Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận môn công chứng viên và nghề công chứng quy trình chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký do công chứng viên theo quy định của pháp luật việt nam đề xuất hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.23 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
-------------------

BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN II
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG
Chuyên đề: Quy trình chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký do
công chứng viên theo quy định của pháp luật Việt Nam - đề xuất hướng
hoàn thiện.

Họ và tên: Nguyễn Văn Trung.
Sinh ngày: 22 tháng 9 năm 1991.
Số báo danh: 254.
Lớp: Công chứng, khóa 23A (Buổi tối).

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 9 năm 2020.


MỤC LỤC

I.

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cưu và phương pháp nghiên cứu.
5. Bố cục của bài báo cáo.

AI.


Phần nội dung
Chương 1. Lý luận chung về chứng thực bản sao và chứng
thực chữ ký
1.1. Lý luận chung về chứng thực bản sao từ bản chính.
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến công tác chứng thực bản
sao từ bản chính.
1.1.2. Các loại giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để
chứng thực bản sao.
1.2. Lý luận chung về chứng thực chữ ký.
1.2.1. Khái niệm về chứng thực chữ ký.
1.2.2. Trường hợp không được chứng thực chữ ký.
1.3. Quy trình chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký.
1.3.1. Quy trình chứng thực bản sao.
1.3.2. Quy trình chứng thực chữ ký.


Chương 2. Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân, giải pháp hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về chứng thực bản sao và chứng
thực chữ ký
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chứng thực bản sao và
chứng thực chữ ký
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chứng thực bản sao
từ bản chính.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chứng thực chữ ký.
2.2. Nguyên nhân, giải pháp và hướng hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực
chữ ký.
2.2.1. Nguyên nhân tồn tại bất cập trong công tác chứng thực
bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký.
2.2.2. Giải pháp và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về

chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký.
BI.

Phần kết luận

IV.

Danh mục tài liệu tham khảo

V.

Phụ lục


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Nếu như công chứng là việc của Công chứng viên của một tổ chứng
hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp và không trái
đạo đức xã hội của bản dịch mà theo quy định của pháp luật phải công chứng
hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng 1. Bên cạnh lĩnh vực
công chứng, công tác chứng thực cũng là một lĩnh vực quan trọng không kém
cạnh. Minh chứng trong vài năm trở lại đây, nhu cầu về chứng thực bản sao,
chứng thực chữ ký của người dân là rất lớn.
Nhận thấy được tầm quan trọng của công tác chứng thực, cũng như

đảm bảo công tác chứng thực được vận hành theo khuôn khổ, ngày 18 tháng 5
năm 2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao
từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký đã có những
đóng góp to lớn trong việc đáp ứng yêu cầu chứng thực của nhân dân. Tuy
nhiên, Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ sau khoảng thời gian triển
khai thực hiện vẫn bộc lộ khá nhiều hạn chế, cũng như chưa đủ sức đáp ứng
kip thời nhu cầu chứng thực của người dân khi chỉ quy định về thẩm quyền
chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký của Phòng Tư pháp cấp Huyện, Ủy
ban nhân dân cấp xã và Cơ quan quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài2.
Để góp phần đáp ứng nhu cầu chứng thực bản sao và chứng thực chữ
ký của người dân, cũng như giảm tải áp lực của cơ quan nhà nước trong công
tác chứng thực, ngày 16 tháng 02 năm 2015, Chính phủ tiếp tục ban hành
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch thay thế
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ. Nghị định số 23/2015/NĐ-CP
của Chính phủ là một bước tiến trong công tác chứng thực khi mạnh dạn trao
thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực cho các Công chứng viên tại các Tổ
1Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014.
2Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ.


2

chức hành nghề công chứng3. Tuy nhiên, bên cạnh các mặt giải quyết được thì
sau gần 05 năm triển khai thực hiện trên thực tế Nghị định số 23/2015/NĐ-CP
ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ vẫn tồn tại một số hạn chế nhất
định.
Bản thân nhận thức được tầm quan trọng của của công tác chứng thực
trong xã hội hiện tại, cũng như nhằm phân tích các căn cứ pháp lý trong quy
trình chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, tôi quyết định bắt

tay nghiên cứu và viết báo cáo với nội dung chuyên đề “Quy trình chứng thực
bản sao, chứng thực chữ ký do công chứng viên theo quy định của pháp luật
Việt Nam - đề xuất hướng hoàn thiện”.
2.

Mục đích nghiên cứu

Bài cáo cáo sẽ được tác giả phân tích với mục đích vạch ra các quy định
pháp luật Việt Nam về công tác chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký.
Mục tiêu tiếp theo mà bài báo cáo hướng đến chính là phân tích thực
trạng áp dụng pháp luật đối với công tác chứng thực bản sao, chứng thực chữ
ký, xác định nguyên nhân tồn tại từ đó làm cơ sở đề xuất hướng hoàn thiện
pháp luật đối với công tác chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký.
3.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài báo cáo sẽ tập trung phân tích đối tượng là quy trình chứng thực
bản sao và chứng thực chữ ký theo quy định pháp luật Việt Nam. Thực tiễn áp
dụng pháp luật cũng như những tồn tại hạn chế và hướng hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về công tác chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký.
4.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề

tài
Đề tài báo cáo sẽ được tác giả phân tích quy trình chứng thực bản sao,
chứng thực chữ ký do Công chứng viên thực hiện được giới hạn bởi những
quy định của pháp luật Việt Nam, thực tiễn áp dụng, nguyên nhân và giải
pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

3Điều 5 Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ.


