Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.18 KB, 26 trang )

KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty dệt vải công nghiệp Hà
Nội.
Năm 1967 trong giai đoạn Miền Bắc đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, một nhà máy dệt chăn thuộc Liên
hiệp dệt Nam Định đã sơ tán lên Hà Nội và tạo cơ sở xản xuất chăn chiên tại xã
Vĩnh Tuy huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Bước khởi đầu này nhà máy gặp không ít khó khăn như quy trình công
nghệ thủ công lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ ngèo nàn, hơn nữa trước kia nhà
máy tận dụng nguồn nguyên liệu từ phế liệu bông sợi rối của Liên hiệp dệt
Nam Định thì bây giờ để có nguyên liệu đảm bảo tiếp tục sản xuất nhà máy
phải thu mua nguyên liệu từ nhiều nguồn khác nhau như Dệt 8-3, Dệt Kim
đông xuân…nhưng nguồn nguyên liệu này cũng được cung cấp thất thường
không đều đặn. Chính vì vậy mà trong thời gian này nhà máy liên tục làm ăn
thua lỗ và phải trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước.
Cho đến năm 1970 trong công cuộc miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, dưới sự giúp đỡ to lớn của nước bạn Trung Quốc một dây chuyền sản xuất
vải mành từ sợi bông để làm lốp xe đã được lắp đặt tại nhà máy, đến năm 1972
dây chuyền này chính thức đi vào hoạt động và sản xuất ổn định đã mở ra một
trang sử mới, một hướng đi mới đầy triển vọng cho nhà máy.
Sản phẩm của nhà máy cung cấp cho nhà máy cao su Sao Vàng để làm
lốp xe đạp và cung cấp cho một số công ty thương mại khác ở miền
Bắc. Sản phẩm này đã mang lại lợi nhuận cho nhà máy và góp phần
vào công cuộc xây dựng đất nước.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh năm 1973 nhà máy lắp thêm dây
chuyền sản xuất vải bạt để làm bạt, giầy vải… Trong cùng thời gian
này nhà máy đã chuyển giao lại dây chuyền sản xuất chăn chiên cho
Liên hiệp Dệt Nam Định sau đó đổi tên lại thành nhà máy Dệt vải
công nghiệp Hà Nội.
Với công nghệ mới và hướng đi đúng đắn đã giúp nhà máy từ chỗ làm
ăn thua lỗ, quy mô nhỏ với tổng vốn đầu tư ban đầu chỉ 475.406VNĐ


(thời giá năm 1968), số cán bộ công nhân viên chỉ 174 người trong đó
có 144 công nhân trực tiếp sản xuất, đến năm 1988 -sau hơn 10 năm
hoạt động tổng vốn đầu tư đă lên tới trên 5 tỷ VNĐ (thời giá năm
1968), tổng sản lượng đạt trên 10 tỷ VNĐ và số cán bộ công nhân viên
lên tới 1.079 người trong đó có 986 công nhân trực tiếp sản xuất. Điều
này chứng tỏ mặc dù trong cơ chế bao cấp sản xuất kinh doanh dưới
sự chỉ đạo của Nhà nước nhưng nhà máy đã không lệ thuộc mà luôn
nỗ lực phấn đấu để ngày càng phát triển.
Năm 1988 nhà máy đạt đỉnh cao về tiêu thụ sản phẩm, gồm có: 3,308
triệu m
2
vải mành và 2,8 triệu m
2
vải bạt các loại. Song song với việc
sản xuất nhà máy tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng như: văn phòng,
nhà xưởng, kho bãi, khuôn viên trong nhà máy cùng với việc không
ngừng đầu tư thêm máy móc thiết bị tạo điều kiện và môi trường làm
việc tốt hơn cho công nhân. Đây có thể coi là thời kỳ tăng trưởng của
nhà máy.
Trước thực trạng đất nước vào giữa thập kỷ 1980 đầy những khó khăn
gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý
nghĩa sống còn với nền kinh tế nước nhà. Đại hội lần thứ VI của Đảng
đã có sự đổi mới về tư duy kinh tế, cụ thể là trong chỉ thị số 10 của Bộ
Chính Trị đã nêu rõ: xoá bỏ cơ chế hành chính bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh dưới sự quản lý của Nhà nước.
Vào những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 tình hình trên thế
giới cũng hết sức phức tạp, sự khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và
nhất là sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã đã ảnh hưởng trực tiếp đến
nền chính trị và kinh tế Việt Nam, các yếu tố đầu vào bị hạn chế như

