Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CP VLXD VÀ XÂY LẮP SỐ 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.86 KB, 38 trang )

THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CP VLXD VÀ
XÂY LẮP SỐ 5
2.1 Các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật cơ bản ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của
công ty
2.1.1 Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm vật liệu xây dựng của công ty bao gồm nhiều mặt hàng: Gạch nung
tuynel, đá xây dựng, xăng dầu, than…, trong đó sản phẩm gạch nung tuynel chiếm tỷ
trọng lớn trong doanh thu (trên 80% tổng doanh thu của Công ty)
Sản phẩm gạch nung tuynel
Gạch là sản phẩm được sử dụng cho hoạt động xây dựng, hiện nay việc xây
dựng bằng gạch vẫn là xu hướng phổ biến và ít có vật liệu thay thế hoàn toàn được
vì vậy mặt hàng này vẫn là vật liệu chủ chốt. Sản phẩm này có đặc điểm là:
- Giá cả sản phẩm này ổn định, ít biến đổi. Việc tiêu thụ sản phẩm gạch phụ thuộc
vào việc tiêu thụ các mặt hàng bổ sung như thép, xi măng. Việc tiêu thụ các sản
phẩm xây dựng với khối lượng lớn, nên nếu việc tiêu thụ các sản phẩm bổ sung có
biến động tăng giảm thì dẫn đến tiêu thụ gạch cũng biến đổi theo. Nếu giá các vật
liệu xây dựng khác tăng nhanh nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình xây dựng, thi
công dẫn tới sản lượng tiêu thụ gạch cũng bị biến đổi.
- Nhu cầu của khách hàng đối với mặt hàng này thường hay thay đổi theo mùa. Do
điều kiện thời tiết khí hậu Việt Nam nên hộ gia đình thường bắt đầu xây dựng nhà
ở vào mùa khô và cuối năm. Do vậy lượng tiêu thụ cũng bị biến động theo.
Nếu xét theo chu kỳ một năm, ta có thể nhận thấy tình hình tiêu thụ của
công ty có biến động theo tháng. Thường thì trong các tháng mùa khô như tháng
3,4,5 và các tháng cuối năm có nhu cầu tăng hơn.
Hình 2.1: Biểu đồ số lượng tiêu thụ theo tháng của công ty trong giai
đoạn 2005-2008
Bảng số liệu sản lượng tiêu thụ của các tháng của công ty trong giai đoạn
năm 2005-2008 (Xem phụ lục 2)
- Sản phẩm gạch là sản phẩm lâu bền, khối lượng lớn, cồng kềnh, không tận dụng
hết diện tích tải, chi phí lưu kho nhỏ do không cần bảo quản trong kho mà có thể
để ngoài trời. Tuy chi phí vận chuyển lại lớn mà công ty lại không có hình thức hỗ


trợ tiêu thụ và hình thức vận chuyển cho khách hàng do vậy khả năng thu hút
khách hàng thấp, Khối lượng vận chuyển so với giá trị sản phẩm nhỏ do đó vận
chuyển sản phẩm ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ,
- Sản phẩm của công ty dùng trong xây dựng, tiêu chuẩn hoá về kích thước kích
thước, chỉ tiêu kỹ thuật như độ ẩm, độ cứng…đặc biệt lắp ghép với nhau, sản phẩm
sản xuất ra hỏng không có khả năng sửa chữa và tái sử dụng vì thế chi phí cho sai
hỏng cần giảm xuống mức thấp nhất. Do đó khi giao sản phẩm cho khách hàng
phải đảm bảo đúng chất lượng, đúng kỹ thuật và số lượng quy cách tránh mất thời
gian tiền bạc trong quá trình tiêu thụ
Đặc điểm sản phẩm khác như đá xây dựng, dịch vụ xây lắp và chuyển giao
công nghệ…Sản phẩm đá xây dựng được đưa vào khai thác đầu năm 2008 cũng
tương tự như gạch việc tiêu thụ sản phẩm này phụ thuộc vào một số sản phẩm bổ
sung và phụ thuộc vào tốc độ xây dựng vào thị trường. Đá xây dựng có khối lượng
lớn, không tốn nhiều chi phí sản xuất và lưu kho, lợi nhuận thu lại thấp.
2.1.2 Đặc điểm về công nghệ và quy trình sản xuất
.1.2.1 Đặc điểm về quy trình công nghệ
Công ty cổ phần vật liệu xây dựng và xây lắp số 5 có trình độ thuộc loại
trung bình, từ khi thực hiện chính sách đổi mới công ty có nhiều hoạt động đầu
tư thêm trang thiêt bị theo công nghệ mới để có thể thoả mãn nhu cầu thị
trường. Công ty đã đầu tư thêm hai dây truyền công nghệ sản xuất là nhà máy
gạch Hà Bắc với công suất 20 triệu viên và nhà máy gạch cầu Rào với công suất
25 triệu viên để cung ứng ra thị trường. Sản phẩm của công ty hiện nay được
đánh giá là sản phẩm có chất lượng uy tín trên thị trường. Trong kế hoạch dài
hạn, công ty đang có kế hoạch đổi mới công nghệ, thiết bị nhà xưởng để phục
vụ sản xuất tốt hơn.
Công ty chủ yếu sử dụng phương pháp tạo hình độ dẻo ở độ ẩm 20% phơi tự
nhiên trên sân phơi có mái che, khi sản phẩm đạt tới độ ẩm trung bình 12% sẽ đưa
sấy tuynel, ra khỏi sấy tuynel độ ẩm đạt 2-5% được chuyển sang nung tuynel. Sản
phẩm nung chín ở nhiệt độ 1010
0

