Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.19 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC …………………………………………………………………………....1
LỜI NÓI ĐẦU ………………………………………………………………………..2
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.

Khái

niệm

hợp

đồng

dân

sự

…………………………………………………....2
2.

Hiệu

lực

của

hợp


đồng

…………………………………………………………3
II. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
1.

Điều

kiện

của

chủ

thể

tham

gia

đích,

nội

dung

hợp

đồng


……………………………………...5
2.

Điều

kiện

về

mục

của

hợp

đồng………………………………...6
3.

Điều

kiện

về

sự

tự

nguyện


của

hợp

đồng……………………………………….7
4.

Điều

kiện

về

hình

thức

của

hợp

đồng…………………………………………...8
III. THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1.

Thực
trạng……………………………………………………………………....10

2.


Phương

hướng

hoàn

thiện………………………………………………………13
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………..14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………...15

1


LỜI NÓI ĐẦU
Bill Gate – một trong những người giàu có nhất trên thế giới đã từng
nhận định rằng: “ Tính chặt chẽ của hợp đồng chính là yếu tố duy trì sự ổn
định và thành công của các hoạt động kinh doanh”. Từ trước đến nay, hợp
đồng dân sự luôn là loại giao dịch dân sự mang tính chất phổ biến và thông
dụng nhất trong việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế hiện nay khiến
cho chúng ta ngày càng quan tâm đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
bởi chính nó là cơ sở pháp lý quan trọng đối với các bên tham gia giao kết hợp
đồng, đồng thời cũng góp phần tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng, thúc đẩy sự phát triển giao lưu dân sự thương
mại.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em xin lựa chọn đề tài: “Các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.”

NỘI DUNG

2


I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

1.

Khái niệm hợp đồng dân sự
Khái niệm hợp đồng dân sự được đề cập tại Điều 388 Bộ luật dân sự năm

2005:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”
Như vậy, hợp đồng dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn
quyền và lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Ngoài
ra, hợp đồng dân sự còn là căn cứ để tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác giải quyết các tranh chấp phát sinh. Ở Việt Nam, chỉ có những giao dịch
hợp pháp mới phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch.
Mọi cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc với các bên và được
pháp luật bảo hộ. Giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng để phát
sinh hiệu lực pháp luật thì đều phải tuân theo các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự được quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong

trường hợp pháp luật có quy định.
2.

Hiệu lực của hợp đồng
Việc quy định hiệu lực pháp luật của hợp đồng là một trong những vấn đề

quan trọng trong chế định hợp đồng dân sự. Nó nhằm xác định thời điểm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan
hệ hợp đồng. Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực pháp luật, bên có nghĩa vụ
bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền. Nếu các bên giao kết
3


hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ đã quy định trong hợp đồng, sẽ phải chịu
những hậu quả pháp lý nhất định theo hình thức do họ thỏa thuận hoặc do
pháp luật quy định.
Hợp đồng dân sự được giao kết hợp pháp sẽ có hiệu lực từ thời điểm giao
kết trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do pháp luật có quy định khác.
Điều này có nghĩa, hợp đồng hợp pháp có giá trị bắt buộc đối với các bên như
nghĩa vụ được quy định tại pháp luật tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng.
Khi hợp đồng dân sự được ký kết phù hợp với các điều kiện về chủ thể, nội
dung, hình thức và thủ tục của hợp đồng được quy định trong pháp luật, thì
hợp đồng đó có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Khi đó, những nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng phải được các bên thực hiện một cách đầy đủ.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận với nhau về
việc sửa đổi hay hủy bỏ hợp đồng. Khi các bên đã thỏa thuận với nhau hoặc
pháp luật có quy định về điều kiện sửa đổi hay hủy bỏ hợp đồng thì các bên
phải tuân thủ những điều kiện đó. Nếu một bên tự ý thay đổi hợp đồng mà
không có sự đồng ý của bên kia là vi phạm hợp đồng. Khi các bên không thỏa
thuận được với nhau về những điều kiện sửa đổi hay hủy bỏ của hợp đồng, thì

