Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

giải pháp nhằm xâm nhập chuỗi giá trị toàn cầu của ngành nông sản Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.72 KB, 103 trang )

Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tồn cầu hóa là xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay khi các rào cản đối
với các dịng chảy về thơng tin, ý tưởng, các nhân tố về vốn và lao động có kỹ năng,
cơng nghệ và hàng hóa đang dần được giỡ bỏ. Điều này làm ranh giới phân cách các
quốc gia dần bị xóa mờ, tạo cơ hội cho các nước tham gia sâu và rộng hơn vào quy
trình sản xuất các sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho lợi ích chung của con người. Mỗi
nước, với ý thức về tiềm năng và năng lực của mình đã chun mơn hóa, tập trung
vào lĩnh vực hoặc một số khâu trong quy trình sản xuất có lợi thế so sánh như thiết
kế, sản xuất, chế biến, phân phối,… để có thể thu lại lợi ích nhiều nhất từ q trình
hội nhập. Vì vậy, hàng hóa khơng chỉ được thực hiện giá trị tại một quốc gia mà có
khi là hai quốc gia, ba quốc gia hoặc nhiều hơn nữa, từ đó tạo thành các chuỗi giá trị
toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2009 xuất phát từ khủng hoảng tài
chính Mỹ vừa qua đã tác động tới tất cả các mặt của kinh tế toàn cầu cũng như các
khâu của quá trình thực hiện giá trị trong các chuỗi giá trị tồn cầu. Trong đó, hàng
nơng sản cũng khơng phải là ngoại lệ, đặc biệt khi việc sản xuất nông sản chủ yếu
được thực hiện tại các quốc gia đang phát triển - những nước yếu thế, dễ bị tổn
thương và thường chịu thiệt thòi hơn khi tham gia thương mại tự do.
Nông sản nước ta mặc dù đã đạt được một số thành công nhất định khi tham gia
thị trường thế giới song vị trí của Việt Nam trong chuỗi giá trị tồn cầu vẫn cịn thấp.
Khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, ngành hàng này cũng phải chịu không ít ảnh hưởng
tiêu cực; do đó, những yếu kém của việc tham gia chuỗi giá trị tồn cầu nơng sản của
Việt Nam mới được bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết, cho thấy việc thụ động phụ thuộc
vào diễn biến thị trường thay vì chủ động tạo ra chỗ đứng cho mình trong chuỗi của
các doanh nghiệp cũng như người nơng dân.
Trước những vấn đề đó, khóa luận tốt nghiệp này có tên : “GIẢI PHÁP
NHẰM XÂM NHẬP CHUỖI GIÁ TRỊ TỒN CẦU CỦA NGÀNH NƠNG
SẢN VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI” với hy vọng


1


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
của tác giả là đưa ra được cái nhìn tổng thể về vị thế của nông sản Việt Nam trong
chuỗi giá trị toàn cầu dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 20072009.
2. Mục đích nghiên cứu
Q trình nghiên cứu và hình thành khóa luận nhằm giải quyết các vấn đề sau:
- Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu và tại sao phải phân tích chuỗi giá trị tồn cầu
ngành nông sản;
- Khái quát về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2009 và tác động của nó
tới nền kinh tế thế giới nói chung và ngành nơng sản nói riêng;
- Chuỗi giá trị nơng sản tồn cầu và vị thế của nông sản Việt Nam trong chuỗi
với hai mặt hàng: gạo (đại diện cho cây lương thực) và cà phê (đại diện cho cây công
nghiệp);
- Xu hướng phát triển của thị trường nông sản thế giới sau khủng hoảng kinh tế;
- Định hướng phát triển nông sản Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu;
- Một số giải pháp vĩ mô và giải pháp vi mô nhằm nâng cao năng lực xâm nhập
chuỗi giá trị toàn cầu của nông sản Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là chuỗi giá trị nơng sản tồn cầu và vị
thế của nơng sản Việt Nam (gạo và cà phê) trong chuỗi, đặc biệt là dưới tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2007-2009 vừa qua.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để phục vụ cho q trình nghiên cứu, tác giả đã thu thập thơng tin, số liệu từ
sách, báo, các nghiên cứu của nhiều tác giả uy tín của Việt Nam trên thế giới cũng
như các tổ chức quốc tế. Ngồi ra khóa luận cịn sử dụng nhiều sơ đồ, hình vẽ, bảng
biểu để làm tăng thêm tính trực quan sinh động và tăng tính thuyết phục cho bài viết.
5. Kết cấu khóa luận:
Khóa luận được chia thành ba phần chính, tương ứng với ba chương như sau:

Chương 1: Lý luận chung về chuỗi giá trị toàn cầu;

2


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Chương 2: Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và vị thế của hàng
nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu;
Chương 3: Giải pháp nhằm xâm nhập chuỗi giá trị tồn cầu cho hàng nơng sản
Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế thế giới.

Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Quản trị kinh
doanh, các phòng ban khác của trường Đại học Ngoại Thương cùng tồn thể các thầy
cơ giáo đã truyền đạt kiến thức, tạo điều kiện học tập và môi trường rèn luyện cho em
trong suốt bốn năm qua. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Th.s Nguyễn Thị
Thu Trang – giảng viên đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em hồn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Bên cạnh đó, em cũng bày tỏ lịng biết ơn tới gia đình, những người thân và
bạn bè đã động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và
nghiên cứu vừa qua.
Dù đã cố gắng nỗ lực hết mình song với vốn kiến thức còn hạn chế của tác giả
và thời gian nghiên cứu khơng nhiều, khóa luận này chắc chắn khơng thể tránh khỏi
sai sót. Vì vậy rất mong các thầy cơ cùng các bạn đóng góp ý kiến để em hồn thiện
nghiên cứu của mình hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2010
Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Tú Anh

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU

I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỀM VÀ CÁC CƠNG CỤ PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ
TRỊ TỒN CẦU
1. Khái niệm



Giá trị

3


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Theo quan niệm của C.Mác trong bộ Tư bản, quá trình sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, về thực chất là quá trình sáng tạo ra giá trị và thực hiện giá trị. Q trình
sản xuất hàng hóa có thể hiểu được theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp,
sản xuất hàng hóa là q trình kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất
(công cụ lao động và đối tượng lao động) và sức lao động để tạo ra sản phẩm. Theo
nghĩa rộng, sản xuất hàng hóa là q trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu:
sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng; trong đó, vị trí, vai trị của các khâu trong
q trình tái sản xuất đó khơng như nhau. Sản xuất là khâu quyết định còn các khâu
sau chịu sự chi phối của sản xuất mặc dù chúng có tác động ngược lại như tiêu dùng
hợp lý sẽ tạo điều kiện đế sản xuất có hiệu quả cao hơn. Khâu phân phối và trao đổi
là những khâu trung gian kết nối sản xuất với tiêu dùng. Cách tiếp cận nghiên cứu
của C.Mác là dựa trên phương pháp trừu tượng hóa và có tính khái qt cao, chủ yếu
đề cập đến quá trình sáng tạo giá trị từ trong lưu thơng. Có thể nói sản xuất là điều
kiện cần cịn thực hiện hàng hóa là điều kiện đủ. C.Mác cũng đã mơ phỏng mơ hình
tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cấu tạo kỹ thuật (tỷ lệ vốn/ lao động hay c/v) không thay đổi. Thực chất,
mơ hình này là việc xây dựng một quy trình tạo ra được giá trị sử dụng hay công
dụng. Giá trị được tạo ra trong sản xuất chỉ là giá trị cá biệt và khi hàng hóa được tiêu