3

Đề tài báo cáo trước hết sẽ được tác giả sử dụng biện pháp phân tích quy
định pháp luật Việt Nam. Sau đó bằng các phương pháp như tổng hợp, so
sánh, đối chiếu tác giả sẽ làm rõ những nội dung mà bài báo cáo cần phân
tích.
5. Bố cục của bài báo cáo
Bài báo cáo học phần công chứng hai với đề tài: “Quy trình chứng
thực bản sao, chứng thực chữ ký do công chứng viên theo quy định của pháp
luật Việt Nam - đề xuất hướng hoàn thiện” bao gồm phần mở đầu, nội dung,
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung được bố cục thành
hai chương và có kết luận của từng chương.
 Chương 1. Lý luận chung về chứng thực bản sao và chứng thực chữ

ký.
 Chương 2. Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân, giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam

về chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký.


4

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG THỰC BẢN SAO
VÀ CHỨNG THỰC CHỮ KÝ
1.1. Lý luận chung về chứng thực bản sao từ bản chính
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến công tác chứng thực bản sao từ
bản chính

 Khái niệm về chứng thực
Nhìn từ lịch sử về quy định về công tác công chứng thì chỉ có Nghị
định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ là có định
nghĩa về thuật ngữ chứng thực là, theo đó chứng thực được hiểu là “việc của
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao
dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các
giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” 4. Tuy nhiên, đối chiếu các
quy định pháp luật hiện hành thì chưa có văn bản nào quy định cụ thể về thuật
ngữ chứng thực. Tuy nhiên, nếu đối chiếu theo quy định tại Nghị định số
23/2015/NĐ-CP của Chính phủ có quy định về các thuật ngữ về “chứng thực
bản sao từ bản chính”, “ chứng thực chữ ký”, “ chứng thực hợp đồng giao
dịch”.
Như vậy, thuật ngữ “Chứng thực” có thể được hiểu là một hoạt động
của cơ quan, tổ chức được pháp luật trao quyền thực hiện nhiệm vụ để chứng
nhận tính xác thực của một loại văn bản, giấy tờ là đúng với bản chính, chữ
ký của người ký trong văn bản, giấy tờ hoặc chứng nhận tính xác thực về thời
gian, địa điểm giao kết hợp đồng, năng lực hành vi dân sự, ý chí…của các bên
tham gia hợp đồng giao dịch.
 Khái niệm về chứng thực bản sao từ bản chính
Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP
ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ, có quy định: “Chứng thực bản
sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định tại
Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản
4Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ.


5

chính”. Muốn hiểu được khái niệm này, chúng ta phải làm rõ thuật ngữ “bản
sao” và “ bản chính”. Theo đó, bản sao được hiểu là “bản chụp từ bản chính

hoặc bản đánh máy có nội dung đầy đủ, chính xác như nội dung ghi trong sổ
gốc”5. Như vậy, theo quy định kể trên thì bản sao được khái niệm theo hình
thức liệt kê, cụ thể gồm hai loại: bản sao là bản được chụp từ bản chính hoặc
là bản được đánh máy một cách chính xác và đầy đủ từ sổ gốc. Bản chính
được hiểu là “những giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp
lần đầu, cấp lại, cấp khi đăng ký lại; những giấy tờ, văn bản do cá nhân tự
lập có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”6. Như vậy,
để được xem là bản chính trước phải được thể hiện bằng hình thức là giấy tờ,
văn bản, thứ hai giấy tờ văn bản này phải do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
cấp hoặc do cá nhân tự lập và có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền.
1.1.2. Các loại giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để chứng
thực bản sao
Như đã phân tích về thuật ngữ chứng thực bản sao từ bản chính tại
Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ thì bản chính các loại văn bản, giấy tờ là cơ sở để cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính. Tuy
nhiên, không phải bất kỳ bản chính của các loại văn bản, giấy tờ nào cũng làm
cơ sở để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện việc chứng thực bản sao.
Theo đó, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2015 của
Chính phủ có quy định một số loại giấy tờ, văn bản không được làm cơ sở để
chứng thực bản sao. Cụ thể như sau:
-Thứ nhất, bản chính bị tẩy xóa, sữa chữa, thêm, bớt nội dung không
hợp lệ. Về nguyên tắc bản chính là những loại giấy tờ, văn bản cho cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền cấp hoặc là các giấy tờ, văn bản do cá nhân lập nhưng
có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Như vậy, các loại văn bản,
5Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.
6Khoản 5 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.