C-1015
0
C và đưa đến bãi thành phẩm. Quy trình
này có ưu điểm là:
- Chất lượng sản phẩm cao, đồng đều và ổn đinh, tỷ lệ sản phẩm A/AB đạt 91-95%
trong khi lò đứng chỉ đạt 60-70%(loại A tương đương mác 75-100, loại B tương
đương với mác 60)
- Tỷ lệ phế phẩm giảm, ở lò tuynel phế phẩm ở mức 2-3% trong khi lò đứng tỷ lệ
phế phẩm 12-15%. Giảm tiêu hao nhiên liệu: lò tuynel tiêu thụ 140-150kg
than/1000 viên gạch tiêu chuẩn, lò đứng tiêu thụ tới 240-250kg than/1000 viên
gạch.
- Giảm chi phí lao động và cường độ lao động, năng suất lao động tăng, điều kiện
làm việc được cải thiện nếu chỉ kể công đoạn nung gồm: Vào lò, đốt lò, ra lò, thì lò
tuynel chỉ cần 1,2-1,5 người/1triệu viên/năm. Lò đứng cần 7 người/1 triệu
viên/năm. Ngoài ra, lò nung tuynel còn giúp đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng được
nhu cầu của thị trường, đặc biệt là các gạch có độ rỗng cao.
Công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty hiện đại hơn những lò sản xuất
thủ công,lò đứng với thiết bị đơn giản, phơi sấy tự nhiên, thiếu động bộ nung đốt
trong lò đứng chất lượng sản phẩm thấp gây lãng phí tài nguyên, biến đổi địa hình
ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. cùng công nghệ sản xuất với một số nhà máy
như nhà máy gạch vườn Chanh, nhà máy gạch Bỉm sơn, Thanh Hoá… Tuy nhiên
so với trình độ công nghệ tại địa phương hiện nay thì trình độ công nghệ của Công
ty chỉ thuộc loại trung bình. Hơn nữa, công nghệ của công ty hiện dùng để sản xuất
sản phẩm chủ yếu là gạch nung tuynel, chỉ sản xuất một số sản phẩm bình thường,
chưa có sản phẩm có công nghệ cao, sản phẩm mỏng từ đất sét.
2.1.3.1.2.2 Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty hiện nay bao gồm những máy móc thiết
bị được sử dụng từ năm 1996 trở lại đây dây truyền của Liên Xô cũ. Đối với nhà
máy gạch Tam Điệp dây truyền sản xuất kinh doanh đã được sử dụng gần 15 năm.
Nhà máy gạch Hà Bắc mới hoạt động được 5 năm. Nhà máy gạch Cầu rào mới