dùng thì mới hình thành giá trị xã hội tức là giá trị đích thực của hàng hóa.
Cũng theo quan niệm của C.Mác, q trình sản xuất hàng hóa là quá trình tạo ra
giá trị theo cơ cấu: C + V + M; trong đó, C là tư bản bất biến, V là tư bản khả biến, M
là giá trị thặng dư. Mức độ phân bố giá trị vào các thành phần của chuỗi giá trị này có
sự khác nhau tùy theo đặc điểm của ngành.
Trong mơ hình với giả định nền kinh tế khơng có ngoại thương, C.Mác đã trừu
tượng hóa nền kinh tế tư bản trong giai đoạn tồn cầu hóa hồn tồn, khơng cịn sự
chia cắt và tách biệt giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, quá
trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm vi toàn cầu và giá trị được sản xuất và
thực hiện cũng trên phạm vi tồn cầu. Q trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm
vi tồn cầu làm hình thành nên mạng sản xuất toàn cầu mà trên thực tế, đây là hiện
tượng xảy ra khi có sự hoạt động của các cơng ty xuyên quốc gia kéo theo sự hình
4


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
thành mạng lưới sản xuất quốc tế là một trong những điều kiện quyết định sự ra đời
của nền kinh tế thế giới hay nói cách khác nền kinh tế thế giới, về thực chất, là tập
hợp của các chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành sản xuất hoặc tổ hợp của các chuỗi
sản phẩm và dịch vụ.



Chuỗi giá trị

Có ba luồng nghiên cứu chính về chuỗi giá trị, đó là:
i) Filièle (Chuỗi):
Phương pháp Filièle (filièle có nghĩa là chuỗi, mạch) gồm các trường phái tư
duy và truyền thống nghiên cứu khác nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng
để phân tích hệ thống nơng nghiệp của các nước đang phát triển trong hệ thống thuộc

địa của Pháp. Phân tích chủ yếu là công cụ để nghiên cứu cách thức mà các hoạt
động sản xuất nông nghiệp (đặc biệt là cao su, bông, cà phê và dừa) được tổ chức tại
các nước đang phát triển. Trong bối cảnh này, khung Filièle chú trọng đặc biệt đến
các hệ thống sản xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương
mại, xuất khẩu và khâu tiêu dùng cuối cùng.
Khái niệm chuỗi (filièle) bao hàm nhận thức kinh nghiệm thực tế được sử dụng
để lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người tham gia vào
các hoạt động. Tuy nhiên, phương pháp này chủ yếu tập trung vào vấn đề của các
mối quan hệ vật chất và kỹ thuật định lượng, được tóm tắt trong sơ đồ dịng chảy của
các hàng hóa và sơ đồ mối quan hệ chuyển đổi. Phân tích Filièle có hai đặc điểm nổi
bật sau:
- Việc đánh giá chuỗi giá trị về mặt kinh tế và tài chính chú trọng vào vấn đề

tạo và phân phối thu nhập trong chuỗi hàng hóa, phân tích các chi phí cũng như thu
nhập giữa các thành phần kinh doanh nội địa và quốc tế để nghiên cứu ảnh hưởng của
chuỗi đến nền kinh tế quốc dân và sự đóng góp của nó vào GDP.
- Phân tích chuỗi lấy sự phát triển của nông nghiệp làm trọng tâm nghiên cứu;

quan tâm tới các vấn đề như sự tương tác lẫn nhau giữa các đối tượng tham gia,
những cản trở và kết quả thu được cho mỗi bên liên quan trong chuỗi, các chiến lược
5


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
cá nhân và tập thể cũng như các hình thái quy định. Chẳng hạn ở châu Phi có bốn loại
quy định liên quan đến chuỗi hàng hóa được phân tích gồm: quy định trong nước,
quy định về thị trường, quy định của nhà nước và quy định kinh doanh nông nghiệp
quốc tế. Năm 1989, hai nhà nghiên cứu là Moustier và Leplaideur (Pháp) đã đưa ra
một khung phân tích về tổ chức chuỗi giá trị hàng hóa, bao gơm lập sơ đồ, các chiến
lược cá nhân và tập thể, và hiệu suất về mặt giá cả và tạo thu nhập, có tính đến vấn đề

chun mơn hóa của nơng dân và thương nhân ngành thực phẩm so với chiến lược đa
dạng hóa.
ii) Khung phân tích của Michael Porter
Luồng nghiên cứu thứ hai liên quan đến cơng trình của Michael Porter (Havard
Busniess School) trong cuốn sách “Competitive Advantage: Creating and Sustaining
Superior Performance” (1985) về các lợi thế cạnh tranh. M.Porter đã dùng khung
phân tích chuỗi giá trị để đánh giá xem một cơng ty nên tự định vị mình như thế nào
trên thị trường và trong mối quan hệ với nhà cung cấp, khách hàng và đối thủ cạnh
tranh khác.
Theo M.Porter, chuỗi giá trị là chuỗi các hoạt động; trong đó sản phẩm đi qua
tất cả các hoạt động của chuỗi một cách tuần tự và tại mỗi hoạt động, sản phẩm sẽ
tích lũy thêm một giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm
nhiều giá trị gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại.
Trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị không trùng với
chuyển đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng theo đó tính cạnh tranh của một công ty
không chỉ liên quan đến quy trình sản xuất. Mơ hình chuỗi giá trị này là một tập hợp
của nhiều công đoạn hay nhiều khâu khác nhau và có quan hệ với nhau cùng tạo ra
giá trị như thiết kế sản phẩm, logistics đầu vào, logistics đầu ra, sản xuất, marketing
& bán hàng, các dịch vụ hậu mãi cùng với các hoạt động bổ trợ gia tăng giá trị cho
sản phẩm như lập kế hoạch chiến lược, quản lý nguồn nhân lực, hoạt động nghiên
cứu,… Với góc độ nghiên cứu này, chuỗi giá trị chỉ áp dụng trong kinh doanh của
doanh nghiệp; do vậy phân tích chuỗi giá trị chủ yếu nhằm hỗ trợ các quyết định
quản lý và chiến lược điều hành của một doanh nghiệp, một công ty cụ thể.
6


Ngơ Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
HÌNH 1: KHUNG PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA M.PORTER

Các hoạt

động
chính

Logistics
đầu vào

Sản
xuất

Logistics
đầu ra

Marketing &
bán hàng

Dịch
vụ

GIÁ
TRỊ

Cơ sở hạ tầng
Quản trị nguồn nhân lực
Các hoạt
động bổ
trợ

Phát triển công nghệ
Mua sẳm


Nguồn: Michael Porter, 1985

Một cách khác để tìm ra lợi thế cạnh tranh là dựa vào khái niệm hệ thống giá
trị; thay vì chỉ phân tích lợi thế cạnh tranh của một cơng ty duy nhất, có thể xem các
hoạt động của cơng ty như một phần của chuỗi các hoạt động rộng hơn mà Porter gọi
là hệ thống giá trị. Một hệ thống giá trị bao gồm các hoạt động do tất cả các cơng ty
tham gia trong việc sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện, bắt đầu từ nguyên
liệu thô đến phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy, khái niệm hệ thống giá
trị rộng hơn so với khái niệm chuỗi giá trị của doanh nghiệp.
iii) Phương pháp tiếp cận toàn cầu
Khái niệm các chuỗi giá trị được Gary Gereffi (Duke University) lần đầu tiên áp
dụng để phân tích tồn cầu hố, tìm hiểu cách thức mà các cơng ty và các quốc gia
hội nhập tồn cầu và để đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập tồn
cầu. Sau đó, Raphael Kaplinsky [21;4] đưa ra những khái niệm về chuỗi giá trị như
sau:
Theo nghĩa hẹp (giản đơn): Chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động cần có để
sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ từ giai đoạn xây dựng khái niệm, qua các giai
đoạn khác nhau của sản xuất tới phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng, dịch vụ
hậu mãi và việc vứt bỏ sản phẩm sau khi sử dụng.
HÌNH 2: MƠ HÌNH CHUỖI GIÁ TRỊ ĐƠN GIẢN