6

giấy tờ được xem là bản chính thì tất yếu văn bản, giấy tờ đó đã được cơ
quan, tổ chức kiểm duyệt, xác nhận từ hình thức đến nội dung của văn bản,
việc sữa chữa, tẩy xóa, thêm, bớt nội dung khác phải được thực hiện theo
đúng trình tự và có xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, việc tự ý
sữa chữa, tầy xóa, thêm bớt một cách tùy tiện thì các giấy tờ, văn bản đó
không còn đúng bản chất của bản chính. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc các
loại văn bản, giấy tờ này không đủ cơ sở để các cơ quan, tổ chức thực hiện
sao y bản chính.
-

Thứ hai, bản chính bị hư hỏng, cũ nát, không xác định được nội dung.

Về nguyên tắc “Người yêu cầu chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung,
tính hợp pháp, hợp lệ của giấy tờ, văn bản mà mình yêu cầu chứng thực…”7.
Việc yêu cầu chứng thực đối với bản chính các loại văn bản, giấy tờ hư hỏng,
cũ nát, không xác định được nội dung thì không thể hiện được mục đích của
việc chứng thực bản sao từ bản chính, do đó chúng không thể trở thành đối
tượng làm căn cứ chứng thực bản sao. Tuy nhiên, trong trường hợp này Nghị
định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ chỉ dừng lại


mức định tính, nghĩa là việc xác định như thế nào là hư hỏng, củ nát, không
xác định nội dung sẽ phụ thuộc phần nhiều vào đánh giá chủ quan của người
chứng thực.

-

Thứ ba, bản chính đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức của cơ quan có thẩm

quyền hoặc không có dấu mật nhưng ghi rõ không được sao chụp. Gía
trị pháp lý của bản sao được chứng thực từ bản chính “…có giá trị sử dụng
thay cho bản chính…”8. Như vậy, bản chất của bản sao là việc nhân bản một
cách chính xác bản chính và được dùng thay cho bản chính trong một số
trường hợp cụ thể, tuy nhiên điều này lại hoàn toàn trái ngược với bản chất
của văn bản mật. Theo đó, văn bản mật được phân loại theo từng lĩnh vực9 và

7Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.
8Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.
9Điều 7 Luật Bảo vệ Bí mật Nhà nước năm 2018.


7

được phân loại theo các chế độ “Tuyệt mật, tối mật và mật” 10. Do tính chất
của văn bản mật nên chúng được quản lý rất chặt chẽ, chỉ có cơ quan, đơn vị
mà pháp luật cho phép tiếp cận mới có quyền sử dụng. Do đó, chúng không
được tùy tiện sử dụng một cách rộng rãi như các văn bản, giấy tờ khác, vậy
nên các văn bản mật và văn bản không được sao chụp không thuộc đối tượng
được dùng làm căn cứ để sao y bản chính.
Thứ tư, bản chính có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên
truyền, kích động, chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân.
Thứ năm, bản chính do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài
cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy
định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này. Tuy nhiên, có một số loại văn
bản, giấy tờ do cơ quan nước ngoài cấp như: “hộ chiếu, thẻ căn cước, thẻ
thường trú, thẻ cư trú, giấy phép lái xe, bằng tốt nghiệp, chứng chỉ và bảng
điểm kèm theo bằng tốt nghiệp, chứng chỉ thì không cần phải hợp pháp hóa

lãnh sự khi chứng thực bản sao từ bản chính…”11.
-

Thứ sáu, giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập nhưng không có xác nhận và đóng
dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Về nội dung này hoàn toàn phù hợp
với bản chất của định nghĩa về bản chính được quy định tại Khoản 5 Điều 2
của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.
Do đó, các giấy tờ này không được xem là bản chính để làm cơ sở chứng thực
bản sao theo quy định.
1.2. Lý luận về chứng thực chữ ký
1.2.1. Khái niệm về chứng thực chữ ký
Căn cứ tại khoản 3 Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng
02 năm 2015 của Chính phủ quy định về thuật ngữ chứng thực chữ ký, cụ thể
như sau: “Chứng thực chữ ký là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo
quy
10

Điều 8 Luật Bào vệ Bí mật Nhà nước năm 2018.

11

Điều 6 Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03 tháng 3 năm 2020 của Bộ Tư pháp.


8

định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ ký
của người yêu cầu chứng thực”.
Như vậy, theo quy định kể trên thì chứng thực chữ ký là việc cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền chứng nhận và xác thực “chữ ký” của người yêu cầu

chứng thực trên các văn bản, giấy tờ mà họ đề nghị.
1.2.2. Trường hợp không được chứng thực chữ ký
Về nguyên tắc, khi người yêu cầu chứng thực có nhu cầu chứng thực
chữ ký thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải thực hiện trách nhiệm chứng
thực chữ ký của người yêu cầu chứng thực, tuy nhiên, quy định pháp luật
cũng dự liệu các trường hợp sau đây không được chứng thực chữ ký:
Thứ nhất, tại thời điểm chứng thực, người yêu cầu chứng thực chữ ký
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Trường hợp này, xét về
năng lực hành vi dân sự của chủ thể có yêu cầu là chưa đầy đủ theo quy định
pháp luật về dân sự, trong khi đó nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực chữ
ký là họ “…phải chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản mà mình
yêu cầu chứng thực chữ ký…”12. Do đó, tại thời điểm chứng thực người yêu
cầu chứng thực không nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì tất nhiên
họ cũng không thể tự mình chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản
mà họ yêu cầu chứng thực.
Thứ hai, người yêu cầu chứng thực chữ ký xuất trình giấy chứng minh
nhân dân hoặc hộ chiếu không còn giá trị sử dụng hoặc giả mạo. Xét về bản
chất của chứng thực chữ ký là việc chứng nhận tính xác thực chữ ký của
người yêu cầu trong văn bản, giấy tờ, theo đó căn cứ để xác định tư cách chủ
thể của gười yêu cầu chính là giấy tờ tùy thân. Việc người yêu cầu chứng thực
xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể của mình không còn giá trị sử
dụng hoặc giả mạo sẽ không phản ánh được bản chất và mục đích mà việc
chứng thực chữ ký muốn đạt đến.
Thứ ba, giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực chữ ký vào có
nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 22 của Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày
16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.
12