được xây dựng năm 2007. Sản xuất gạch theo lò nung tuynel là công nghệ hiện đại
nhất hiện nay. Tuy nhiên tình hình máy móc thiết bị của công ty mới chỉ đạt mức
trung bình so với trình độ công nghệ hiện tại.
Bảng 2.1: Bảng số lượng danh sách máy móc thiết bị nhà xưởng đang sở hữu
của công ty vật liệu xây dựng và xây lắp số 5 theo thống kê năm 2008
Tài sản cố định Đơn vị Công suất Giá trị còn lại
Nhà cửa, tài sản khác Đồng 14 912 648 749 6 989 744 499
Máy móc thiết bị Đồng 8 015 987 686 2 323 987 441
Phương tiện truyền dẫn Đồng 331 018 381 94 784 580
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2008- phòng kế toán
Tài sản cố định của công ty bao gồm nhà cửa: nhà kho 1.138 m2, nhà bao
che 9.455 m2, lò nung tuynel, hầm sấy, sân phơi 17.440m2, nhà làm việc 946m2…
Máy móc thiết bị gồm hệ thống máy móc thiết bị có công suất 80 triệu viên/năm:
bao gồm hệ thống chế biến tạo hình, thiết bị nung hầm sấy, hệ thống cấp nước
sạch…Phương tiện truyền dẫn bao gồm hệ thống điện thoại, máy fax, máy
phôttocopy, máy điều hòa…
Ta có thể thấy số lượng máy móc thiết bị sử dụng cho hoạt động gián tiếp
của công ty ít, đơn giản, giá trị nhỏ. Hiện nay, giá trị của máy móc thiết bị sử dụng
cho hoạt động bán hàng như cửa hàng phân phối sản phẩm, xe chuyên chở hàng,
máy tính phục vụ cho hoạt động bán hàng…đều không có. Cơ sở vật chất trang bị
cho tiêu thụ còn hạn chế phần nào là nguyên nhân gây ra kém hiệu quả trong tiêu
thụ sản phẩm.
2.1.3 Đặc điểm về nguồn nhân lực và cơ cấu tổ chức của công ty
Cán bộ công nhân viên là yếu tố có vai trò quan trọng đối với hoạt động
kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động tiêu thụ nói riêng. Do đó việc sử
dụng lao động cần phải có sự chú trọng hơn bao gồm cả đội ngũ quản trị, đội ngũ
bán hàng, cán bộ công nhân viên.
Bộ máy quản trị có ảnh hưởng nhiều đến việc tiêu thụ sản phẩm ví dụ như
việc đưa ra các chính sách tiêu thụ, quyết định tiêu thụ. Ban lãnh đạo của công ty
gồm những nhân viên lâu năm có nhiều kinh nghiệm trong bán hàng. Mảng kinh

doanh chính của công ty là kinh doanh vật liệu xây dựng do đó tiêu thụ sản phẩm
là một trong những quyết sách của công ty.
Về cơ cấu tổ chức của công ty bao gồm ba phòng ban: phòng kế hoạch, kỹ
thuật vật tư, phòng kế toán tài chính, phòng hành chính lao động tiền lương. Phòng
kế hoạch kỹ thuật đóng vai trò theo dõi kinh doanh và lập kế hoạch tiêu thụ từ khâu
thực hiện đến khâu thanh toán hợp đồng. PGĐ kiêm trưởng phòng thực hiện việc
chỉ đạo và theo dõi thực hiện. Phòng gồm 8 người trong đó có 5 người chuyên về
bên kỹ thuật, một trưởng phòng, người làm nhiệm vụ thanh toán hợp đồng, 2 người
chỉ đạo kỹ thuật tại các nhà máy. Như vậy việc phân công nhân lực cho bán hàng
và tiêu thụ sản phẩm ít. Do phòng ôm đồm quá nhiều việc lại bao gồm nhiều chức
năng nên việc theo dõi về số lượng khách hàng, số lượng đại lý,… chưa được thực
hiện mà chủ yếu chỉ theo dõi sản lượng bán hàng từng năm. Đội ngũ bán hàng
được chia thành nhiều đội thuộc quyền quản lý của từng nhà máy. Do đó phòng kế
hoạch thường không nắm rõ thông tin, việc theo dõi bán hàng thường chậm chễ.
Không thống nhất trong quản lý và phân chia nhiệm vụ làm cho việc tiêu thụ
không được chuyên môn hoá.
Xuất phát điểm từ một công ty nhà nước, cơ cấu các phòng ban hiện nay vẫn
còn giữ theo kết cấu cũ, chậm đổi mới, hoạt động không hiệu quả. Bộ máy quản trị
chưa có sự đổi mới tư duy chưa đưa ra được những chính sách tiêu thụ trong thời
kỳ mới, chưa mạnh dạn trong đầu tư, mở rộng thị trường, tuyển dụng lao động. Các
nhân viên không đi sâu về một mảng nên kỹ thuật không cao, hầu hết công việc ỷ
lại cho đội ngũ cán bộ quản trị có nhiều kinh nghiệm, giám đốc hay phó giám đốc
chỉ đạo trực tiếp cho nhân viên bán hàng. Do đó thông tin dễ bị chậm chễ.
Tóm lại, nhân lực của công ty thiếu nhiều, trình độ về một lĩnh vực lại
không cao nên khả năng xử lý công việc chưa tốt, hầu hết dựa vào kinh nghiệm,
quy trình xử lý cũ. Vấn đề nhân lực là vấn đề còn nhiều tồn tại mà công ty cần phải
chú trọng nhằm nâng cao hiệu quả tiêu thụ của công ty.
2.1.4 Đặc điểm về tài chính của công ty
Do đặc điểm của sản phẩm là vật liệu xây dựng một hợp đồng có khối lượng
lớn và phụ thuộc vào chu kỳ của các công trình xây dựng. Mặt khác công trình xây