7


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45

THIẾT KẾ

SẢN XUẤT
Logistics đầu vào

Sản xuất Logistics
đầu ra Đóng gói

MARKETING

TIÊU THỤ

Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2001

Theo nghĩa rộng: Chuỗi giá trị là một phức hợp những hoạt động do nhiều
người tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến, thương
nhân, người cung cấp dịch vụ…) để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm được
bán tới tay người tiêu dùng. Chuỗi giá trị rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên
liệu thô và chuyển dịch theo các mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong các
hoạt động như kinh doanh, chế biến, lắp ráp…
Như vậy, mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi các
mắt xích nhiều giá trị kết nối tạo nên. Trong thời đại toàn cầu hóa, các mắt xích tạo
nên giá trị cuối cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, lãnh
thổ khi các chi tiết của nó được thiết kế ở một nước, sản xuất ở một nước khác, lắp
ráp ở nước thứ ba, và tiêu thụ ở nước thứ tư… hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời
tại một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị tồn cầu. Vì vậy, khái niệm chuỗi
giá trị tồn cầu đã xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới.



Chuỗi giá trị toàn cầu

Mọi sản phẩm mới - từ phần mềm cho tới đồ dùng - đều phải trải qua một chu
kỳ, bắt đầu bằng nghiên cứu cơ bản rồi nghiên cứu ứng dụng, thời kỳ ấp ủ, phát triển,
thử nghiệm, sản xuất, triển khai, hỗ trợ và mở rộng kỹ thuật để cải tiến. Mỗi khâu

trên đều được chun mơn hóa và có tính đơn nhất. Các quốc gia đang phát triển như
Ấn Độ, Trung Quốc và Nga đều không đủ nhân lực và năng lực để đảm nhiệm toàn
bộ chu kỳ sản phẩm cho một công ty đa quốc gia lớn ở Mỹ hay các nước phương Tây
phát triển. Song các nước đang phát triển trên đang dần nâng cao năng lực nghiên
cứu và phát triển của họ để có thể đảm nhiệm nhiều khâu hơn. Quá trình này tiếp tục
diễn ra sẽ đánh dấu sự kết thúc của mơ hình cũ – khi một công ty đa quốc gia tự tiến
hành tất cả các khâu của chu kỳ phát triển sản phẩm bằng nguồn lực riêng của mình.
8


Ngơ Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Từ đó tạo ra các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs-Global Value Chains) là các chuỗi giá
trị cho phép các công đoạn của chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả năng
mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
2. Đặc điểm
a) Quản trị chuỗi
Định nghĩa (Humphrey & Schmitz, 2002): Quản trị chuỗi là mối quan hệ giữa
các bên tham gia và các cơ chế, thể chế mà thơng qua đó các hoạt động điều phối phi
thị trường được thực hiện. Quản trị chuỗi giúp trả lời bốn câu hỏi quan trọng: Sản
xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Khi nào thì sản xuất? Số lượng là bao nhiêu?
Gary Gereffi, John Humphrey, và Timothy Sturgeon, trong nghiên cứu “Quản
trị chuỗi giá trị toàn cầu” [18;85] đưa ra năm mơ hình quản trị GVC khác nhau như
sau:
- Thị trường: là hình thức đơn giản nhất của quản trị GVC. Cơ chế quản trị
trung tâm là giá cả. Liên kết giữa các hoạt động chuỗi giá trị không chặt chẽ vì thơng
tin được trao đổi và kiến thức chia sẻ bên trong tương đối đơn giản. Do đó, chi phí để
chuyển sang đối tác khác là thấp đối với các tác nhân trong chuỗi.
- Chuỗi giá trị mẫu: các nhà cung cấp trong kiểu quản trị này cung cấp sản
phẩm hoặc dịch vụ theo chỉ dẫn chi tiết của khách hàng. Tuy vậy, khi cung cấp dịch
vụ “chìa khóa trao tay”, nhà cung cấp có xu hướng chịu trách nhiệm hồn tồn về quy

trình cơng nghệ và thường sử dụng các loại máy móc phổ biến để thu hồi đầu tư từ
một lượng khách hàng lớn. Điều này giữ chi phí chuyển đổi thấp và giới hạn việc đầu
tư vào các giao dịch cụ thể, ngay cả khi quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp là
phức tạp. Các liên kết trong kiểu quản trị này chặt chẽ hơn kiểu quản trị thị trường
giản đơn vì khối lượng thông tin luân chuyển trong liên kết giữa các công ty lớn hơn.
- Chuỗi giá trị quan hệ: trong những mạng lưới có kiểu quản trị này, tương tác
giữa người bán và người mua là tương đối phức tạp, tạo ra những mối quan hệ phụ
thuộc chặt chẽ hơn và những đặc trưng ở cấp độ cao hơn so với hai kiểu quản trị thị
trường và quản trị mẫu. Những liên kết đó bị chi phối bởi danh tiếng, hoặc yếu tố gia
đình và các ràng buộc xã hội. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khoảng cách gần gũi
9


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
giữa các tác nhân giúp tạo các liên kết trong kiểu quản trị này; tuy nhiên sự tin tưởng
và danh tiếng mới thực sự đóng vai trị chính trong việc kết nối các tác nhân, ngay cả
đối với những mạng lưới phi tập trung. Do cần nhiều thời gian tạo dựng lòng tin và
sự phụ thuộc lẫn nhau nên chi phí chuyển đổi sang các đối tác mới thường cao.
- Chuỗi giá trị phụ thuộc: trong kiểu quản trị chuỗi này, nhà cung cấp nhỏ phụ
thuộc nhiều vào những người mua lớn và người mua chi phối. Việc phụ thuộc vào
công ty đầu ngành làm tăng chi phí chuyển đổi đối với các nhà cung cấp. Trong
mạng lưới có kiểu quản trị này, các cơng ty dẫn đầu thường đóng vai trị kiểm sốt và
giám sát chặt chẽ các hoạt động tồn chuỗi. Quan hệ quyền lực bất cân xứng buộc
các nhà cung cấp liên kết với khách hàng chặt chẽ hơn và do đó chi phí chuyển đổi
cũng cao hơn.
- Cấp bậc: mơ hình quản trị này là đặc trưng của hội nhập theo chiều dọc (khi
đó các giao dịch diễn ra bên trong một cơng ty duy nhất). Hình thức quản trị chi phối
là kiểm soát việc quản lý, theo thứ tự từ người quản lý cấp cao tới nhân viên hoặc từ
trụ sở tới các công ty con và chi nhánh.
Bảng 1 nêu ra các nhân tố quyết định tới quản trị chuỗi, dựa trên các tiêu chí về

mức độ phức tạp của các giao dịch, khả năng hệ thống hóa giao dịch, năng lực cung
ứng cũng như mức độ bất cân xứng quyền lực trong các các quản trị chuỗi khác nhau.
BẢNG 1: CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH TỚI QUẢN TRỊ CHUỖI
Dạng quản trị