những điều khoản của hợp đồng mà các bên đã ký kết trước đó vẫn có hiệu
lực pháp luật và có giá trị bắt buộc các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Về nguyên tắc, hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Đối với hợp
đồng miệng, thời điểm giao kết là thời điểm các bên đã trực tiếp thỏa thuận
với nhau về nội dung của hợp đồng. Đối với hợp đồng bằng văn bản, thông
thường thời điểm giao kết là thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng. Tuy
nhiên, do pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng, cho nên nếu các bên có thỏa thuận với nhau về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm mà các bên
thỏa thuận đó. Trong trường hợp pháp luật có quy định về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng thì khi ký kết, các bên sẽ phải tuân theo quy định đó. Đối
với hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin
4


phép thì hợp đồng được xác định là có hiệu lực tại thời điểm văn bản hợp
đồng được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép.
II.

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
Điều 121 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Như vậy điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự được xác định tại Điều 122 Bộ luật dân sự năm
2005.
1.

Điều kiện về chủ thể của hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp


đồng hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách
nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự phải có ít nhất từ hai bên trở
lên, vì hợp đồng dân sự là một giao dịch pháp lý song phương hay đa phương.
Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể tức
là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể
của quan hệ dân sự. Chủ thể cứ hợp đồng dân sự có thể là cá nhân hay pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có năng lực hành vi dân sự.
Cá nhân:
Hợp đồng dân sự do cá nhân xác lập chỉ có hiệu lực khi phù hợp với mức
độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005
từ Điều 17 đến Điều 23)
-

Người từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trù
trường hợp bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng
lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được quyền xác lập
mọi hợp đồng dân sự.

5


-

Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân
sự chưa đầy đủ thì việc xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.


-

cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

-

người dưới 6 tuổi, người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự thì mọi giao dịch dân sự của họ đều do người đại diện theo pháp
luật xác lập, thực hiện.
Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác:
Các chủ thể này tham gia vào giao dịch dân sự thông qua người đại diện.

Pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể
mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù
hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi
hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành
lập pháp nhân (quy định tại Điều 88 Bộ Luật dân sự năm 2005. Hộ gia đình
và tổ hợp tác là chủ thể hạn chế của Luật Dân sự. Hai loại chủ thể này tham
gia các giao dịch phù hợp với phạm vi hoạt động của nó. Phạm vi hoạt động
của tổ hợp tác được thể hiện trong hợp đồng hợp tác quy định tại Điều 111.
Tóm lại, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng
thông qua người đại diện hợp pháp và phải đúng với phạm vi đại diện và lĩnh
vực hoạt động.
2.

Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng
Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:


“Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp
luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Ðiều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
6


Ðạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.”
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên
chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng.
Mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được
khi xác lập hợp đồng đó.
Nội dung của hợp đồng bao gồm nhiều điều khoản như đối tượng, giá, địa
điểm, thời gian thực hiện hợp đồng… Bất kỳ điều khoản nào trong nội dung
của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp
đồng đó bị coi là vô hiệu. Tương tự như vậy, mục đích của hợp đồng mà vi
phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng
vô hiệu.
3.

Điều kiện về sự tự nguyện của hợp đồng
Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thoả

thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu
cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp
đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào…”
Sự tự nguyện ở đây bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý

chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí thì không thể có tự nguyện, nếu một
trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất thì cũng không thể đảm
bảo cho yếu tố tự nguyện. Hợp đồng dân sự được xác lập mà không có sự tự
nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do nhầm lẫn,
do bị lừa dối, bị đe dọa, do xác lập tại thời điểm mà không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình.
Hợp đồng giả tạo: là hợp đồng được lập ra nhưng không phản ánh đúng
bản chất của quan hệ đích thực giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác lập