dựng đều có thời gian kéo dài, chủ đầu tư rót vốn theo chu kỳ, theo tiến độ. Để có
thể bán hàng, Công ty thường phải chấp nhận thanh toán theo chế độ trả chậm hoặc
theo tiến độ rót vốn. Hậu quả là Công ty cần một lượng vốn lưu động khá lớn, phải
chấp nhận vòng quay của vốn chậm.
Bảng 2.2: Tỷ lệ các loại hình thanh toán của công ty trong giai đoạn 2004-2008
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008
Doanh thu(Tr.đồng) 20
077,5
27 183,7 32
126,1
33
703,7
63 254,9
Số tiền trả chậm(Tr.đồng) l 787,5 2 257,4 4 356,9 5 134,8 12 845,6
Tỷ lệ trả chậm/ doanh thu(%) 18,864 8,304 13,562 15,235 20,308
Nguồn: Tổng kết tình hình bán hàng qua các năm- Phòng kế toán
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tỷ lệ trả chậm của công ty liên tục biến đổi qua
các năm.Số tiền trả chậm của công ty năm 2008 chiếm khoảng dưới 20% tổng
doanh thu của cả công ty, chiến lên tới hơn 12 tỷ đồng. Việc chấp nhận hình thức
trả chậm này công ty cần phải có một lượng vốn lưu động lớn nhằm đảm bảo cho
sản xuất diễn ra một cách bình thường.Số tiền trả chậm càng lớn sẽ khiến cho việc
quay vòng vốn gặp khó khăn. Thiếu vốn cho việc mua nguyên vật liệu mới, đầu tư
xây dựng.
Sản phẩm gạch được sử dụng quanh năm nhưng lại chịu tính mùa vụ, sử
dụng nhiều vào mùa khô và cuối năm, nhu cầu sản phẩm vào thời gian này lớn.
Đối với một sản phẩm có tình mùa vụ như vậy thì việc huy động vốn trong những
lúc cao điểm để sản xuất là rất cần thiết. Công ty cần có kế hoạch sản xuất phù hợp
để có thể đáp ứng tốt những nhu cầu của khách hàng và hiệu quả hoạt động của
máy móc. Để có thể thực hiện các hợp đồng này ta cần phải có kế hoạch lưu kho,
sản xuất cho phù hợp.

2.1.5 Tác động của các yếu tố bên ngoài tới hoạt động tiêu thụ của Công ty
2.1.6.1 Khách hàng
Khách hàng tiêu thụ sản phẩm của công ty bao gồm khách hàng bên ngoài
và khách hàng nội bộ công ty.
Khách hàng bên ngoài: Khách hàng là các tổ chức, các công ty xây dựng…
xây dựng các công trình lớn, có giá trị cao ví dụ như: Công ty xây dựng Quang
Chín(Ninh Bình), Công ty TNHH Hải Hà(Ninh Bình), Xý nghiệp tư doanh xây
dựng Thống Nhất(Ninh Bình), Thép Pomihoa(Tam Điệp)... Số lượng khách hàng
này không nhiều hầu hết có quan hệ lâu dài, uy tín trong cung cấp sản phẩm.
Khách hàng này thường tạo ra giá trị lớn và tiêu thụ số lượng lớn tuy nhiên họ có
hiểu biết về sản phẩm, thông tin về thị trường đối thủ cạnh tranh, về sản phẩm cùng
loại của thị trường. Do vậy khách hàng này luôn có sự so sánh về chất lượng giá
cả, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm. Do đặc điểm của ngành xây dựng là cần đúng
thời gian, đúng địa điểm vì thế khi cung cấp sản phẩm cho đối tượng khách hàng
này cần đảm bảo đúng chỉ tiêu kỹ thuật theo hợp đồng, tạo ra sự khác biệt trong
sản phẩm và dịch vụ đối với các đối thủ cạnh tranh. Khách hàng này được coi là
khách hàng khó tính vì khi lựa chọn sản phẩm họ có sự thẩm định chặt chẽ về chất
lượng sản phẩm.
Đối tượng khách hàng này thường có độ trung thành cao vì vậy xây dựng
quan hệ với một công ty mới là khó khăn, tốn kém và mạo hiểm. Chính vì thế,
trong quá trình tiếp xúc với khách hàng cần phải chú trọng tới ấn tượng ban đầu,
đảm bảo lòng tin về sản phẩm của mình. Do vậy khi tiếp xúc với đối tượng này yêu
cầu các nhân viên bán hàng phải có trình độ hiểu biết về sản phẩm, có kỹ năng bán
hàng chuyên nghiệp, có khả năng thuyết phục khách hàng.
Đối với khách hàng là cá nhân: Khách hàng này mua chủ yếu phục vụ cho
nhu cầu xây dựng cá nhân nhằm xây dựng các công trình như nhà ở, sân, tường
bao… Những đơn hàng của khách hàng này thường có giá trị nhỏ, hợp đồng không
kéo dài. Số lượng khách hàng này nhiều nhưng giá trị lợi nhuận đem lại ít. Khách
hàng này ít quan tâm tới chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm tuy nhiên lại chịu ảnh
hưởng nhiều về giá cả. Việc thu hút khách hàng này chủ yếu do lợi thế về giá so

