các nhà
khoa học thực hiện nghiên cứu, và đưa các ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong
thực tiễn sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi giúp nâng cao năng suất, chất lượng nông
sản hoặc họ cũng có thể hỗ trợ các tổ chức tiểu ngành, điều tiết khung luật pháp của
chuỗi và cung cấp cơ sở hạ tầng.
- Doanh nghiệp: là những người vận hành chuỗi giá trị, thực hiện hoạt động sản
xuất, chế biến, hậu cần và thương mại. Tăng trưởng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong dài hạn là điều kiện nền tảng cho sự thành công của việc thúc đẩy chuỗi
giá trị. Bên cạnh đó, các công ty đầu mối có nhiệm vụ tổ chức hoạt động phối hợp
trong toàn bộ chuỗi giá trị - vì lợi ích của họ và vì lợi ích cạnh tranh tập thể của tất cả
các nhà vận hành chuỗi (“tính hệ thống”) .
- Nông dân: Là những người tham gia vận hành chuỗi với vai trò là người sản
xuất, tạo ra giá trị ban đầu cơ bản cho sản phẩm; hoạt động của nông dân có tính chất
quyết định tới chất lượng, năng suất nông sản. Do đó, việc nông dân nhận thức được
về chuỗi giá trị nông sản cũng tác động rất lớn tới hiệu quả của hoạt động xâm nhập
GVC.
12
12
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Trong mô hình Hình 15 ta thấy các mối liên kết là liên kết bền chặt. Mỗi tác
nhân đều kết nối với ba tác nhân còn lại tạo thành một mạng lưới chặt chẽ, tạo nên
sức mạnh tổng thể mà từng tác nhân một không có được khi tham gia vào GVC.
Để thực hiện mô hình này cần phải thực hiện cả các giải pháp vĩ mô và các giải
pháp vi mô.
1. Nhóm các giải pháp vĩ mô
Nhà nước với vai trò quản trị bên ngoài chuỗi cần đưa ra giải pháp giúp phát
triển chuỗi giá trị nông sản phù hợp với xu hướng toàn cầu cũng như các điều kiện
thực tế tại Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế so sánh giúp nông sản nước ta xâm nhập
sâu hơn vào GVC và thu về giá trị gia tăng nhiều hơn. Các giải pháp giúp nâng cấp
chuỗi giá trị phải được thực hiện đồng bộ, thống nhất và toàn diện ở tất cả các mắt
xích cũng như tại tất cả các cấp độ của chuỗi giá trị.
a) Giải pháp về khoa học công nghệ
- Đầu tư vào khoa học công nghệ: tăng tỷ trọng đầu tư ngân sách cho nghiên
cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ cho nông nghiệp theo tỷ lệ tương đương với
mức trung bình của các nước tiên tiến trong khu vực.
- Hình thành các cụm khoa học công nghệ: xây dựng và tăng cường đầu tư phát
triển các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ cho các ngành hàng mũi
nhọn (cà phê, hạt điều, cao su, hạt tiêu,…), thống nhất áp dụng các tiêu chuẩn kỹ
thuật của các thị trường quốc tế chính trên các địa bàn trọng điểm về sản xuất nông
nghiệp ở từng vùng sinh thái. Xây dựng các cụm khoa học công nghệ gắn kết giữa
trường đại học với các viện nghiên cứu vùng và hình thành các khu công nghệ cao,
vườn ươm công nghệ, trung tâm đào tạo nghề cho từng vùng.
- Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thực tiễn:
+ Tạo giống năng suất cao ổn định, phẩm chất tốt, kháng sâu bệnh, chống chịu
được với điều kiện khó khăn và thích nghi điều kiện tiểu vùng sinh thái và thay đổi
khí hậu của vùng chuyên canh.
Các chủ đề chính của phương pháp này bao gồm:
13
13
Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Ứng dụng công nghệ cao: kỹ thuật đột biến gen; kỹ thuật vi nhân giống: nuôi
cấy mô, túi phấn, tế bào; khai thác ưu thế lai giữa các loại cây trồng địa phương với
những cây có nhiều ưu điểm phù hợp nhằm tạo ra những giống cây trồng có ưu thế
vượt trội.
Ứng dụng công nghệ sinh học: kỹ thuật dấu chuẩn phân tử DNA, protein,
enzym; công nghệ chuyển ghép gen... bên cạnh công nghệ thông tin, vật liệu mới để
chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, quy trình trồng trọt, bảo quản, chế biến, tạo đột
phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất định hướng vào các vấn đề do sản
xuất và đời sống đặt ra như nghiên cứu thị trường, phòng chống thiên tai, quản lý tài
nguyên môi trường, phòng chống bệnh dịch, cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp,...
+ Định hướng ứng dụng kỹ thuật sản xuất nông sản thích ứng với hội nhập kinh
tế và sự biến đổi khí hậu để sản xuất nông sản nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và
tăng lợi nhuận.
Kỹ thuật canh tác nông sản sinh thái bền vững: Xây dựng quy trình canh tác kỹ
thuật theo từng nhóm giống, tiểu vùng sinh thái. Áp dụng quy trình GAP để có nông
sản sạch, chất lượng cao.
Cơ giới hóa sản xuất nông sản, dùng máy móc cơ giới thích hợp cho từng vùng
sinh thái từ khâu làm đất, tưới tiêu, gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch, phơi sấy, bảo
quản, tồn trữ và chế biến để làm giảm thất thoát sau thu hoạch, giảm công lao động
và gia tăng giá trị hàng hóa.
- Gắn nghiên cứu với đào tạo và khuyến nông: tăng cường hỗ trợ nông dân
thông qua các chương trình khuyến nông. Do khuyến nông đóng vai trò quan trọng
giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp thông qua việc tập huấn, tuyên truyền
phổ biến ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng các mô hình trình diễn cho
nông dân học tập. Biện pháp thúc đẩy hữu hiệu là hỗ trợ cho nông dân, doanh nghiệp
(giảm thuế, cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ chuyển giao khoa học công nghệ, hỗ trợ đào
tạo cho những đơn vị áp dụng khoa học công nghệ mới) khuyến khích tiếp thu ứng
dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh. Để các chương trình khuyến
14
14