7


hợp đồng để che đậy một giao dịch khác hay một hành vi trái pháp luật của
một hoặc các bên.
Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn: Nhầm lẫn là sự không trùng hợp ý
chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí. Hay nói cụ
thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối
tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý
nguyện đích thực của mình.
Hợp đồng xác lập do bị lừa dối: Điều 132 quy định: “Lừa dối trong giao
dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch
dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý
cung cấp thông tin sai sự thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà
xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ.
Hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa: Đe dọa được hiểu là “hành vi cố ý của
một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch
nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài
sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” (Điều 132). Sự đe
dọa thường được hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng

hành vi bạo lực vật chất hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí
hoặc làm mất khả năng kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện
vọng đích thực của họ.
Hợp đồng xác lập tại thời điểm người xác lập không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình: Điều 133 Bộ luật dân sự quy định “Người có năng
lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu”. Thời điểm không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình có thể là do dùng rượu, bia hay các chất kích thích
khác làm tạm thời mất đi khả năng nhận thức của họ. Trong trường hợp này,

8


họ phải chứng minh được trong lúc giao kết hợp đồng, họ đang ở trong tình
trạng không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
4.

Điều kiện về hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng dân sự là phương thức bày tỏ ý chí của các bên

tham gia quan hệ hợp đồng dân sự, là phương tiện để ghi nhận nội dung mà
các chủ thể đã thỏa thuận. Tùy vào độ tin tưởng lẫn nhau của các bên giao kết
hợp đồng mà có thể thỏa thuận, lựa chọn một hình thức hợp đồng cụ thể. Tại
điều 401 Bộ luật dân sự đã quy định:
1.

Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.


2.

Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Như vậy, hình thức của hợp đồng dân sự tương đối đa dạng, tạo điều kiện
cho các chủ thể ký kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp
luật đã quy định buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định thì các bên
phải tuân theo hình thức đó. Ngoài ra, đối với những hợp đồng khác, các bên
có thể lựa chọn một trong các hình thức sau đây để giao kết:
-

Hình thức miệng:
Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thỏa thuận

miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện
những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này được áp dụng trong
trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng
mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt
9


-

Hình thức viết (bằng văn bản):
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể


ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó,
các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên
xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình
thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức miệng.
Vì vậy, đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc
giao kết thì các bên thường chọn hình thức này.
-

Hình thức có chứng nhận, chứng thực:
Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối

tượng của nó là những tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát khi
chúng được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác thì các bên cần phải
lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng được lập ra theo hình
thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà
pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi của
mình được đảm bảo, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết.
Mối quan hệ giữa hình thức và hiệu lực của hợp đồng dân sự:
-

Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,
nếu pháp luật có qui định. Khi pháp luật qui định hợp đồng phải được lập
theo một hình thức xác định thì các bên phải tuân thủ. Nếu hợp đồng
không được lập đúng hình thức luật định, thì hợp đồng đó bị coi là vi phạm
điều kiện về hình thức. Hậu quả pháp lý của hợp đồng bị vi phạm về hình
thức là hợp đồng đó chưa được coi là hợp pháp và có hiệu lực.

-


Hình thức của hợp đồng là cơ sở để xác định thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng.
Hợp đồng miệng có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp thỏa thuận

với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng.

10


Hợp đồng bằng văn bản thường, có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản hợp đồng.
Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực, đăng ký hoặc xin
phép có hiệu lực tại thời điểm văn bản hợp đồng được chứng nhận, chứng
thực, đăng ký hoặc xin phép.
III. THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1.