Khoản 1 Điều 23 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.



9

Thứ tư, văn bản có nội dung là hợp đồng, giao dịch trừ các trường hợp
quy định tại điểm d khoản 4 Điều 24 Nghị định này hoặc trường hợp pháp luật
có quy định khác. Hợp đồng, giao dịch là một phạm trù khác và việc chứng
thực hợp đồng, giao dịch được Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02
năm 2015 của Chính phủ điều chỉnh tại một quy định riêng biệt.
1.3. Quy trình chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký
1.3.1. Quy trình chứng thực bản sao
Nhằm đảm bảo công tác chứng thực bản sao từ bản chính được thống
nhất, tuân thủ theo một trình tự, thủ tục nhất định, Nghị định 23/2015/NĐ-CP
ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định thủ tục chứng thực bản
sao từ bản chính tại Điều 20, có thể tóm lược thành các bước như sau:
-

Bước 1: người yêu cầu chứng thực xuất trình bản chính giấy tờ văn bản làm
căn cứ chứng thực và bản sao cần chứng thực. Trường hợp người yêu cầu
chứng thực chỉ xuất trình bản chính thì cơ quan, tổ chức tiến hành chụp bản
chính để thực hiện chứng thực, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức không có
phương tiện để chụp.

-

Bước 2: Người thực hiện chứng thực kiểm tra bản chính, đối chiếu với bản
sao.
- Bước 3: Ghi đầy đủ lời chứng theo mẫu.

-


Bước 4: Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính.
- Bước 5: Ghi vào sổ chứng thực và trả hồ sơ chứng thực cho người yêu
cầu.
Riêng đối với thủ tục chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn
bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của nước ngoài;cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam
liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng
nhận trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh được Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh cụ thể hóa bằng quy trình 03 ban hành kèm theo
Quyết định số 860/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3 năm 202013. Theo đó, Quy

13 Đính kèm Quy trình 03 ban hành kèm theo Quyết định số 860/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3 năm 2020 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố.


10

trình 03 quy định rất rõ các nội dung từ thành phần hồ sơ; nơi tiếp nhận, trả
kết quả, thời gian và phí; quy định từng trình tự xử lý công việc và các biểu
mẫu áp dụng trong quá trình chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn
bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của nước ngoài; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam
liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng
nhận trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính, người yêu
cầu chứng thực và người chứng thực phải lưu ý một số nội dung sau:
-

Thứ nhất, về thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính. Theo quy định

tại Điều 5 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ quy định thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực bản sao từ
bản chính bao gồm: Phòng Tư pháp cấp huyện; Ủy ban nhân dân cấp xã; Cơ
quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và Công chứng viên tổ chức hành
nghề công chứng. Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ là một bước tiến trong quy định về công tác chứng thực, theo
đó quy định thêm trách nhiệm chứng thực bản sao từ bản chính cho các
Công chứng viên của các tổ chức hành nghề công chứng. Điều này phần nào
san sẽ áp lực cho cơ quan nhà nước, mặt khác là nhằm thực hiện chủ trương
xã hội hóa trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp cho các tồ chức xã hội thực hiện
cho phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.

-

Thứ hai, về địa điểm chứng thực. Tại Điều 10 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP
ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ có quy định: “Việc chứng thực
được thực hiện tại trụ sở cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng thực…”.

-

Thứ ba, về trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực và người chứng thực.
Theo đó, “người yêu cầu chứng thực có trách nhiệm về nội dung, tính
hợp pháp, hợp lệ của bản chính giấy tờ, văn bản dùng làm cơ sở để chứng
thực bản sao”14. Đối với người có thẩm quyền chứng thực “phải chịu trách

14

Khoản 1 Điều 19 Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.