vốn, nguyên liệu…, các sản phẩm đầu ra bị thu hẹp thị trường tiêu thụ
truyền thống.
Trước những thực tế như vậy đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt
Nam không ít những cơ hội phát triển nhưng cũng đầy những khó
khăn và thử thách, nó đòi hỏi phải có sự thay đổi để thích ứng với một
thời cuộc mới.
Trong bối cảnh như vậy, để bóc tách khỏi sự bao cấp của Nhà nước, tự
chủ trong việc sản xuất và kinh doanh nhà máy đã đề ra hàng loạt các
giải pháp như: tinh giản bộ máy, tổ chức sắp xếp lại cơ cấu lao động,
thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tìm tòi áp dụng khoa học kỹ thuật,
đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị máy móc, nghiên cứu thị
trường, đa dạng hoá sản phẩm, tập chung vào những cái thị trường cần
để đáp ứng được mọi nhu cầu đa dạng của thị trường…. Bằng tất cả
những nỗ lực đó nhà máy đã hạn chế được những khó khăn và tận
dụng được những cơ hội mới để phát triển. Với cơ chế kinh tế mới nhà
máy đã dần dần khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp
công nghiệp hoá đất nước.
Ngày28 tháng 8 năm 1994 để phù hợp với việc sản xuất kinh doanh
theo cơ chế thị trường, Bộ công nghiệp đã quyết định đổi tên Nhà máy
Dệt vải công nghiệp Hà Nội thành Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà
Nội. Tên giao dịch của công ty là: HAICATEX viết tắt của: Ha noi
Intrustrial Cavas Textile Company.
Hiện nay Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội là một thành viên của
Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, vẫn thuộc loại hình Công ty Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ Luật Doanh nghiệp Nhà nước (trước
đây là Luật Công ty) và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng công ty.
Tổng công ty tạo điều kiện cho công ty mở rộng thị trường ra nước
ngoài về xuất khẩu sản phẩm và nhập khẩu nguyên vật liệu vì phần
lớn nguyên liệu của Công ty phải nhập từ nước ngoài.
Tuy vậy, Công ty vẫn hoạt động theo cơ chế hạch toán độc lập và chủ

động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình không ngừng
cải tiến về bộ máy quản lý cũng như công nghệ để nâng cao năng xuất
sản xuất và chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
Cuối những năm 1990 mặt hàng vải bạt của Công ty đã bước vào giai
đoạn suy thoái và vải mành phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm
ngoại nhập cả về chất lượng và giá cả. Đứng trước thực trạng đó vào
đầu những năm 2000, Công ty đã nghiên cứu và mạnh dạn đầu tư,
thay thế hàng loạt các máy móc thiết bị mới. Cụ thể năm 2002 đã có
ba dự án đi vào hoạt động:
-Tháng 1/2002 đầu cuộn vải của dây chuyền nhúng keo được thay thế
với tổng mức đầu tư trên 2 tỷ đồng và kết quả là chấm dứt được lỗi
ngoại quan của vải mành nhúng keo như lồi, lõm bề mặt nhũn xốp,
mặt bên không phẳng, giảm 99% lỗi loại B&C….
- Tháng 9/2002 Công ty đầu tư thêm hai máy xe ALLMASAURER
của Cộng hoà liên bang Đức và một máy dệt mành PICANOL của Bỉ
vào sản xuất với tổng vốn đầu tư 21.970.494.400 VNĐ. Dây chuyền
này có năng suất tăng gấp từ 5 đến 7 lần so với dây chuyền cũ.
- Và đặc biệt phải kể đến là dây chuyền sản xuất vải không dệt lần
đầu tiên có mặt tại Việt Nam, dây chuyền này được khởi công lắp đặt
vào tháng 11/2001 và đến tháng 10/2002 được đưa vào sản xuất để kỷ
niệm ngày Giải phóng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư cho dây chuyền này
lên tới 63.622.939.000VNĐ. Đây là dây chuyền khá hiện đại có mặt
lần đầu tiên tại Việt Nam với quy trình sản xuất hoàn toàn tự động.
Vải không dệt được sử dụng cho các ngành công nghiệp, giao thông,
thuỷ lợi, đồ gia dụng (như làm thảm)….
Mặc dù mới đi vào sản xuất được hơn một năm nhưng sản phẩm Vải
không dệt đã trở thành ngành hàng chủ lực của Công ty. Quý IV/2002-
412.342 m
2