Thực trạng
Trên thực tế, có rất nhiều tranh chấp xảy ra do hợp đồng vô hiệu bắt nguồn

từ các điều kiện được nêu trên.
Trong Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2005/DS-GĐT ngày 22/6/2005
của HĐTP –TANDTC, hợp đồng mua bán nhà được xác lập giữa người
chuyển nhượng là người Việt Nam với người nhận chuyển nhượng là người
Việt Nam đang định cư ở nước ngoài bị xem là vô hiệu do có nội dung trái
pháp luật. Bởi người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài theo pháp luật đất
đai, không thuộc diện được phép có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Hay một trường hợp khác, tại bản án số 1701/2005/DS-PT của TAND
thành phố Hồ Chí Minh ngày 08/8/2005: bị đơn có ký hợp đồng thuê nhà của
nguyên đơn với thời hạn là 05 năm, giá thuê là 20.000.000 đồng/tháng. Sau

khi hợp đồng ký kết, theo yêu cầu của nguyên đơn, đôi bên đã ký kết hợp
đồng mượn nhà tại Phòng công chứng nhằm mục đích để bên cho thuê được
lợi khi nộp thuế cho Nhà nước. Hợp đồng này cũng bị tòa tuyên xử vô hiệu do
giả tạo.
Tuy nhiên trên thực tế, không phải trường hợp nào cũng dễ xác định hợp
đồng đó có vô hiệu hay không khi vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng.
Đối với trường hợp vi phạm do trái với đạo đức xã hội gây nhiều khó khăn
trong thực tế. Bởi mỗi xã hội có quan niệm của mình về đạo đức, nên không
có đạo đức chung mà chỉ có đạo đức xã hội. Mặc dù khái niệm “đạo đức xã
11


hội” đã được định nghĩa cụ thể, rõ ràng trong Bộ luật dân sự năm 2005, nhưng
phạm trù “đạo đức” thực tế khá trừu tượng và không phải là bất biến, đôi khi
phụ thuộc rất lớn vào nhận thức chủ quan của mỗi người. Cả trên phương diện
lý luận và thực tiễn, vấn đề như thế nào là hợp đồng trái ‘đạo đức xã hội’, hiện
vẫn còn nhiều tranh cãi. Có quan điểm cho rằng, qui phạm đạo đức là loại qui
phạm vừa mang tính chủ quan của mỗi người, vừa mang tính xã hội và tính
giai chấp sâu sắc. Bên cạnh đó, đạo đức còn mang tính dân tộc và tính hiện
đại. Hơn nữa, thực tế vận dụng qui định này để tuyên bố hợp đồng vô hiệu
trong từng trường hợp cụ thể là điều không đơn giản.
Về hình thức của hợp đồng ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng. Có thể
thấy đây là vấn đề mà pháp luật hiện hành còn khá nhiều bất cập.
Thứ nhất, quy định về hình thức hợp đồng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót,
chưa nhất quán, chưa đảm bảo logic pháp lý giữa các điều luật liên quan, ví dụ
như ở khoản 2 Điều 122 quy định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Ở đây,
nhà làm luật chỉ đề cập đến trường hợp pháp luật có quy định mà không dự
liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng là điều

kiện.
Thứ hai, quy định về hình thức giải quyết hậu quả pháp lý của các hợp
đồng bị vi phạm về hình thức còn nhiều bất cập. Ảnh hưởng của yếu tố hình
thức đối với hợp đồng rất đa dạng, có thể làm hợp đồng vô hiệu hoặc làm mất
giá trị pháp lý đối với người thứ ba, có thể chứng minh được sự tồn tại của
hợp đồng, xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Tuy vậy, quy định tại Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 lại chưa đưa ra cách
thức xử lý đối với trường hợp vi phạm. Quy định này khi áp dụng vào thực tế
lại không khả thi và không đảm bảo được công bằng lợi ích đối với các bên.
Hơn nữa, quy định này còn khá chung chung, dẫn đến việc các tòa có các cách
áp dụng khác nhau. Còn các loại hợp đồng khác bị vi phạm hình thức, tòa án

