379
nào? 2- Việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
và ý nghĩa lịch sử.
Chương IX
VIỆT NAM BƯỚC ĐẦU ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(1976 - 1986)
Chương IX nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 10 năm đầu sau khi hoàn
thành thống nhất đất nước về Nhà nước.
Bốn tháng sau ngày miền Nam được hoàn toàn gi
ải phóng,
vào tháng 9-1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III)
triệu tập Hội nghị lần thứ 24 để quyết định nhiệm vụ cách mạng
cả nước trong thời kì mới.
Hội nghị nêu rõ cả nước có chung nhiệm vụ cách mạng xã
hội chủ nghĩa, nhưng trong thời kì đầu, do những đặc điểm
riêng, cách mạng mỗi miền có những yêu cầu khác nhau. Miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam
phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta được Đảng chính thức đề ra từ Đại hội
đạ
i biểu toàn quốc lần thứ IV; sau đó tiếp tục được bổ sung,
380
điều chỉnh và phát triển trong các Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc.
I- Đại hội đại hiểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và kế
hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1980)
1- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976)
Hơn 16 năm kể từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
III (9-1960), nhân dân ta đã vượt qua nhữ
ng thử thách cực kì
nghiêm trọng và giành được thắng lợi vẻ vang. Đất nước ta sạch
bóng quân xâm lược và đã hoàn thành thống nhất đất nước về
mặt Nhà nước.
Đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng cả nước, Đảng ta quyết
định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, từ ngày 14
đến ngày 20-12-1976 tại thủ đô Hà Nội.
Sau bài diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã
thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng do Lê Duẩn trình bày; Báo cáo về phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5
năm (1976-1980) do Phạm Văn Đồng trình bày; Báo cáo tổng
kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng do Lê Đức
Thọ trình bày.
Trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt của đất nước, Báo
cáo chính trị nêu lên 3 đặc điểm lớn:
Một là, "Nước ta vẫn ở trong quá trình từ một xã hội mà nền
kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"
1
.Đây là đặc
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội,
1977, tr. 47.
381
điểm lớn nhất của nước ta trên bước đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Đặc điểm này đã quy định cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện,
sâu sắc và triệt để; đồng thời cũng quy định tính chất lâu dài,
khó khăn và phức tạp của quá trình đó.
- Hai là, cả nước hoà bình, độc lập và thống nh
ất đang tiến
lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều
khó khăn do hậu quả chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa
thực dân mới gây ra. - Ba là, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song
cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa cách mạng và phản cách mạng
còn rất gay go và phức tạp. Những đặc điểm trên đều tác động
mạnh đến quá trình biến đổi của cách mạng nước ta. Vì vậy, bản
Báo cáo chính trị đã xác định đường lối chung của cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: "Nắm vững chuyên chính vô sản,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học-kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hoá, trong đó cách mạng khoa học-kĩ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường
xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự
xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc
lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội"
1
.
Trên cơ sở đường lối chung, Báo cáo chính trị nêu lên đường
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội đại bỉểu toàn quốc lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội,
1977, tr. 47.
382
lối kinh tế của nước ta trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội là "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh
tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng m
ột cách hợp lí trên cơ sở phát
triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công
nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-
nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển
kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa
phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp
phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan
hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa
anh em trên cơ sở chu nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời
phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững
độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt
Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công-nông
nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kĩ thuật tiên tiến, quốc
phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc"
1
.
Báo cáo chính trị đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế
hoạch phát triển kinh tế và vân hoá (1976 - 1980) nhằm hai mục
tiêu vừa cơ bản vừa cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống
nhan dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức thực hiện các nhiệm vụ
phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
giải quyết một cách vững chắc nhu cầu của cả nước về lương
thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng...
Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ sửa đổi của
Đảng.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng sđd, tr. 67.
383
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới do Lê Duẩn làm
Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội
toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, là đại hội mở đầu
thời kì cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2- Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980)
Mục tiêu cơ bản c
ủa kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) là phát
triển và cải tạo kinh tế - văn hoá, phát triển khoa học - kĩ thuật
nhằm xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa
xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước,
chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động.
Để đạt được những mục tiêu cơ bản ấy, Đảng ta chỉ rõ: Trong
5 năm (1976 - 1980), phải "tập trung cao độ sức của cả nước,
của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về
công nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát
triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả
tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp) nhằm giải quyết vững
chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một
phần quan trọng hàng tiêu dùng, cải thiện một bước đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân, tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa"
1
.
Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 có vị trí hết sức quan trọng, bởi
vì nó vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của 30 năm
chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới , vừa phải tổ chức lại
nền kính tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng một bước nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước, đặt cơ sở cho sự nghiệp
công nghiệp hoá nước nhà. Kế hoạch 5 năm được tiến hành
1. Đảng Cộng .sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội.
1977. tr.73.
384
trong hoàn cảnh có rất nhiều khó khăn, trở ngại. Vừa ra khỏi
cuộc chiến tranh chống Mĩ kéo dài trên 20 năm với bao hậu quả
nặng nề còn để lại, nhân dân ta phải liên tiếp đương đầu với
cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Tây Nam và phía
Bắc Tổ quốc, phải chống lại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt
của các thế lực thù địch cùng v
ới chính sách cấm vận của đế
quốc Mĩ . Không những thế, thiên tai lớn liên tiếp xảy ra trong
các năm 1977, 1978 đã gây nên những thiệt hại không nhỏ đối
với sản xuất.