thành phẩm đã được tiêu thụ và đem lại doanh thu là 2.908
triệu đồng, năm 2003 tiêu thụ được 4.960.000 m
2
tương ứng với
26.181 triệu đồng. Tuy nhiên đây là sản phẩm lần đầu tiên được sản
xuất trong nước, nguyên liệu hoàn toàn nhập ngoại nên cũng còn rất
nhiều khó khăn trước mắt đòi hỏi Công ty phải có một chiến lược phù
hợp để tìm được chỗ đứng trên thị trường…
Năm 2004 dự tính Công ty sẽ đầu tư thêm 4 máy dệt mành của Trung
Quốc và thay thế bộ chỉnh tâm, miệng hút keo của máy nhúng keo…
Sau gần 40 năm hình thành và phát triển Công ty Dệt vải Công nghiệp
đă từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường cũng như
trong công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công ty đã
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành để thay thế
hàng ngoại nhập và ngày càng vươn xa hơn nữa ra thị trường khu vực
và thế giới. Bên cạnh đó công tác tổ chức luôn được đặc biệt quan tâm
nhằm tạo lập tác phong công nghiệp cho người lao động hoàn thiện bộ
máy quản lý gọn nhẹ cơ cấu sản xuất kinh doanh năng động, hiệu quả
thích ứng cao hơn trong cơ chế thị trường. Năm 2002 Công ty đã áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000.
Vượt qua hàng ngàn những khó khăn và thử thách từ một nhà máy sản
xuất lạc hậu với quy mô nhỏ tới nay sau gần 40 năm trưởng thành
Công ty đã có 9 chi nhánh giới thiệu sản phẩm trải rộng khắp ba miền
đất nước. Công ty cũng đã hai lần nhận được huân chương lao động
hạng II và hạng III của Nhà nước trao tặng cùng nhiều danh hiệu cao
quý tại các hội chợ, triển lãm trong nước. Hàng năm công ty đã tạo
công ăn việc làm cho rất nhiều lao động dư thừa góp phần vào việc ổn
định trật tự xã hội ....
Hiện nay Công ty gồm 4 xí nghiệp:
• Xí nghiệp sản xuất vải bạt.