với đối thủ cạnh tranh.
Khách hàng nội bộ công ty: Hoạt động xây lắp hiện nay là mặt hàng thứ
hai của công ty. Tuy giá trị sản lượng xây lắp trong tổng doanh thu chiếm tỷ trọng
ít nhưng hằng năm công ty thường cung cấp vật liệu xây dựng để thực hiện các
hoạt động xây nội bộ như: Xây dựng nhà máy gạch Cầu rào, xây nhà văn hoá, xây
cầu, cống, công trình dân dụng… Vật liệu cho công trình xây dựng của mình tường
do công ty cung cấp, do là nội bộ của mình nên công ty tính chính xác được thời
điểm cần và số lượng cần cấp do đó có thể tiến hành sản xuất phù hợp với yêu cầu
của từng công trình.
Chất lượng sản phẩm
NMG Hà Bắc
NMG Vườn chanh
NMG Đại Sơn
NMG Cầu Rào
NMG Bỉm sơn
NMG Tam điệp
NMG Vicacera
Giá caoGiá thấp
Cao
Thấp
Các lò gạch thủ công
Việc xác định đối tượng khách hàng, đặc điểm khách hàng giúp công ty có
khả năng nhận điện được thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp mình. Tuy nhiên hoạt động này chưa được chú trọng trong công ty nhất là
trong công tác bán hàng. Do đó để nâng cao hiệu quả của việc bán hàng thì công ty
phải phân tích đánh giá và chú trọng đến khách hàng nhiều hơn nữa.
2.1.6.2 Bối cảnh cạnh tranh
Hiện nay ngành công nghiệp xây dựng và vật liệu xây dựng đang có sự cạnh
tranh rất gay gắt. Khối lượng xây dựng hiện nay lớn, nhu cầu về gạch xây dựng tại
địa phương cũng lớn. Ước tính với dân số hiện nay của tỉnh Ninh Bình và tốc độ

tăng trưởng kinh tế hiện tại thị trường này cần số lượng lớn gạch, tuy nhiên thì
cung tại thị trường chỉ khoảng ½ nhu cầu, phần còn lại là do các nhà máy, lò gạch
thủ công thực hiện.
Bảng 2.3: Bảng theo dõi giá bán gạch của công ty CP VLXD và xây lắp số 5 và
một số đối thủ cạnh tranh.
Đơn vị: Đồng/viên
Nhà máy Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
NMG Tam Điệp
350
400 650
NMG Cầu Rào 0 300 565
NMG Hà Bắc 335 340 644
NMG Vicracera 400 435 700
NMG Bỉm sơn 350 420 800
NMG Vườn chanh 320 380 600
Lò gạch thủ công 300 320 550
Hình 2.2: Biểu đồ hình ảnh cạnh tranh đối với công ty CPVLXD và xây lắp
số 5
Công ty hiện nay đang phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh,vừa cạnh
tranh về giá vừa cạnh tranh về chất lượng sản phẩm.(Hình 2.2)
Nhà máy gạch Vicracera: Là một trong những nhà máy gạch mới được xây
dựng, có dây truyền công nghệ cao, tiềm lực về tài chính lớn, giá sản phẩm cao
hơn hẳn so với sản phẩm của công ty. Sản phẩm của công ty này bao gồm các loại
gạch nung, gạch ốp lát, gạch mỏng…nhiều loại gạch đa dạng về chủng loại sản
phẩm, chất lượng tốt. Đây là một đối thủ mạnh nhất trên thị trường hiện nay của
công ty. Nhà máy gạch này đang chiếm khoảng 15% thị phần tỉnh Thanh hoá và
một phần nhỏ ở tỉnh Ninh Bình.
Nhà máy gạch Bỉm sơn: Là một nhà máy nằm ở giáp Ninh Bình và Thanh
Hoá, khả năng tiếp cận thị trường rất dễ dàng. Sản phẩm của công ty có chất lượng
cao, công nghệ thuộc loại trung bình so với trình độ công nghệ hiện nay. Thị