Mức độ phức tạp
của giao dịch

Khả năng hệ thống
hóa giao dịch

Năng lực
cung ứng

Mức độ bất cân
xứng quyền lực
Thấp

Thị trường

Thấp

Cao

Cao

Mẫu

Cao


Cao

Cao

Quan hệ

Cao

Thấp

Cao

Phụ thuộc

Cao

Cao

Thấp

Cấp bậc

Cao

Thấp

Thấp

Cao


Nguồn: Gary Gereffi, John Humphrey, Timothy Sturgeon, 2005

b) Nâng cấp chuỗi giá trị

10


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Nâng cấp trong chuỗi giá trị là quá trình các chủ thể kinh tế, quốc gia, doanh
nghiệp, người lao động chuyển từ hoạt động tạo ra giá trị thấp sang những hoạt động
có giá trị cao hơn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Khả năng nâng cấp đề cập tới
sự chuyển dịch mà một hay một nhóm các hãng thực hiện để nâng cao vị trí của mình
trong chuỗi.
Trong nâng cấp chuỗi giá trị, vấn đề then chốt là khả năng sáng tạo để có được
sự đổi mới khơng ngừng trong sản phẩm cũng như cả quy trình; sự đổi mới đó phải
đảm bảo khơng chậm hơn các đối thủ cạnh tranh nhằm duy trì thị phần và giá trị gia
tăng thu về. Việc đầu tiên là tập trung vào giá trị cốt lõi (“core competence”), các
doanh nghiệp cần phải kiểm tra năng lực của mình để quyết định xem sẽ tạo ra giá trị
gì cho người tiêu dùng cuối cùng, và sẽ thu lại những giá trị gì?
Có bốn loại nâng cấp chuỗi giá trị chính [21;38], đó là:
- Nâng cấp quy trình: nâng cao hiệu quả của các quy trình nội bộ để có các hoạt
động tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thắt chặt các liên kết bên trong một mắt xích (như
tăng số vịng quay hàng tồn kho, giảm phế liệu) và các liên kết giữa các mắt xích
trong chuỗi (giao hàng thường xuyên hơn, khối lượng nhỏ hơn và đúng thời hạn hơn)
- Nâng cấp sản phẩm: giới thiệu sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm cũ nhanh
hơn các đối thủ. Việc này bao hàm cả thay đổi quy trình phát triển sản phẩm mới
giữa các liên kết bên trong doanh nghiệp và trong mối quan hệ giữa nhiều doanh
nghiệp đóng vai trị là các mắt xích khác nhau của chuỗi.
- Nâng cấp chức năng: làm tăng giá trị gia tăng thông qua thay đổi các hoạt
động được quản lý trong doanh nghiệp hoặc chuyển các hoạt động sang các liên kết

khác trong chuỗi giá trị.
- Nâng cấp toàn chuỗi: chuyển sang một chuỗi giá trị mới dựa trên những kỹ
năng, kinh nghiệm học hỏi từ trước do tham gia một chuỗi giá trị có liên quan. Chẳng
hạn, các doanh nghiệp Đài Loan chuyển từ sản xuất đài bán dẫn sang máy tính, tivi,
màn hình máy vi tính rồi sau đó là máy tính xách tay và giờ đây là điện thoại WAP.
Việc nâng cấp chuỗi giá trị thường được thực hiện theo trình tự từ nâng cấp quy
trình tới nâng cấp sản phẩm, nâng cấp chức năng và nâng cấp chuỗi (Bảng 2).
BẢNG 2: CÁC QUY TRÌNH NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ
11


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Nâng cấp
quy trình

Nâng cấp
sản phẩm

Nâng cấp
chức năng

Nâng cấp
chuỗi

Trình tự

Ví dụ

Lắp ráp
thiết bị chính

(OEA)

Mức độ độc lập
với người mua
nước ngồi

Sản xuất
có thiết kể riêng
(ODM)

Sản xuất
có thương hiệu
(OBM)

Chuyển sang
chuối giá trị mới

Giá trị gia tăng thu về tăng dần
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2001

Kinh nghiệm từ thành công của các nước Đông Á đã cho thấy một quy trình
nâng cấp chuỗi giá trị từ sản xuất OEA (lắp ráp thiết bị chính) tạo ra ít giá trị sang sản
xuất thiết bị chính đến cung cấp các sản phẩm mang nhãn mác của người mua, rồi
ODM (sản xuất có thiết kế) và giờ đây là OBM (sản xuất có thương hiệu cho riêng
mình). Đó cũng là quy trình mà người sản xuất dần thốt khỏi sự phụ thuộc vào
người mua toàn cầu trong việc thiết kế, tạo dựng thương hiệu cho chính mình và nhờ
đó thu lại nhiều giá trị gia tăng từ sản phẩm.
3. Phân loại
Trong cuốn sách “A Commodity Chains Framework for Analyzing Global
Industries” [19], Gary Gereffi dựa vào nhân tố chi phối chuỗi đã chỉ ra có hai loại

chuỗi giá trị khác nhau cơ bản, đó là chuỗi giá trị do người bán chi phối và chuỗi giá
trị do người mua chi phối.
Chuỗi giá trị do người bán chi phối (“Producer-driven commodity chain”) là
chuỗi trong đó các cơng ty, chủ yếu là các cơng ty đa quốc gia đóng vai trị trung tâm
trong việc kết hợp hệ thống sản xuất (bao gồm cả liên kết xuôi chiều và ngược
chiều). Đây là đặc điểm của ngành sản xuất chiếm dụng nhiều tư bản và địi hỏi hàm
lượng cơng nghệ cao như điện thoại, máy bay, sản phẩm bán dẫn và máy móc công
nghiệp.
Chuỗi giá trị do người mua chi phối (“Buyer-driven comodity chain”) là chuỗi
trong đó những nhà bán lẻ lớn và các nhà sản xuất uy tín đóng vai trị then chốt trong
12


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
việc thiết lập hệ thống sản xuất phi tập trung tại các nước đang phát triển, mà đặc biệt
là tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Loại chuỗi này phổ biến ở các ngành sử dụng
nhiều lao động, hàng tiêu dùng như hàng dệt may, giày dép, đồ chơi, đồ gia dụng, đồ
điện tử và các loại đồ thủ công.
Bảng 3 dưới đây là những so sánh giữa hai loại chuỗi: do người bán và người
mua chi phối.