11

nhiệm về tính chính xác của bản sao đúng với bản chính” 15. Người yêu cầu
chứng thực và người thực hiên chứng thực cần nắm rõ trách nhiệm của mình
trong quá trình thực hiện quy trình chứng thực bản sao từ bản chính, đó cũng
là cơ sở phân định trách nhiệm pháp lý trong trường hợp có phát sinh rủi ro về
sau.
1.3.2. Quy trình chứng thực chữ ký
Cũng giống như chứng thực bản sao từ bản chính, Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ cũng quy định
trình tự, thủ tục chứng thực chữ ký theo Điều 24, có thể tóm lược thông qua
các bước cụ thể như sau:
-

-

Bước 1: Người yêu cầu chứng thực chữ ký của mình xuất trình các giấy tờ
gồm bản chính hoặc bản sao giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn
giá trị sử dụng và giấy tờ, văn bản mà mình sẽ ký.
- Bước 2: Người thực hiện chứng thực kiểm tra giấy tờ yêu cầu chứng
thực.
Bước 3: Người yêu cầu chứng thực ký trước mặt người thực hiện chứng thực
và người ghi đầy đủ lời chứng theo mẫu, ký ghi rõ họ tên, đóng dấu của cơ
quan, tổ chức thực hiện chứng thực và ghi vào sổ chứng thực (đối với trường
hợp ký tại bộ phận tiếp nhân và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên
thông thì công chức tiếp nhận kiểm tra giấy tờ, đề nghị người yêu cầu chứng
thực ký vào giấy tờ cần chứng thực và chuyển cho người có thẩm quyền ký
chứng thực).
Riêng tại đại bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với thủ tục chứng thực
chữ ký trong các giấy tờ, văn bản được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố

Hồ Chí Minh chuẩn hóa theo Quy trình số 04 ban hành kèm theo Quyết định
số 860/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3 năm 2020. Cụ thể Quy trình thể hiện đầy
đủ các nội dung như: thành phần hồ sơ cần chứng thực chữ ký; nơi tiếp nhận,
trả kết quả, thồi gian và phí; trình tự xử lý công việc và các biểu mẫu kèm
theo trong thủ tục chứng thực chữ ký16.
15

Khoản 1 Điều 19 Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.

16 Đính kèm Quy trình 04 ban hành kèm theo Quyết định số 860/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3 năm 2020 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.


12

Đối với quy trình chứng thực chữ ký, người yêu cầu chứng thực và
người thực hiện chứng thực cần lưu ý một số nội dung sau để công tác chứng
thực chữ ký được thực hiện đảm bảo theo quy định, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về thẩm quyền chứng thực chữ ký. Theo quy định tại Điều 5 Nghị
định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định
thẩm quyền chứng thực chữ ký bao gồm: Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân
cấp xã; Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và Công chứng viên tổ chức
hành nghề công chứng. Việc chứng thực chữ ký không phụ thuộc vào nơi cư
trú của người yêu cầu chứng thực.

-

Thứ hai, về địa điểm chứng thực. Tại Điều 10 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ có quy định:
“Việc chứng thực được thực hiện tại trụ sở cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

chứng thực…”.
-

Thứ ba, về trách nhiệm của người yêu cầu chứng thực và người chứng thực
được quy định tại Điều 23 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng
02 năm 2015 của Chính phủ, cụ thể: “Người yêu cầu chứng thực chữ ký phải
chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản mà mình ký…; Người thực
hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người yêu
cầu chứng thực trong giấy tờ, văn bản”.


13

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ CHỨNG THỰC BẢN SAO VÀ
CHỨNG THỰC CHỮ KÝ
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày ngày 16 tháng 02 năm 2015 của
Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch đã khắc phục được một số hạn
chế của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP trước đây như quy định rõ các trường
hợp không được chứng thực chữ ký tránh sự lạm dụng của người dân trong
việc yêu cầu chứng thực chữ ký thay cho chứng thực hợp đồng, giao dịch; quy
định về trình tự, thủ tục thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch…..đồng
thời có nhiều quy định mới, góp phần rút ngắn thời gian thực
hiện chứng thực, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi yêu cầu chứng
thực hoặc thực hiện các hợp đồng, giao dịch dân sự, nhất là đối với người dân


vùng sâu, vùng xa, những nơi chưa có phòng hoặc văn phòng công chứng.

Tuy nhiên, bên cạnh đó Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm
2015 của Chính phủ đã bộc lộ một số bất cập qua quá trình thực thi.
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chứng thực bản sao từ bản
chính và chứng thực chữ ký
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chứng thực bản sao từ bản chính
Thứ nhất, Điều 6 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức tiếp nhận bản sao là một quy định mới nhằm ngăn chặn tình
trạng lạm dụng bản sao có chứng thực trong thực hiện các thủ tục hành
chính.Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn xảy ra tình trạng này khá nhiều mặc dù
có chiều hướng giảm so với trước khi Nghị định số 23/2015/NĐ-CP chưa
được ban hành. Theo số liệu thống kê của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
cho thấy, từ năm 2015 đến năm 2017, số yêu cầu chứng thực bản sao tiếp tục
tăng. Năm 2016, chứng thực 97.126.230 bản sao (tăng 18.539.184 bản so với
năm 2015); năm 2017 chứng thực 116.881.069 bản sao (tăng 19.754.839 bản
so với năm 2016); 6 tháng đầu năm 2018 đã chứng thực được 63.595.582 bản