• Xí nghiệp sản xuất vải mành.
• Xí nghiệp sản xuất vải không dệt.
• Xí nghiệp may.
(Như đã nói ở trên sản phẩm vải bạt đã bước vào giai đoạn suy thoái
nên sớm muộn nó sẽ được thay thế bằng một mặt hàng khác)
Tổng số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 782 người (tính đến
hết 31/12/2003) trong đó có 672 công nhân sản xuất. Lao động của
công ty đa phần là lao động nữ chiếm khoảng 75%. Trình độ của
người lao động được Công ty rất chú trọng: Trình độ ĐH và trên ĐH
chiếm 6,5%; THCN& CĐ chiếm:6.79%; thợ bậc 6+7là:11,69%; thợ
bậc 5 là:20,69%; thợ bậc 3+4là :17,29%. Tuy nhiên tỷ lệ này chưa
cao, Công ty cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Đời sống
vật chất cũng như tinh thần của người lao động ngày càng được quan
tâm …
Thành công của Haicatex đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp phát
triển của ngành dệt may Việt Nam và trong sự nghiệp xây dựng đất
nước.
II. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của HAICATEX :
1-Nhiệm vụ sản xuất sản phẩm của Công ty:
Công ty chuyên sản xuất các loại vải công nghiệp phục vụ cho các
ngành công nghiệp khác như giao thông, thuỷ lợi, sản xuất đồ dân
dụng….Tuỳ vào tính năng của mỗi loại mà nó đáp ứng cho mỗi ngành
nghề khác nhau. Công ty sản xuất 4 loại sản phẩm:
• Vải Mành :Vải mành được sản xuất để cung cấp cho
ngành công nghiệp làm lốp ô tô, xe máy, xe đạp…Sản
phẩm của Công ty được tiêu thụ bởi Công ty Cao su
SaoVàng, Công ty Cao su Đà Nẵng…
• Vải Bạt : Sản phẩm này được sử dụng làm bạt, bao tải
hàng nhẹ, làm giầy vải trong quân đội, găng tay, quần
áo bảo hộ lao động…

• Vải Không Dệt: gồm Vải địa kỹ thuật và Vải lót giầy –
Vải địa kỹ thuật được sử dụng để làm đường chống lún,
đê kè thuỷ lợi…
--Vải lót giầy được cung cấp cho nhà sản xuất giầy,
làm thảm, lót thành ô tô,…
• Sản phẩm May: Ngoài các sản phẩm may mặc thông
thường Công ty thường xuyên nhận các hợp đồng may
quần áo bảo hộ cho các Công ty lớn như Dệt 8/3,
Honda, Lilama…, hợp đồng may áo Jaket cho Hàn
Quốc, Anh…Trong những năm gần đây sản phẩm của
Công ty đã xâm nhập vào thị trường Mỹ và EU với
kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.
Các sản phẩm của công ty được sản xuất chủ yếu từ sợi Nylon6.6.6,
PA (sản xuất vải mành), xơ PES, PP (sản xuất vải không dệt),sợi
Cotton,PC, PE (sản xuất vải bạt)…Các loại sợi này được nhập từ Đài
Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…….
Sử dụng nhiên liệu là điện và than.
Hoá chất nhúng keo là VP latex, SBR latex và Resorcinol.
Hiện là công ty duy nhất tại Việt Nam sản xuất các loại vải công
nghiệp nên chiếm khá nhiều ưu thế kinh doanh. Tuy nhiên sản phẩm
của công ty vẫn bị canh tranh bởi một số hàng ngoại nhập cả về giá
cả và chất lượng, một phần do máy móc thiết bị của ta chưa sánh kịp
một phần do nguyên vật liệu của ta phải nhập từ nước ngoài nên giá
cả sản phẩm còn cao.Trong thời gian tới công ty sẽ gặp không ít khó
khăn khi Hiệp định cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA được áp dụng
vào năm 2006 đối với các nước ASEAN khi đó thuế nhập khẩu giảm
xuống chỉ còn 0-5% và tiến tới Việt Nam ra nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) vào năm 2005 sẽ mở ra không ít cơ hội nhưng
cũng đầy khó khăn và thách thức.
Cùng với việc cố gắng hoàn thành tốt các mục tiêu sản xuất kinh