BẢNG 3: SO SÁNH CHUỖI GIÁ TRỊ DO NGƯỜI BÁN VÀ NGƯỜI MUA CHI PHỐI

Các tiêu chí
Chuỗi do người bán chi phối
Hoạt động chi Sản xuất công nghiệp

Chuỗi do người mua chi phối
Thương mại


phối
Năng lực cốt lõi
Rào cản gia nhập
Ngành hàng

Nghiên cứu và phát triển, Sản xuất Thiết kế, Marketing
Lợi thế kinh tế theo quy mô
Lợi thế kinh tế theo đặc thù
Hàng tiêu dùng lâu bền, sản phẩm Hàng tiêu dùng không lâu bền

Các ngành điển

cấp trung, tư bản phẩm
Điện thoại, máy tính, máy bay

Hàng may mặc, giày dép, đồ chơi

hình
Chủ thể hữu các

Các công ty xuyên quốc gia

Các công ty nội địa, chủ yếu ở

công ty sản xuất
Những liên kết hệ

Đầu tư

các nước đang phát triển

Thương mại

thống chính
Kết cấu hệ thống

Theo chiều dọc

Theo chiều ngang
Nguồn: Gary Gereffi, 1999

13


Ngơ Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Ngồi ra, có những chuỗi giá trị lại kết hợp hai kiểu quản trị theo định hướng
của cả người mua và người bán. Chẳng hạn, trong ngành quần áo, GAP là ví dụ về
một hãng hoạt động khơng có nhà máy sản xuất và là đại diện điển hình cho loại
chuỗi do người mua chi phối, trong khi đó Levi-Strauss lại quản trị một chuỗi giá trị
hội nhập dọc. Trong ngành sản xuất ô tô, Ford đang chuyển dần sang chuỗi do người
mua chi phối trong khi Toyota và các nhà sản xuất khác vẫn tiếp tục hoạt động trong
chuỗi giá trị do người bán chi phối. Trong ngành sản xuất vật liệu bán dẫn, Intel kiểm
soát chuỗi do người sản xuất chi phối còn ARM lại sử dụng silicon để thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng.

Các dạng của chuỗi giá trị
Mô hình chuỗi giá trị có thể được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau. Sự
phân bố hay mật độ giá trị trong các ngành sản xuất khác nhau có sự khác nhau đáng
kể và phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học – cơng nghệ, trình độ tổ chức và
sản xuất, tư duy kết nối toàn cầu cũng như mức độ mở của các nền kinh tế, các thị
trường đầu vào và đầu tư. Mức độ phân bố giá trị của các khâu trong GVCs của một

số mặt hàng cụ thể có thể được mơ phỏng qua các dạng dưới đây:
(1) Dạng parabol “ngửa”
Với dạng này, mật độ giá trị cao rơi vào các khâu đầu là thiết kế và khâu cuối là
tiêu thụ. Khâu đầu đòi hỏi đầu tư nhiều về kiến thức và thông tin hoặc đội ngũ các
nhà khoa học đầu ngành; khâu cuối - tiêu thụ là khâu phức tạp nhất trong điều kiện
cạnh tranh của nền kinh tế thị trường bao gồm các hoạt động thiết kế kênh tiêu thụ,
quảng bá, xây dựng quan hệ công chúng, chiến lược giá cả, khuếch trương,… do sự
thay đổi nhanh chóng của ngành sản xuất và sản phẩm với sự xuất hiện của các sản
phẩm tinh xảo, có độ phức tạp cao trong thiết kế hoặc sản phẩm đáp ứng nhu cầu cao
của một nhóm khách hàng khó tính trong sử dụng.
Chẳng hạn, trong GVC ngành dệt may, thiết kế chiếm tới 35% giá trị, tiêu thụ
chiếm tới khoảng 35 – 40% giá trị. Còn khâu sản xuất chỉ chiếm khoảng 20 – 25%
giá trị, thậm chí cịn thấp hơn. Cả khâu đầu và khâu cuối tập trung vào các nước công
nghiệp phát triển như các nước Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản,… còn khâu sản xuất ở

14


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
giữa – khâu trực tiếp tạo ra giá trị, lại được đặt ở các nước có nguồn lao động dồi dào
và giá lao động rẻ như Trung Quốc, Việt Nam, Bangladesh,…
(2) Dạng parabol “úp”
Dạng chuỗi giá trị này phù hợp với quá trình sản xuất các sản phẩm đơn giản
về thiết kế và có khả năng tiêu thụ dễ dàng. Vì thế sản xuất, chế biến trở thành các
khâu tạo giá trị cao nhất hay có mật độ tập trung giá trị cao nhất. Những nước xuất
khẩu sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế đặc biệt là các hàng nông sản sơ chế thường có
hình dạng chuỗi giá trị này hoặc các nền kinh tế mới cơng nghiệp hóa sơ khai như
thời kỳ chủ nghĩa tư bản do cạnh tranh có tính đặc trưng tương tự chuỗi giá trị các
sản phẩm. Lúc này, thiết kế và phát triển sản phẩm mới cũng như tiêu thụ khơng phải
là vấn đề khó khăn, hoạt động marketing chưa phải là hoạt động đóng vai trị quyết

định trong việc thực hiện giá trị.
(3) Dạng đường thẳng
Dạng này phản ánh mật độ phân bố giá trị đều đặn và như nhau đối với các
khâu trong chuỗi giá trị. Dạng này gần như đóng vai trị cân bằng hai dạng chuỗi giá
trị trên (parabol “ngửa” và parabol “úp”). Về nguyên tắc, đây cũng là một dạng của
chuỗi giá trị; tuy nhiên, đây là dạng chuỗi giá trị có tính đặc thù cao nên khó xuất
hiện dạng chuỗi này trong thực tế.
HÌNH 3: CÁC DẠNG CỦA CHUỖI GIÁ TRỊ

15


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45

Cao
Giá trị
Cao

1

Thấp

Các khâu

2

3

Sản xuất


Thiết kế

Tiêu thụ

Nguồn: PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng, 2008

Các dạng phân bố mật độ giá trị của các khâu trong chuỗi giá trị được mơ
phỏng trong Hình 3. Các dạng này có mối quan hệ và bổ sung lẫn nhau. Mỗi dạng
phân bố mật độ giá trị trong chuỗi gắn liền với một trình độ phát triển nhất định của
đất nước hoặc phù hợp với một giai đoạn phát triển nhất định. Vị trí của quốc gia
trong chuỗi giá trị cũng là căn cứ để đánh giá vị thế của quốc gia đó trong nền kinh tế
thế giới.
Trong giai đoạn sản xuất hàng hóa ở trình độ thấp, sản phẩm được sản xuất ra
khá đơn giản và hầu như được tiêu thụ một cách dễ dàng, dạng của GVC là dạng (2).
Trong giai đoạn nền kinh tế đã đạt trình độ kinh tế cao, trình độ tiêu dùng cao, mức
độ cạnh tranh gay gắt để tiêu thụ hàng hóa trên phạm vi thế giới, dạng của chuỗi giá
trị là dạng (1). Trong các nền kinh tế sản xuất và nhu cầu đơn giản tối đa, dạng của
chuỗi giá trị là (3). Hiện nay, thị trường thế giới và những giá trị mang tính tồn cầu
sẽ là động lực cơ bản để phát triển các giao dịch tạo ra giá trị tồn cầu.
II. MỤC ĐÍCH CỦA PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ TỒN CẦU MẶT
HÀNG NƠNG SẢN
16