14

sao (tăng gần 23% so với cùng kỳ năm 2017) 17. Bên cạnh đó còn xảy ra tình
trạng một số cơ quan tiếp nhận giải quyết thủ tục hành chính tự đặt ra thời hạn
sử dụng bản sao có chứng thực (không tiếp nhận bản sao đã được chứng thực
quá 6 tháng) không chỉ làm phát sinh chi phí (cả về thời gian và kinh phí) của
người dân mà còn làm gia tăng áp lực cho các cơ quan thực hiện chứng thực.
Trong khi các quy định không có bất kỳ quy định nào về thời hạn sử dụng của
bản sao y từ bản chính.
Thứ hai, theo quy định tại Điều 10 Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày
03 tháng 3 năm 2020 của Bộ Tư pháp có quy định“bản sao từ bản chính dùng
để chứng thực phải gồm đầy đủ số trang có thông tin của bản chính”. Như
vậy, theo quy định hiện hành thì việc chứng thực bản sao từ bản chính thì

người yêu cầu chứng thực phải chụp toàn bộ các trang có thông tin của bản
chính thì mới đủ cơ sở chứng thực bản sao, nội dung này vấp phải rất nhiều ý
kiến trái chều từ người dân với lý do việc chụp tất cả các trang có thông tin
của bản chính gây tốn kém chi phí chụp và phí chứng thực trong khi đó nhiều
trang thông tin là không cần thiết đối với người yêu cầu chứng thực.
Thứ ba, về quy định các trường hợp bản chính giấy tờ, văn bản không
được dùng làm cơ sở chứng thực bản sao tại Khoản 2, Khoản 4 Điều 22 Nghị
định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ. Theo đó,
trong trường hợp này Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015
của Chính phủ chỉ dừng lại ở mức định tính, phụ thuộc phần nhiều vào đánh
giá chủ quan của người chứng thực cũng như không có một định nghĩa nào có
thể diễn dãi rõ phạm trù đạo đức xã hội làm thước đo để cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền xác định thuộc hay không thuộc trường hợp không được chứng
thực bản sao từ bản chính.
Thứ tư, quy định về chế độ lưu trữ trong hoạt động chứng thực tại Điều
14 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ
“không đặt ra đối với bản sao được chứng thực, tuy nhiên, thực tế lại phát
sinh trường hợp bản sao đã được chứng thực nhưng người yêu cầu chứng
thực có hành vi gian dối sửa chữa bản sao sau khi đã được chứng thực. Nếu
17

/>

15

không lưu trữ bản sao thì cơ quan thực hiện chứng thực lại không có cơ sở để
đối chiếu khi có tranh chấp, sai sót xảy ra… Đặc biệt, việc nhận biết giấy tờ
giả hiện nay cũng rất khó khăn do việc làm giả rất tinh vi, khó phát hiện nhất
là trong thời đại công nghệ thông tin, điều này càng khó khăn hơn đối với các
loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp”18.

Thứ năm, “quy định về thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính
của UBND cấp xã đối với các văn bản, giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam cấp hoặc chứng nhận, tuy nhiên trong trường hợp văn bản được
thiết lập hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài thì UBND cấp xã không tiếp nhận
yêu cầu này mà hướng dẫn về Phòng Tư pháp hoặc tổ chức hành nghề công
chứng do không đảm bảo về mặt nội dung của văn bản. Điều này dẫn tới quy
định bị vô hiệu hóa và không phù hợp với thực tế”19.
Thứ sáu, theo quy định tại Khoản 1, Điều 19 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP thì “về nguyên tắc người yêu cầu chứng thực bản sao phải
chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp lệ, hợp pháp của bản chính giấy tờ,
văn bản dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao. Do đó, thời gian qua, khi
thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính, một số cơ quan thực hiện chứng
thực đã chủ quan không kiểm tra kỹ bản chính làm cơ sở để chứng thực nên
đã xảy ra tình trạng chứng thực cả những bản chính giả, cấp sai thẩm
quyền”20.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chứng thực chữ ký
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 2 Điều 23 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ quy định “Người
thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người
18 Ths. Phan Thị Phương Huyền, “Một số bất cập của Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng giao dịch và
kiến nghị hoàn thiện”, Khoa đào tạo nghiệp vụ, trường Cao đẳng Luật Miền Trung, Bộ Tư pháp.

19 Ths. Phan Thị Phương Huyền, “Một số bất cập của Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng giao dịch và
kiến nghị hoàn thiện”, Khoa đào tạo nghiệp vụ, trường Cao đẳng Luật Miền Trung, Bộ Tư pháp.

20 Ths. Phan Thị Phương Huyền, “Một số bất cập của Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng giao dịch và
kiến nghị hoàn thiện”, Khoa đào tạo nghiệp vụ, trường Cao đẳng Luật Miền Trung, Bộ Tư pháp.