doanh của mình công ty cũng cố gắng hoàn thành tốt nhịệm vụ của
mình đối với nhà nước, dưới đây là tình hình thực hiện nghĩa đóng
góp vào Ngân sách nhà nước(NSNN) của công ty trong ba năm gần
đây:
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 02/01(%) 03/02(%)
Nộp NSNN(tr.đ) 11.715 12.89 23.8465 110.03 185
Nhìn bảng trên ta thấy chỉ tiêu nộp NSNN của công ty tăng khá cao trong mấy năm vừa qua, nó
thể hiện sự lỗ lực không ngừng của công ty.
2- Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty:
Haicatex bao gồm 4 xí nghiệp thành viên:
1. Xí nghiệp Bạt
2. Xí nghiệp Mành
3. Xí nghiệp Vải Không Dệt
4. Xí nghiệp May
Tương ứng sản xuất 4 loại sản phẩm mỗi sản phẩm có một quy trình
sản xuất khác nhau, công nghệ sản xuất độc lập, mức độ phức tạp của
mỗi quy trình phụ thuộc vào yêu cầu sản xuất của từng loại sản
phẩm.
* Quy trình sản xuất Vải Mành Nhúng Keo: Với nguyên liệu từ sợi
PA, Nylon6.6.6 (hiện nay vẫn phải nhập từ nước ngoài) trải qua ba
công sản xuất chính: xe, dệt , nhúng keo ta có thành phẩm là: Vải
mành 840D/1; 840D/2; 1260D/2 được sử dụng để làm lốp ô tô, xe
máy, xe đạp…
* Quy tình sản xuất vải không dệt: Vải không dệt được sản xuất từ sơ
PES, PP nhập từ nước ngoài với các sản phẩm HD130, HD180,
HD200,... được sử dụng trong giao thông, thuỷ lợi, đồ gia dụng,...
Sản phẩm được sản xuất trên dây chuyền thiết bị hiện đại, tự động
hoá từ khâu nguyên liệu đến khâu thành phẩm cuối cùng dây
chuyền này được chuyển giao từ tập đoàn DILO-CHLB Đức( tập
đoàn nổi tiếng trong lĩnh vực sản xuất vải không dệt theo công

nghệ xuyên kim. Với công suất đạt khoảng 10.000.000 m
2
/năm
sản phẩm của dây chuyền này đang là một trong các ngành hàng
chủ lực của công ty. Sản phẩm này đã có mặt ở một số công trình
tiêu biểu như: Đường Cầu Rào -Đồ Sơn, Hải Phòng, Quảng Ninh,
Tp. Hồ Chí Minh....
* Quy trình sản xuất vải bạt: Vải bạt được sử dụng làm giầy vải, bao
tải, bảo hộ,... đượoc chế xuất từ sợi cotton, PC, PE sản phẩm có các
loại vải Bạt3x3, Bạt 178, Bạt 3419. Hiện nay quy mô của dây
chuyền này đang được công ty thu nhỏ lại vì chu kỳ sống của sản
phẩm này đã bước vào giai đoạn suy thoái.
* Quy trình sản xuất sản phẩm may: Đây là ngành hàng còn non trẻ,
thiếu kinh nghiệm, không đồng bộ nên quy mô còn nhỏ chưa cạnh
tranh đưowcj với thị trường trong nươc . Tuy nhiên trong hai năm
vừa qua sản phẩm của công ty đã xuất khẩu sang thị trường Mỹ và
Châu Âu với tổng sản lượng tăng đáng kể cụ thể năm 2003 tăng
210% so với 20002 và dự kiến năm 2004 sẽ tăng 130% so với
2003.
Các quy trình sản xuất được mô tả như sau:
Sợi dọc
Xe lần 1
Sợi đơn
Xe lần 2
Sợi đơn
Sợi ngang
Kiểm tra
Nhập kho
Xe suốt
Kiểm tra

Kiểm tra vải
Dệt vải mành
Sâu go
Nhúng keo
Đóng gói, nhập kho thành phẩm
Chỉnh sửa
Chỉnh sửa
Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất Vải Mành Nhúng Keo
Lỗi
Đạt

Đạt Lỗi


Đạt

Đạt
Lỗi

×