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Sản xuất hàng nông sản là một lĩnh vực sản xuất nhạy cảm trong cơ cấu kinh tế
của mỗi nước do có những đặc điểm riêng biệt so với các ngành khác như cung cấp
lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, sử dụng nhiều lao động, lại chịu nhiều
tác động từ thiên nhiên,... Do đó chuỗi giá trị nơng sản rất phức tạp, bao gồm các q
trình có những tính chất hồn tồn khác nhau: q trình sản xuất (sản xuất nơng

nghiệp), q trình chế biến nơng sản (sản xuất cơng nghiệp) và q trình xuất khẩu
hàng hóa (thương mại).
Chuỗi giá trị đối với hàng nơng sản có sự khác biệt với hàng công nghiệp ở các
điểm sau:
- Thiết kế thuộc khâu R&D; sản xuất tách thành hai khâu là trồng trọt và chế
biến;
- Giá trị gia tăng được tạo ra trong khâu chế biến cao hơn so với khâu trồng trọt;
- Sự phân bố địa điểm trồng trọt phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu - tự
nhiên;
- Tính khơng đồng đều giữa các tác nhân tham gia vào chuỗi và độ lớn của mỗi
chuỗi bị hạn chế do các rào cản khi tham gia;
Với những khác biệt này, chuỗi giá trị nơng sản cần được nghiên cứu dưới góc
độ và bằng những phương pháp khác với hàng công nghiệp và các ngành hàng khác.
Phân tích chuỗi giá trị giúp xem xét hoạt động kinh tế của ngành nông sản bằng
cách chia nhỏ hoạt động này thành các bộ phận nhỏ, qua đó giúp xác định vị thế của
một doanh nghiệp hay một quốc gia cụ thể trong GVC; nhờ vậy mới có thể đưa ra
những biện pháp nhằm nâng cao vị thế của doanh nghiệp, quốc gia đó và thúc đẩy
việc thâm nhập chuỗi một cách hiệu quả.

1. Lập sơ đồ một cách hệ thống các đối tượng tham gia chuỗi giá trị tồn
cầu ngành nơng sản
Để hiểu được chuỗi giá trị cần phân tích có thể dùng mơ hình, bảng biểu, số
liệu, biểu đồ hay các hình thức tương tự để nắm bắt và hình dung bản chất của chuỗi.
Trong đó, lập sơ đồ là cách thức giúp cho việc tiếp cận chuỗi giá trị được thực hiện
17


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
dễ dàng nhất, cụ thể và chi tiết nhất; qua đó người nghiên cứu thấy được một cách hệ
thống các góc độ khác nhau của tồn chuỗi. Thơng qua sơ đồ chuỗi giá trị:

- Giúp xác định các mạng lưới để nắm bắt kết nối giữa các tác nhân và các quy

trình trong chuỗi;
- Thể hiện tính phụ thuộc lẫn nhau, mối tương quan giữa các tác nhân và các

quy trình của chuỗi;
- Cung cấp cho các bên liên quan những hiểu biết ngoài phạm vi tham gia của

riêng họ trong chuỗi giá trị.
Mỗi chuỗi giá trị, có rất nhiều khía cạnh cần được nghiên cứu: dòng sản phẩm
thực tế, số tác nhân tham gia, giá trị tích lũy được,… Dưới đây là các dạng sơ đồ
chính thường được lập để phân tích chuỗi giá trị:
+ Sơ đồ các quy trình cốt lõi
Sơ đồ này giúp xác định các quy trình cơ bản của chuỗi và qua đó thấy được
những quy trình khác nhau mà nguyên liệu thô luân chuyển qua trước khi đến giai
đoạn tiêu dùng cuối cùng. Các quy trình cốt lõi trong chuỗi giá trị nông sản thường là
đầu vào, sản xuất, chế biến, marketing, và tiêu thụ được thực hiện theo thứ tự sau:
Đầu vào  Sản xuất  Chế biến  Marketing  Tiêu thụ
+ Sơ đồ những người tham gia chính vào các quy trình
Tùy thuộc vào mức độ phức tạp mà người nghiên cứu muốn lập để phân biệt
giữa những người tham gia. Cách phân biệt trực tiếp nhất là phân loại những người
tham gia theo nghề nghiệp chính của họ.
Hình 4 là ví dụ về lập sơ đồ những người tham gia (theo chức năng) trong
chuỗi giá trị tiêu thụ mật ong của Mexico từ vùng Calakmul vào thị trường nội địa.
Trong chuỗi giá trị này có những người tham gia là người sản xuất (người nuôi ong
đơn lẻ, hiệp hội những người nuôi ong); người thu mua, chế biến (người thu mua,
doanh nghiệp chế biến, trung gian); người xuất khẩu; người phân phối (người bán
bn, người bán lẻ) và khách hàng.
HÌNH 4: SƠ ĐỒ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ MẬT ONG MEXICO


18


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45

Người nuôi ong
đơn lẻ

Hiệp hội những
người nuôi ong

Người thu mua

Trung gian
Người bán buôn

Doanh nghiệp chế biến

Người xuất khẩu

Người bán lẻ

Khách hàng

Nguồn: GTZ, A.Springer – Heinze, 2005

+ Sơ đồ dịng sản phẩm, thơng tin và kiến thức
Lý do tồn tại chính của một chuỗi giá trị là hàng hóa, dịch vụ hoặc thơng tin
được luân chuyển giữa những người tham gia khác nhau. Do đó, phải xác định được
trong chuỗi giá trị đó có những luồng sản phẩm, thơng tin và kiến thức nào? Đó cũng

là những dịng chảy ln chuyển trong chuỗi giá trị. Chúng có thể hữu hình hoặc vơ
hình: các sản phẩm, hàng hóa, tiền, tín dụng, thơng tin, dịch vụ, sản phẩm,…
Hình 5 là ví dụ về lập sơ đồ về chuỗi giá trị cây đậu nành ở Bắc Lào, đậu nành
chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc để chế biến thành thức ăn gia súc hoặc dầu
ăn. Tuy nhiên, theo những người tham gia trong toàn chuỗi giá trị, một trong những
vấn đề chính là chất lượng đậu nành không đồng đều. Nguyên nhân của hiện tượng
này xuất phát từ những quan niệm về tiêu chuẩn chất lượng đậu nành của những
người tham gia chuỗi (nông dân, người thu mua và trung gian xuất khẩu) là không
giống nhau. Với các tiêu chí về màu sắc, kích thước, và hàm lượng dầu thì người
nơng dân và người thu gom tự đặt ra những tiêu chuẩn riêng và gần như khơng biết
hoặc biết rất ít về những u cầu từ phía người nhập khẩu Trung Quốc; ngay cả trung
gian xuất khẩu cũng không rõ về hàm lượng dầu yêu cầu và bị động dựa vào việc
kiểm tra từ phía nhà nhà nhập khẩu nước ngồi. Điều đó chứng tỏ trong cũng một
chuỗi, dòng chảy kiến thức tại mỗi quy trình và với mỗi tác nhân khơng đồng đều mà
nó phụ thuộc và trình độ hiểu biết, khả năng tiếp cận thơng tin,… của các tác nhân
trong chuỗi.
HÌNH 5: SƠ ĐỒ DỊNG THƠNG TIN TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ ĐẦU NÀNH BẮC LÀO

19


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45

Nông dân

Trung gian
xuất khẩu

Người thu mua


- Màu sắc: nâu-đen

- Màu sắc: đen

- Kích thước: khơng biết, hình
trịn
- Hàm lượng dầu: khơng biết

- Màu sắc: đen

- Kích thước: hạt trơn

- Kích thước: Khơng biết, hinh
tròn

- Hàm lượng dầu: Xác định bởi
người nhập khẩu Trung Quốc

- Hàm lượng dầu: không biết

Nguồn: GTZ, Thị trường đậu nành ở Bắc Lào, 2005

+ Sơ đồ khối lượng sản phẩm, số người tham gia và công việc
Một số phần trong sơ đồ chuỗi giá trị có thể lượng hóa. Ngồi các số liệu về tài
chính, một số yếu tố khác có thể định lượng được như: khối lượng sản phẩm, số
lượng người tham gia, số công việc. Mục đích của việc này là để có cái nhìn tổng
qt về quy mô của các kênh khác nhau trong chuỗi giá trị.
Hình 6 cho thấy khối lượng sản phẩm dịch chuyển trong chuỗi theo hai kênh
khác nhau tới khách hàng trong hai thị trường 1 và 2. Theo đó, 20% tổng khối lượng
sản phẩm được tiêu thụ trên hai thị trường 1 và 2 có là các sản phẩm trung bình ban

đầu được các cơng ty chế biến lớn mua từ nơng dân, sau đó chế biến và phân phối tới
thị trường 1. Còn 80% tổng khối lượng sản phẩm trên hai thị trường thì qua một chu
trình khác: các sản phẩm nhỏ ban đầu (50% khối lượng) và sản phẩm nhập khẩu
(30% khối lượng) được các công ty vừa và nhỏ (SMEs) thu gom, chế biến và bán cho
các nhà bán lẻ trước khi tiêu thụ trên thị trường 2.