trường của nhà máy gạch này và Công ty có nhiều điểm tương đồng do đó cần phải
có thêm nhiều chiến lược khác biệt hoá để tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho công
ty.
Nhà máy gạch Vườn Chanh: Nằm ở thị xã Tam Điệp, cách nhà máy gạch
Tam Điệp khoảng 10km là công ty có thời gian hoạt động lâu, có uy tín trên thị
trường. Tuy nhiên công nghệ theo công nghệ lò đứng, hoạt động đã lâu, đã xuống
cấp. Sản phẩm thường có giá thấp hơn so với sản phẩm của công ty trên thị trường.
Các lò gạch thủ công: Hoạt động rải rác trên thị trường, khối lượng sản
phẩm sản xuất ra một lần nhỏ, tuy nhiên lại sản xuất nhiều lần. Đặc điêm của
những lò gạch này là phân bố ở nhiều nơi chủ yếu tập trung ở nơi có mỏ đất sét vì
thế khả năng tiếp cận với khách hàng dễ hơn. Mặt khác, vì không tốn nhiều chi phí
cho nhiều hoạt động quản lý và kỹ thuật, công nghệ và phương pháp sản xuất gạch
thủ công, đơn giản nên giá thành của các lò gạch này thấp.
Việc nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cho doanh nghiệp nhận
biết được những điểm mạnh, điểm yếu của họ, nhận định về cung cầu của thị
trường…để từ đó công ty có thể đưa ra một số chính sách cụ thể trong việc tiêu thụ
sản phẩm của mình.
2.1.6.3 Yếu tố đầu vào
Đầu vào là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên chất lượng sản
phẩm. Đầu vào có tốt thì chất lượng sản phẩm mới tốt được. Điều này đòi hỏi mỗi
cán bộ quản trị và cán bộ cung ứng nguyên vật liệu phải có sự kiểm tra kỹ lưỡng,
lựa chọn hợp lý những nhà cung cấp. Đầu vào ở đây không chỉ là các loại nguyên
vật liệu mà còn là cả máy móc thiết bị, lao động của công ty…Nếu yếu tố đầu vào
có sự biến đổi thì hoạt động sản xuất và tiêu thụ cũng có sự biến đổi theo.
Đặc điểm của nguyên liệu chính để sản xuất gạch (đất sét) là không thể
thay thế. Do đó ảnh hưởng từ phía nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn. Những
nguyên liệu đầu vào quan trọng khác là than đá, điện và nước. Nếu chất lượng
nguyên liệu không đảm bảo thì chất lượng sản phẩm cũng bị biến đối theo dẫn tới
hoạt động tiêu thụ có biến đổi.
Yêu cầu đối với đất sét phải đảm bảo có màu nâu, thành phần

sạn(hạt>0.1mm) chiếm khoảng 2%, độ dẻo từ 15,17 - 22,62 là thích hợp cho việc
làm gạch. Một số chỉ tiêu lý hoá trung bình của đất sét như sau:SiO
2
62,3%, Al
2
O
3
21%, Fe
2
O
3
7,3%, các nguyên tố khác như MgO, CaO đạt khoảng 4,37%.
Than cám: Công ty dùng than cám Quảng Ninh có nhiệt lượng 4900-
5300Kcal/kg. Nhà máy sẽ thực hiện phương thức mua than tại các nhà máy bằng
hợp đồng đối với các công ty chuyên doanh.
Điện: Trạm điện 630A được xây dựng trong khu vực nhà máy, nguồn điện
cung cấp từ đường dây trục 972 cách nhà máy khoảng 1,2km. Ngoài ra, Công ty
còn sử dụng một máy phát điện 125KVA để dự phòng.
Nước: Nguồn nước cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt nhờ hệ thống giếng
khoan, trạm bơm, bể chứa tại nhà máy qua hệ thống cấp nước tới các vị trí sản xuất
và sinh hoạt.
Hàng năm công ty luôn đề ra kế hoạch rất chi tiết về sản xuất và đề ra định
mức sử dụng nguyên vật liệu của mỗi nhà máy trong công ty.(Xem phụ lục 3) Bản
kế hoạch này giúp các quản đốc nhà máy quản lý tốt hơn phân xưởng của mình.
Việc xây dựng định mức là một động lực cho việc sử dụng tiết kiệm nguyên vật
liệu. Việc tiết kiệm được nguyên vật liệu liên quan trực tiếp tới quyền lợi của nhà
máy. Nhà máy tiết kiệm càng nhiều sẽ giúp cho nhà máy có nhiều thu nhập hơn,
hoạt động kinh doanh của nhà máy vượt mức của công ty đặt ra là cơ hội tăng thu
nhập cho mỗi cán bộ công nhân viên trong nhà máy.
Giá của yếu tố đầu vào cũng ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ của công ty.