16

yêu cầu công chứng trong giấy tờ, văn bản”. Như vậy, về nguyên tắc người
thực hiện chứng thực không chịu trách nhiệm về nội dung của văn bản, giấy
tờ mà chỉ chịu trách nhiệm về tính xác thực chữ ký là đúng của người yêu cầu
chứng thực. Việc xác định tư cách chủ thể người yêu cầu chứng thực thông
qua các giấy tờ tùy thân, tuy nhiên trên thực tế hiện nay việc giả mạo giấy tờ
tùy thân đang rất phổ biến dẫn đến tồn tại nhiều rủi ro trong việc xác thực chữ
ký của người yêu cầu chứng thực.
Thứ hai, về trường hợp tại thời điểm chứng thực, người yêu cầu chứng
thực không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không được
chứng thực chữ ký theo quy định tại KHoản 1 Điều 25 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ. Trên thực tế,
việc nhận biết người yêu cầu công chứng không nhận thức và làm chủ hành vi
của mình thường được người thực hiện chứng thực nhận diện thông qua hành
vi, thái độ trong quá trình giao tiếp để đánh giá về năng lực hành vi, tuy nhiên
việc đánh giá đó cũng chỉ mang yếu tố chủ quan và thiếu cơ sở pháp lý. Trong
khi đó, theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2015 có quy định các tiêu chí
xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân là đầy đủ, mất năng lực
hành vi dân sự, hạn chế hoặc khó khăn trong nhận thức. Do đó, theo tác giả
việc đánh giả cảm quan của người thực hiện chứng thực thông qua hành vi,
thái độ trong quá trình giao tiếp cùng với người yêu cầu chứng thực là chưa
đủ cơ sở pháp lý để từ chối yêu cầu chứng thực, việc từ chối khi có đủ cơ sở
pháp lý xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo quy định của Bộ
Luật dân sự năm 2015.
2.2. Nguyên nhân, giải pháp và hướng hoàn thiện pháp luật về
chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký
2.2.1. Nguyên nhân tồn tại bất cập trong công tác chứng thực bản sao

từ bản chính và chứng thực chữ ký
Việc tồn tại những hạn chế trong công tác chứng thực bản sao từ bản
chính và chứng thực chữ ký xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan, khách
quan khác nhau:


17

-

Về nguyên nhân chủ quan: đây là những nguyên nhân xuất phát từ bên trong ý
chí chủ quan của người yêu cầu chứng thực, người thực hiện chứng thực và kể
cả người làm công tác quản lý công tác chứng thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký, cụ thể có thể kể đến một số nguyên nhân như sau:
+ Xuất phát từ ý chí chủ quan của người yêu cầu chứng thực. Trong thời
gian vài năm trở lại đây, thực trạng gải mạo giấy tờ ngày càng trở nên phổ
biến, dưới các hình thức hết sức tinh vi nhằm mục đích gian dối, không trung
thực trong quá trình chứng thực nói chung và chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký nói riêng.
+

Xuất phát từ ý chí chủ quan của người thực hiện chứng thực. Có thể là do
kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn của người thực hiện chứng
thực chưa đủ đáp ứng công tác, cũng có thể xuất phát từ nguyên nhân
đánh giá chủ quan của người thực hiện chứng thực do pháp luật quy định
chưa cụ thể rõ ràng dẫn đến nhiều trường hợp từ chối không thỏa đáng
người yêu cầu.

- Về nguyên nhân khách quan: đây là những nguyên nhân xảy ra bên
ngoài ý chí chủ quan của con người, nó có thể xuất phát từ hệ thống pháp luật

về chứng thực chưa đồng bộ, nhiều quy định còn chưa cụ thể dẫn đến nhiều
cách hiểu khác nhau, hoặc quy định pháp luật về chứng thực chưa theo kịp sự
phát triển của xã hội…
2.2.2. Giải pháp và hướng hoàn thiện quy định pháp luật về chứng thực
bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký
Để các quy định về hoạt động chứng thực được hoàn thiện và phù hợp
với thực tế cũng như xu hướng chung của thế giới, tác giả đề xuất một số kiến
nghị như sau:
- Nhóm giải pháp liên quan đến hoạt động quản lý công tác chứng
thực:
+

Thứ nhất, để hạn chế vấn nạn giấy tờ giả mà nhất là giấy tờ tùy thân giả trong
thời gian hiện nay cần có sự liên kết phối hợp đồng bộ giữa nhiều Bộ, ngành
nhất là Bộ Công an trong việc đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống cơ sở dự liệu
quốc gia về tra cứu thông tin cá nhân. Sớm hoàn thiện công tác cấp


18

căn cước công dân có gắn mã vạch hoặc thẻ chip để đảm bảo tính bảo mật cao
cũng như hạn chế khả năng giả mạo giấy tờ.
+

Thứ hai, Cơ quan quản lý nhà nước về công tác chứng thực mà nhất là Bộ
Tư pháp cần sớm nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cơ chế chứng thực chữ
ký điện tử áp dụng trong việc chứng thực chữ ký cũng là một giải pháp hạn
chế vấn đề giả mạo chủ thể yêu cầu chứng thực.
Thứ ba, tiếp tục tăng cường thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20 tháng 6
năm 2014 của Thủ tướng chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng

lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực
hiện thủ tục hành chính.

+

+

Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về chứng thực:

Thứ nhất, “cần quy định định nghĩa chứng thực theo hướng xác định rõ
chứng thực là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chứng nhận về hình
thức các giấy tờ, văn bản. Từ đó có cách nhìn nhận rõ hơn về bản chất của
hoạt động chứng thực, không nhầm lẫn với hoạt động công chứng”21.
Thứ hai, về hoạt động chứng thực bản sao từ bản chính.

+

Hai là, nghiên cứu quy định thời hạn sử dụng bản sao có chứng thực, theo
đó bản sao có chứng thực không xác định về thời hạn.