HÌNH 6: SƠ ĐỒ KHỐI LƯỢNG SẢN PHẨM

20


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45

Sản phẩm
trung bình
ban đầu
Sản phẩm
nhỏ ban
đầu
Nhà nhập
khẩu

20%

Cơng ty chế
biến lớn

50%

20%


20%

Bán lẻ A

Khách hàng
thị trường 1

20%
Khách hàng
thị trường 2

SMEs công
nghiệp
30%

60%

Bán lẻ B

60%

Nguồn: Dự án nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo,2009, [5;31]

+ Sơ đồ dòng luân chuyển sản phẩm hoặc dịch vụ về mặt địa lý
Một cách đơn giản khác để lập sơ đồ là lập một bản đồ địa lý thực tế và theo
dấu sản phẩm hoặc dịch đang nghiên cứu. Bắt đầu từ nơi bắt nguồn, nơi trồng và sau
đó vẽ sự dịch chuyển sản phẩm từ thương lái trung gian đến người bán buôn, người
bán lẻ và người tiêu dùng cuối cùng. Sơ đồ này cho phép xem xét một khía cạnh của
dịng ln chuyển sản phẩm: khối lượng, lợi nhuận biên trên một sản phẩm, số người

tham gia,… và thấy được sự khác biệt về địa lý hoặc vùng.
Như vậy, mỗi ngành hàng có những đặc điểm, đặc trung riêng và do đó có
những cách phân tích chuỗi giá trị khác nhau. Với một chuỗi giá trị lại có nhiều giác
độ nghiên cứu khác nhau như các quy trình, tác nhân, dịng lưu chuyển thơng tin và
khối lượng,... Việc lập sơ đồ cho từng khía cạnh đó sẽ giúp người nghiên cứu đưa ra
các phân tích chi tiết, cụ thể và rõ ràng về chuỗi đó tại mỗi khâu, ở mỗi mắt xích hay
các liên kết. Từ đó, bằng cách tổng hợp những sơ đồ đó lại người nghiên cứu sẽ có
cái nhìn hệ thống, tồn diện về toàn chuỗi giá trị.
2. Xác định sự phân phối lợi ích của các bên tham gia chuỗi giá trị ngành
nông sản
Kaplinsky và Morris (2001) [21] nhận định rằng trong q trình tồn cầu hóa,
có nhận thức (trong phần lớn các trường hợp) rằng khoảng cách thu nhập trong và
giữa các nước tăng lên. Việc phân tích chuỗi giá trị có thể giúp giải thích q trình
này:

21


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
Thứ nhất, bằng cách lập sơ đồ một loạt những hoạt động trong chuỗi, phân tích
chuỗi giá trị giúp phân chia tổng thu nhập của chuỗi giá trị thành những khoản mà
các bên khác nhau trong chuỗi giá trị nhận được.
Thứ hai, phân tích chuỗi giá trị có thể làm sáng tỏ việc các công ty, vùng và
quốc gia được kết nối với nền kinh tế toàn cầu như thế nào. Cách phân tích lồng ghép
này cho phép xác định (ở mức độ rộng hơn) sự phân phối của các hệ thống sản xuất
toàn cầu cũng như năng suất mà các nhà sản xuất cá thể phải nâng cao hoạt động và
tự đặt mình vào con đường tăng trưởng thu nhập bền vững.
BẢNG 4: THU NHẬP CỦA NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ CÀ CHUA
MỘC CHÂU, SƠN LA
Lợi nhuận/kg


Sản lượng/năm

Thu nhập/năm

USD
Nông dân Mộc Châu trong HTX
Người thu mua ở Mộc Châu
HTX 19-5
HTX Vân Trì
Nơng dân Mộc Châu ngồi HTX
Người thu mua ở Mộc Châu (đến HN)
Người bán buôn ở Hà Đông
Nông dân ở Sóc Sơn
Cơng ty Bảo Hà
Cửa hàng rau quả an toàn
Tổng hợp

%

(kg)

%

(USD)

%

0,06
0,02

0,01
0,04
0,06
0,02
0,02
0,14
0,03
0,02
0,41

14,29
4,76
2,38
9,52
14,29
4,76
4,76
33,33
7,14
4,76
100

3340
2100
12600
11900
8400
105000
132000
2374

5610
3400
286724

1,16
0,73
4,39
4,15
2,39
36,62
46,06
0,83
1,96
1,19
100

203,18
42,94
129,23
530,16
474,38
2147,12
3206,92
322,77
150,32
78,24
7285,26

2,79
0,59

1,77
7,28
6,51
29,47
44,02
4,43
2,06
1.07
100

Nguồn: Dự án nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo, 2009, [5;57]

Ví dụ trong Bảng 4 cho biết thu nhập của các tác nhân trong chuỗi giá trị cà
chua tại Mộc Châu, Sơn La. Trong số những người tham gia khác nhau của chuỗi, thu
nhập hàng năm cao nhất thuộc về những bán buôn ở Hà Đơng (3206,92 USD/năm
tương ứng 44,02% tổng thu nhập tồn chuỗi) và những người thu mua ở Mộc Châu
(2147,12 USD bằng 29,47% tổng thu nhập chuỗi) do số lượng cà chua được tiêu thụ
là rất lớn (105 tấn/năm với người thu mua, 132 tấn/năm đối với người bán buôn) mặc
dù lợi nhuận trên một kg của nơng dân Sóc Sơn (0,14 USD/kg chiếm 33,33% lợi
nhuận tồn chuỗi) và nơng dân Mộc Châu (0,06 USD/kg tương ứng với 14,29% lợi
22