Trải qua 5 năm thực hiện, nhân dân ta đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực khôi phục và phát triển
kinh tế, văn hoá.
Về khôi phục và phát triển kinh tế.
Sau 5 năm phấn đấu gian khổ, đến năm 1980, những hậu quả
nặng nề do chiến tranh và thiên tai gây ra đã được khắc phục.
Các cơ sở kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải
bị địch phá hoại trước đây về cơ bản đã được khôi phục và bước
đầu phát triển. Năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được
tăng cường một bước.
Trong công nghiệp, nhân dân ta xây dựng thêm nhiều nhà
máy mới về điện, xi măng, cơ khí động lực, đường, giấy, kéo
sợi... Sản xuất trong công nghiệp được bổ sung thêm 100.000
kw điện, 2 triệu tấn than, 50 vạn tấn xi măng
1
. Nhiều công trình
đang xây dựng (nhà máy xi măng, nhà máy điện, cơ khí động
lực, cơ khí đóng và sửa chữa tàu thuyền, các nhà máy đường,
nhà máy giấy...) sẽ đưa vào sản xuất trong những năm 1981 -
1985.
Hệ thống giao thông vận tải được khôi phục và xây dựng
thêm, gồm 1.700 km đường sắt, 3.800 km đường ô tô, 30.000
1.2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hột đại biểu toàn quốc lần thứ
V, Tập 1. NXB Sự thật. Hà Nội. 1982. tr.30.
385
mét cầu, 4.000 mét bến cảng...
1
. Đáng chú ý là tuyến đường sắt
thống nhất Bắc - Nam, sau 30 năm bị gián đoạn, đã trở lại hoạt
động bình thường. Trong nông nghiệp, nhờ tăng cường các biện
pháp khai hoang, thâm canh tăng vụ, diện tích gieo trồng được
mở rộng thêm gần 12 triệu hécta. Với kết quả này, lao động xã
hội bước đầu được phân bố lại, thu hút hàng triệu lao động ở
các vùng đông dân, chủ yếu là ở các thành thị miền Nam và
vùng đồng bằng Bắc Bộ, đi xây dựng các vùng kinh tế mới (chủ
yếu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và
Tây Nguyên). Sản xuất nông nghiệp được trang bị thêm 18.000
máy kéo các loại, đưa tỉ lệ cơ giới hoá làm đất lên 25% diện tích
gieo trồng
2
.
Về cải tạo quan hệ sản xuất:
Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh với tốc
độ nhanh trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam. Cuộc đấu
tranh nhằm xoá bỏ tư sản mại bản được tiến hành từ cuối năm
1975 và đến giữa năm 1976 thì hoàn thành. Tiếp đó là công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản
tư doanh được tiến hành theo phương châm cải tạo kết hợp với
xây dựng và tổ chức tại sản xuất. Đến giữa năm 1979, công
cuộc cải tạo đối với bộ phận tư
sản dân tộc căn bản hoàn thành. Trong công nghiệp, chúng ta
đã chuyển quyền sở hữu 1.500 xí nghiệp tư bản loại lớn và vừa,
rồi sắp xếp lại thành 650 xí nghiệp quốc doanh và công tư hơn
doanh, chiếm 70% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền
Nam. Các ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng được
sắp xếp và tổ chức lại.
Đại bộ phận giai cấp nông dân được tổ chức đi dần vào con
386
đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa được các hình thức thích
hợp (tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất và hợp tác xã sản
xuất). Đến cuối năm 1979, toàn miền Nam đã xây dựng được
hơn 600 hợp tác xã sản xuất 9.000 tập đoàn sản xuất và hàng
ngàn tổ đoàn kết sản xuất.
Về văn hoá - giáo dục - y tế:
Công cuộ
c xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong
cả nước. Văn hoá phản động, lạc hậu, đồi trụy do chế độ cũ để
lại ở miền Nam được loại trừ từng bước. Các hoạt động văn hoá,
văn nghệ, thể dục thể thao ngày càng mang tính chất quần chúng
rộng rãi. Các ngành Văn học, Nghệ thuật, Khoa học xã hội,
Thông tin, Báo chí... kịp thời phản ánh nhiệm vụ chính trị, làm
sáng rõ quan điểm, đường lối của Đảng.
Ngành Giáo dục từ mẫu giáo đến đại học và trung học
chuyên nghiệp đều phát triển mạnh. Riêng trong năm học 1979 -
1980, cả nước có gần 1,5 triệu học sinh mẫu giáo, khoảng 11,7
triệu học sinh phổ thông các cấp, trên 13 vạn học sinh trung học
chuyên nghiệp và 15 vạn sinh viên đại học. Tính chung, số
người đi học trong cả nước là 15 triệu người (bằng 1/3 số dân).
Trong các vùng mới giải phóng ở miền Nam, phong trào bình
dân học vụ phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều người tham gia;
nạn mù chữ trong vùng mới giải phóng về cơ bản đã được thanh
toán.
Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được chú trọng.
Mạng lưới y tế bao gồm các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm
y tế, nhà hộ sinh cơ sở điều dưỡng được mở rộng.
Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn của đất nước giai đoạn 1
976 - 1 980, những thành tựu đạt được về các mặt nêu trên là rất
to lớn. Những thành tựu ấy đã giúp cho nhân dân ta vượt qua
nhiều khó khăn, "phát triển lên một thế chiến lược mới, vững
chắc hơn so với trước đây, tạo ra khả năng to lớn hơn để bảo vệ