+

Ba là, tiếp tục quy định về chế độ lưu trữ bản sao chứng thực với thời hạn lưu
trữ ngắn hạn nhằm có căn cứ chứng minh khi phát sinh tranh chấp.

+

Bốn là, quy định hướng dẫn chi tiết quy định tại Khoản 2, Khoản 4 Điều 22
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ.
Theo đó, hướng dẫn không chỉ dừng lại ở mức định tính mà cần chú trọng vào

việc định lượng làm cơ sở xác định mức độ hư hòng, củ nát, không xác định
nội dung, cũng như xây dựng chuẩn mực về các tiêu chí đạo đức xã hội làm
thước đo để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định thuộc hay

21 Ths. Phan Thị Phương Huyền, “Một số bất cập của Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng giao dịch và
kiến nghị hoàn thiện”, Khoa đào tạo nghiệp vụ, trường Cao đẳng Luật Miền Trung, Bộ Tư pháp.


19

không thuộc trường hợp không được chứng thực bản sao từ bản chính cũng
như trong chứng thực chữ ký.
+

Năm là, cần nghiên cứu điều chỉnh quy định tại Điều 10 Thông tư số
01/2020/TT-BTP ngày 03 tháng 3 năm 2020 của Bộ Tư pháp có quy định
“bản sao từ bản chính dùng để chứng thực phải gồm đầy đủ số trang có
thông tin của bản chính”. Như vậy, theo quy định hiện hành thì việc chứng
thực bản sao từ bản chính thì người yêu cầu chứng thực phải chụp toàn bộ
các trang có thông tin của bản chính thì mới đủ cơ sở chứng thực bản sao,
nội dung này vấp phải rất nhiều ý kiến trái chều từ người dân với lý do việc
chụp tất cả các trang có thông tin của bản chính gây tốn kém chi phí chụp và
phí chứng thực trong khi đó nhiều trang thông tin là không cần thiết đối với
người yêu cầu chứng thực.


PHẦN KẾT LUẬN
Bên cạnh công tác công chứng, công tác chứng thực nói chung và chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký nói riêng cũng ngày càng thể

hiện vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, là tiền đề giúp người
dân thực hiện các giao dịch khác trong xã hội.
Chính vị trí và vai trò của công tác chứng thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký đòi hỏi không chỉ về tính trung thực của người yêu cầu
chứng thực, sự tinh tường, am hiểu pháp luật, minh bạch, công bằng của
người thực hiện chứng thực mà để ngày một nâng cao hơn chất lượng thực
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các yếu tố như xây dựng thể chế, trong đó
chú trọng việc hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan đến chứng thực mà nhất
là chú trọng xây dựng các quy trình chứng thực, cải cách hệ thống quản lý nhà
nước về chứng thực, mạnh dạn áp dụng công nghệ 4.0 và tiếp thu các kinh
nghiệm của các nước phát triển trong lĩnh vực chứng thực để không ngừng cải
tiến nâng cao chất lượng phục vụ nhu cầu người dân về công tác chứng thực
nhằm mục tiêu đưa công tác chứng thực tại Việt Nam tiệm cận các nền chứng
thực tiên tiến trên thế giới.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
2. Luật Công chứng (Luật số 53/2014/QH13) ngày 20/6/2014.
3. Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (Luật số 29/2018/QH14) ngày 15/11/2018.
4. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng,
chứng thực.
5. Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính và chứng thực chữ ký.
6. Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao
từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực
hợp đồng, giao dịch.
7. Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày

16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
8. Quyết định số 860/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc phê duyệt quy trình
nội bộ giải quyết thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý
của Sở Tư pháp.
B. Tài liệu tham khảo
9. Giáo trình kỹ năng hành nghề công chứng, NXB Tư pháp.
10. Ths. Phan Thị Phương Huyển, “Một số bất cập của Nghị định 23/2015/NĐCP của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng giao dịch và kiến nghị
hoàn thiện”, Khoa đào tạo nghiệp vụ, trường Cao đẳng Luật Miền Trung,
Bộ Tư pháp.
C. Website
6. Http://baochinhphu.vn/Phap-luat/Lam-dung-ban-sao-chung-thuc-se-lam-xoimon-long-tin/353298.vgp.


PHỤ LỤC I
TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM PHỤC VỤ BÁO CÁO
STT

TÊN TÀI LIỆU

CƠ QUAN BAN HÀNH

GHI
CHÚ

1

Quy trình số 03 về chứng thực


Chủ tịch Ủy ban nhân

bản sao từ bản chính các giấy tờ,

dân Thành phố Hồ Chí

văn bản do cơ quan, tổ chức có

Minh

thẩm quyền của Việt Nam; cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền của
nước ngoài;cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của Việt Nam liên
kết với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền của nước ngoài cấp hoặc
chứng nhận trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh Quyết định số
860/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3
năm 2020 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Thành phố về việc phê
duyệt quy trình nội bộ giải quyết
thủ tục hành chính thuộc phạm vi
chức năng quản lý của Sở Tư
pháp
2

Quy trình số 04 về chứng thực


Chủ tịch Ủy ban nhân

chữ ký trong các giấy tờ, văn

dân Thành phố Hồ Chí

bảnQuyết định số 860/QĐ-

Minh


×