Trong thời kỳ lạm phát, kinh tế khủng hoảng như hiện nay thì giá cả của các yếu tố
đầu vào cũng có sự thay đổi và biến động. Việc biến động của những yếu tố này sẽ
dẫn tăng chi phí làm cho giá thành cao hơn trước, giảm tỷ lệ tiêu thụ của sản phẩm.
Nhà cung cấp: Ngoài chất lượng và giá cả sản phẩm thì việc lựa chọn nhà
cung cấp rất quan trọng. Lựa chọn nhà cung ứng hiện nay phải lựa chọn thông qua
một số tiêu chí như giá cả, chất lượng đầu vào, thời điểm cung cấp và năng lực
cung cấp...
Đối với đất sét: Nhà cung cấp chủ yếu là công ty TNHH Bắc Giang, công ty
TNHH Thương mại Giao Huy, doanh nghiệp tư nhân Thọ Bình… Những doanh
nghiệp cung cấp đất sét này được đánh giá là có khả năng cung cấp đất sét lâu dài
từ 4-10 năm cho công ty. Hợp đồng cung cấp đất sét thông thường trên 3 nghìn m3
đất sét, đất sét dự trữ theo chu kỳ 6 tháng, chỉ khai thác vào mùa khô. Công ty
không có mỏ đất sét tại chỗ mà mua đất sét bên ngoài. Mua đất sét thường cách xa
nhà máy sản xuất khoảng 15km, và do nhiều người cung cấp. Việc này sẽ giúp
công ty không bị ép giá từ phí nhà cung cấp, tuy nhiên việc có nhiều nhà cung cấp
như hiện nay khiến công ty không chủ động trong sản xuất, phải chờ đợi nhà cung
cấp, dẫn đến sản xuất dễ bị chậm chễ. Đối với than đá được mua từ công ty than
Hà Nam Ninh vận chuyển tới cảng Ninh Phúc về các nhà máy của công ty theo
đường bộ.
Trong quá trình cung cấp phải có sự đánh giá và kiểm tra lại nhà cung cấp
xem xét về chất lượng cung cấp, thời điểm cung cấp, năng lực cung cấp…Nhà
cung cấp có đủ khả năng cung cấp đảm bảo cung cấp đúng thời điểm, đúng tiêu
chuẩn đảm bảo cho việc sản xuất diễn ra thuận lơi, không bị gián đoạn, không bỏ
lỡ nhiều hợp đồng. Quy trình lựa chọn nhà cung cấp thông qua việc tìm nhà cung
cấp, lựa chọn nhà cung cấp, đánh giá nhà cung cấp và lựa chọn nhà cung cấp. Các
công ty có nhu cầu bán đất sét, than đá…cho công ty tự liên hệ với công ty để cung
cấp đất sét, than đá với khối lượng lớn. Ngoài ra công ty cũng tự liên hệ với một số
nhà cung cấp có tiềm năng. Sau đó tiến hành đánh giá nhà cung cấp thông qua một
số chỉ tiêu kỹ thuật của đất sét, khả năng cung cấp, thời gian có thể cung cấp…sau
đó tiến hành lựa chọn những nhà cung cấp có đủ khả năng để cung cấp lâu dài.