Ngơ Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
nhuận tồn chuỗi) là cao nhất. Nguyên nhân của sự khác biệt này là người bán buôn
và người thu mua thu lợi từ chênh lệch giá mua và giá bán trên một lượng lớn cà chua
họ kinh doanh.
So với những người tham gia khác, các siêu thị và cửa hàng rau an tồn có lợi
nhuận thấp nhất, tính trên một kg và thu nhập hàng năm. Nguyên nhân là do đối với
người nông dân, việc bán hàng cho siêu thị và các cửa hàng rau an tồn khơng mang

lại thu nhập nhiều hơn so với bán hàng cho các hợp tác xã hay người thu mua và
người bán buôn, mặc dù giá thu mua của các cửa hàng rau an toàn cao hơn 20% so
với hợp tác xã Vân Trì, hợp tác xã 19 – 5 hay người bán buôn ở Hà Đơng. Vì các cửa
hàng bán rau an tồn, siêu thị đưa ra nhiều áp lực hơn cho các nhà cung cấp, đặc biệt
là khả năng trả lại hàng.
Như vậy, phân tích chuỗi giá trị khơng chỉ giúp người nghiên cứu xác định thu
nhập được phân bổ trong các cấp và giữa các mắt xích khác nhau của chuỗi mà cịn
nắm bắt được các mối quan hệ giữa các mắt xích trong chuỗi cũng như tác động của
hệ thống quản trị chuỗi tới sự phân phối đó. Qua đó từng bước cải thiện thu nhập của
các tác nhân yếu thế và đảm bảo tính bình đẳng giữa các tác nhân trong chuỗi đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến phân phối thu nhập trong chuỗi giá trị là quản trị
chuỗi giá trị, áp lực cạnh tranh, khả năng nâng cấp và các vấn đề về thể chế. Việc xác
định được phân phối thu nhập trong chuỗi còn giúp cải thiện quản trị chuỗi tốt hơn,
đưa ra các định hướng nâng cấp chuỗi và loại bỏ dần những yếu kém trong vấn đề thể
chế tại đất nước mà chuỗi đó thực hiện giá trị.
3. Xác định các liên kết trong chuỗi từ đó đưa ra cách thức giúp các chủ
thể kinh tế xâm nhập chuỗi giá trị
Một hoạt động không biệt lập mà ln có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp
với các hoạt động khác trong chuỗi giá trị ngành hàng. Các mối quan hệ đó tạo thành
các liên kết giữa các mắt xích, các quy trình hay các khâu trong chuỗi. Những liên kết
này có thể tồn tại giữa các hoạt động chính hoặc giữa các hoạt động chính với hoạt
động bổ trợ của chuỗi; xét ở góc độ khác quan hệ có thể tồn tại giữa các mắt xích

23


Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
(người sản xuất và thương nhân) hoặc trong cùng một một mắt xích (nơng dân với
nơng dân).
Các mối quan hệ và liên kết giữa những người tham gia tương tự nhau về cơ

bản được phân chia thành ba loại như sau:
- Các quan hệ thị trường tại chỗ hay “quan hệ trong tầm tay”: những người
tham gia thực hiện một giao dịch (gồm thỏa thuận giá cả, khối lượng và các yêu cầu
khác) chỉ trong thời hạn và phạm vi của giao dịch cụ thể đó.
- Các mối quan hệ mạng lưới bền bỉ: khi những người tham gia muốn giao dịch

với nhau nhiều lần lặp đi lặp lại tạo mối quan hệ mạng lưới bền bỉ. Loại quan hệ này
có mức độ tin cậy cao hơn và phụ thuộc vào nhau ở một mức độ nhất định, nó có thể
được chính thức hóa bằng hợp đồng song khơng cần thiết.
- Hội nhập theo chiều ngang (horizinal linkages): Cả hai bên cùng có sở hữu về

mặt pháp lý. Một tổ chức tham gia vào nhiều quy trình khác nhau trong chuỗi giá trị
có cơ cấu sở hữu là tồn phần hoặc một phần.
Giữa các mắt xích khác nhau của chuỗi giá trị cịn có thể hình thành các liên kết
dọc (vertical linkages): là liên kết giữa các tác nhân có quan hệ mua bán trong chuỗi,
giúp cho việc thâm nhập thị trường trở nên dễ dàng hơn. Ngoài ra, liên kết theo chiều
dọc cho phép các công ty trao đổi kiến thức, thơng tin và kỹ thuật, tài chính và dịch
vụ kinh doanh.
Liên kết thị trường: là phương tiện để thúc đẩy dòng chảy của sản phẩm qua
các cấp độ của hệ thống marketing.
Liên kết thị trường giúp cho các tác nhân trong chuỗi có thể tiếp cận thơng tin
thị trường đầy đủ và nhanh nhậy. Đây luôn là vấn đề quan trọng nhất của các doanh
nghiệp khi muốn xâm nhập vào một GVC. Dù các nước phát triển có dỡ bỏ các rào
cản thương mại đi chăng nữa thì các nhà sản xuất ở các nước đang phát triển cũng
không thể tự động gia nhập thị trường một cách dễ dàng bởi vì các chuỗi giá trị
thường bị kiểm sốt bởi một số người mua nhất định.
Sự tin tưởng đóng vai trò trung tâm cho việc kết nối các thành viên và tạo lập
tính thống nhất trong mọi tổ chức. Tương tự như vậy, các mắt xích và các nhân tố của
chuỗi giá trị cũng được kết nối bởi các mối quan hệ và lịng tin. Tính chặt chẽ của các
24



Ngô Thị Tú Anh – Lớp A1. QTKDA. K45
liên kết phụ thuộc vào mức độ tin tưởng lẫn nhau giữa các nhân tố này là cao hay
thấp. Dựa vào mức độ tin tưởng giữa các mắt xích của chuỗi, R. Kaplinsky và M.
Morris [21;74], đã phân biệt hai loại chuỗi có mức độ tin tưởng cao và thấp như trong
Bảng 5.
BẢNG 5: SO SÁNH CHUỖI TIN TƯỞNG THẤP VÀ CHUỖI TIN TƯỞNG CAO

Chuỗi tin tưởng thấp
Độ lâu dài của quan Ngắn hạn

Chuỗi tin tưởng cao
Dài hạn

hệ buôn bán
Các thủ tục đặt hàng Mở thầu đặt hàng, giá cả được Có thể không phải mở thầu; giá cả
thỏa thuận và đồng ý trước khi được quyết định sau khi hợp đồng
đặt hàng
được đặt ra
Mối quan hệ hợp Nhà cung cấp chỉ bắt đầu sản Nhà cung cấp linh hoạt hơn về các
đồng

xuất khi nhận được hợp đồng

chỉ dẫn, có thể bắt đầu sản xuất

Kiểm tra

Kiểm tra khi giao hàng


trước khi có hợp đồng chính thức
Kiểm tra qua loa hoặc khơng kiểm

Mức độ phụ thuộc
Hỗ trợ kỹ thuật

tra
Thấp
Cao
Kiến thức chuyên môn hiếm khi Thường xun và thường khơng
có sẵn, chỉ hỗ trợ khi được trả chính thức

Định giá
Tín dụng mở rộng

tiền
Đối đầu, che giấu thơng tin
Khơng đối đầu
Gây khó khăn hoặc khơng có tín Dễ tiếp cận, thời gian trả tiền

dụng mở rộng
chậm, điều khoản dễ dàng
Điều kiện thanh tốn Trì hỗn trong việc thanh toán Trả tiền khi nhận được hàng hóa
cho các đại lý và những người
sản xuất khơng chính thức
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2001

Theo đó, trong chuỗi tin tưởng cao, các mắt xích được kết nối bởi các mối quan
hệ lâu dài và bền chặt, có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các mắt xích tạo nên một chuỗi liên

kết chặt chẽ. Ngược lại, các mắt xích của chuỗi tin tưởng thấp có các mối quan hệ
ngắn hạn, thường là đối đầu để tìm kiếm lợi ích cho riêng mình và ít khi hỗ trợ nhau
vì vậy mà chuỗi này liên kết lỏng lẻo, ít kết nối.
Việc phân tích chuỗi giá trị ngành nơng sản khơng chỉ giúp xác định các mắt
xích, những người tham gia nào chuỗi liên kết với nhau mà cịn giúp tìm ra nguồn
gốc của những liên kết này và liệu rằng các liên kết đó có mang lại lợi ích hay khơng.
25


×