12


thường tuyên bố hợp đồng vô hiệu chứ không buộc các bên thực hiện đúng
theo hình thức quy định.
Cách quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng trong Bộ luật dân sự còn chưa rõ ràng. Sự không rõ ràng này được hợp
thức hoá bởi nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao. Cụ thể, hợp đồng mua bán nhà ở không được công chứng và một
trong các bên yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu thì Toà án áp dụng nghị quyết
số 01/2003 sẽ bị tuyên bố vô hiệu, nếu hợp đồng công chứng, chứng thực
trong thời hạn một tháng (thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại
khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó) kể từ ngày có quyết định
của Toà án (quyết định yêu cầu thực hiện công chứng, chứng thực). Có thể
thấy cách giải quyết như vậy chưa thực sự hợp lý. Bới lẽ thứ nhất, hợp đồng là
sự thoả thuận và hình thức của hợp đồng chỉ là sự thể hiện ra bên ngoài ý chí
của chủ thể tham gia hợp đồng. Thứ hai, rõ ràng hợp đồng không được công
chứng, chứng thực là do một trong các bên không muốn. Mặt khác, theo quy

định tại Điều 136 và Điều 409 Bộ luật dân sự năm 2005, khi hợp đồng có đều
khoản không ghi rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn
phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó. Rõ ràng,
ý chí chung của các bên được đánh giá cao hơn hình thức biểu hiện ra bên
ngoài. Ý chí của các bên được hiểu là ý chí được biểu hiện tại thời điểm ký
kết hợp đồng. Trong khi đó, nếu theo điều 134 Bộ luật dân sự và Nghị quyết
số 01/2003 thì pháp luật có vẻ như ý chí được biểu hiện sau thời điểm hợp
đồng được ký kết. Điều này trái với lý thuyết về tự do ý chí cũng như nguyên
tắc giải thích hợp đồng.
2.

Phương hướng hoàn thiện
Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực là những yêu cầu phải

pháp lý phải được tuân thủ khi xác lập, giao kết hợp đồng mà nếu thiếu các
điều kiện đó thì hợp đồng đương nhiên vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Vấn đề
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được quy định khá rõ ràng trong Bộ
13


luật dân sự năm 2005, tuy nhiên một số vấn đề về hình thức của hợp đồng
chưa được hoàn thiện.
Về vấn đề quy định hình thức của hợp đồng: khoản 2 điều 122 nên sửa đổi
để làm sao có thể có sự linh động khi hai bên muốn hình thức hợp đồng là
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Cũng có ý kiến nêu lên việc sửa đổi, bổ
sung như sau: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định giao dịch phải được lập bằng một hình thức xác định.” Còn khoản 1
Điều 401 cũng nên sửa đổi theo hướng mở rộng và quy định linh hoạt hơn về
hình thức của hợp đồng, bảo đảm tối đa quyền tự do lựa chọn hình thức hợp

đồng của các bên chủ thể.
Về vấn đề giải quyết hậu quả của hợp đồng vi phạm hình thức, nên sửa
đổi, bổ sung khoản 1 Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 theo hướng xác định
rõ: khi các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định hình thức là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà toà án
xem xét để công nhận hoặc tuyên bố giao dịch đó vô hiệu, nếu xét thấy cần
thiết, công bằng và có căn cứ. Đồng thời, bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể để toà
án có căn cứ pháp lý khi xem xét, công nhận hiệu lực của hợp đồng nếu giao
dịch đó đã được các bên xác lập, thực hiện trên thực tế một cách ngay tình,
công bằng, đủ các điều kiện khác để hợp đồng có hiệu lực nhưng hình thức
không đúng quy định pháp luật. Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung quy định về
căn cứ để toà án có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Trên đây là một số vấn đề bất cập và phương hướng hoàn thiện của cá
nhân khi nghiên cứu về vấn đề hiệu lực của hợp đồng. Vấn đề này hiện nay
còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất, chính vì thể rất mong nhận được
ý kiến đóng góp của giáo viên bộ môn.

KẾT LUẬN
14


Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những điều kiện pháp lý
nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó. Đây là
điều kiện, là tiền đề pháp lý để hợp đồng được xác lập một cách hợp pháp.
Tuy nhiên, pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng còn chưa được rõ
ràng. Việc hoàn thiện pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là căn
cứ giúp cá nhân cũng như cơ quan có thẩm quyền thực hiện pháp luật một
cách đúng đắn hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


15



×