2.1.6.4 Chính sách của nhà nước
Chính sách nhà nước trong việc mở rộng xây dựng, chính sách trong quản lý
xây dựng, các dự án đầu tư xây dựng…cũng ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp. Nếu nhà nước có ưu đãi trong việc xây dựng, có nhiều chính
sách và đầu tư thêm nhiều hạng mục tại địa phương thì việc tiêu thụ sản phẩm cũng
dễ dàng hơn.
Ngày 1/8/2001, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 115/2001/QĐ-
TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu
xây dựng Việt Nam đến năm 2010. Trong đó, có nội dung đến 2005 sẽ đình chỉ
việc xây dựng lò gạch thủ công (kể cả sửa chữa, phục hồi) và đến năm 2010 chấm
dứt hoàn toàn hoạt động của các lò gạch thủ công trên cả nước. Theo sở tài nguyên
và môi trường Ninh Bình, Ninh Bình hiện nay đang đối mặt với 304 lò gạch thủ
công còn đang hoạt động. Những lò gạch này gây ảnh hưởng nhiều tớikhông khí
khó thở, khói bụi, biến đổi địa hình đất… Chính sách này góp phần tạo giảm mức
độ cạnh tranh trên thị trường, tăng hiệu quả tiêu thụ trên thị trường và nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Gần đây UBND tỉnh có Quyết định số 610 ngày 13/4/2005 phê duyệt quyết
định điều chỉnh quy hoạch sản xuất vật liệu xây dựng giai đoạn 2005-2010, mục
tiêu đề ra là đến năm 2010 năng lực sản xuất đá xây dựng 1,5 triệu m3/năm; gạch
tuynen 260 triệu viên/năm; gạch không nung 40 triệu viên/năm, sản xuất gạch ốp
lát, trang trí các loại đạt 1.670.000 viên/năm, sản xuất bê tông xi măng đạt 65.000
m3/năm. Để đảm bảo cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng phát triển đúng
hướng, chúng tôi tiếp tục đổi mới công nghệ sản xuất, phát huy năng lực, nâng cao
chất lượng sản phẩm, đảm bảo các quy định về môi sinh, môi trường... và sản xuất
theo hướng tập trung trong các khu công nghiệp với mức độ chuyên môn hoá cao.
Các giải pháp lớn đi kèm là huy động vốn từ nhiều nguồn để đẩy nhanh tốc độ xây
dựng cơ sở hạ tầng; giữ vững và mở rộng thị trường vật liệu xây dựng; tăng cường
công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và các hoạt động khoa học
công nghệ trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. Việc làm này của tỉnh góp phần tạo
ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn cho sản phẩm của công ty. Ngoài ra chính

sách hỗ trợ sản xuất như giảm thuê thu nhập, giảm thuế giá trị gia tăng, chính
sách về mở rộng thị trường, đầu tư…cũng tạo điều kiện cho công ty giảm giá
thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả cạnh tranh.
Ngoài những chính sách góp phần thúc đẩy việc sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, công ty còn gặp một số những khó khăn từ những chính sách của nhà nước.
Bộ Tài nguyên và môi trường có quan tâm đặc biệt tới việc bảo vệ môi trường tại
tỉnh Ninh Bình, với sự hoạt động của nhiều nhà máy xi măng, nhiều lò gạch thủ
công, nhiều xí nghiệp,nhà máy chế biến nông sản…đã làm cho môi trường đất,
nước, không khí đang dần bị ô nhiễm. Bộ tài nguyên và môi trường yêu cầu đối với
các nhà máy sản xuất gạch cần có những biện pháp nhằm giảm khí thải và tiến
hành sử phạt những hành vi gây ô nhiễm môi trường- theo quyết định số
64/QĐTTg của chính phủ. Ngoài ra, theo thông tư liên bộ của bộ xây dựng và tổng
cục quản lý ruộng đất về hướng dẫn việc sản xuất gạch ngói nung nhằm bảo vệ đất
canh tác, đất nông nghiệp, sử dụng đất tận thu… Việc quy định điều này có thể gây
khó khăn cho việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công ty.
Thứ hai, hiện nay việc sản xuất gạch nung đang gây ô nhiễm môi trường, vì
thế hiện nay nhà nước đang tích cực đầu tư mở rộng cho việc sản xuất gạch không
nung, không dùng vữa chát. Theo quy hoạch tổng thể phát triển vật liêu xây dựng
Việt Nam đến năm 2020 có đề ra mục tiêu: “Về gạch đất sét nung, phát triển sản
xuất gạch nung chất lượng cao có giá trị kinh tế, đặc biệt là các loại gạch xây
không trát phục vụ xây dựng trong nước và xuất khẩu. Về vật liệu xây không nung,
tỷ lệ gạch không nung đến năm 2015 đạt 20 - 25% và năm 2020 là 30 - 40% tổng
số vật liệu xây trong nước.” Nhà nước sẽ giảm dần các dự án đầu tư xây dựng nhà
máy sản xuất gạch để đảm bảo về tài nguyên đất, góp phần vào bảo vệ môi trường.
Những điều này làm cho việc mua nguyên vật liệu trên thị trường sẽ gặp nhiều khó
khăn đòi hỏi phải có một kế hoạch cung ứng hiệu quả.
12.2 Thực trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần vật liệu xây dựng
và xây lắp số 5
1.62.2.1 Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty
.2.1.1 Tình hình số lượng tiêu thụ sản phẩm của công ty

×